Diễn đàn

Tập huấn sử dụng phần mềm “Quản lý và khai thác kết quả khen thưởng cấp nhà nước”

BTĐKT - Ngày 23 - 24/11, tại Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Tổng công ty Giải pháp doanh nghiệp Viettel phối hợp Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức lớp tập huấn hướng dẫn sử dụng phần mềm "Quản lý và khai thác kết quả khen thưởng cấp nhà nước", thuộc Dự án “Chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả quản lý điều hành lĩnh vực thi đua, khen thưởng” và đào tạo nhân sự quản trị vận hành hệ thống. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Tổ trưởng Tổ Chuyển đổi số năm 2022 dự lớp tập huấn. Toàn cảnh lớp tập huấn Tham gia lớp tập huấn còn có các thành viên Tổ Chuyển đổi số năm 2022; Phòng Quản lý và Khai thác hồ sơ (những người trực tiếp sử dụng phần mềm); viên chức, nhân viên của Trung tâm Thông tin - Truyền thông, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Phần mềm “Quản lý và khai thác kết quả khen thưởng cấp nhà nước” là công cụ để quản lý toàn bộ quyết định khen thưởng cấp nhà nước được lưu tại Ban, tra cứu thông tin khen thưởng, báo cáo thống kê; dễ sử dụng, nhanh chóng, chính xác; giúp tiết kiệm thời gian và nhân lực. Tại lớp tập huấn ngày 23/11/2023, các chuyên gia của Viettel đã mô tả tổng quan phần mềm, giới thiệu và hướng dẫn các học viên thực hành sử dụng phần mềm. Sau phần thực hành, các học viên đã có những góp ý, trao đổi với Viettel để chỉnh sửa và hoàn thiện phần mềm. Các đại biểu và học viên dự lớp tập huấn Ngày 24/11/2023, Viettel tiếp tục hướng dẫn các học viên nội dung quản trị vận hành hệ thống. Chuyên viên Phòng Quản lý và Khai thác hồ sơ thực hành sử dụng phần mềm PV

Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức công tác thi đua, khen thưởng

BTĐKT - Chiều 17/11, Đoàn kiểm tra, giám sát (KTGS) của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Trung ương do đồng chí Bùi Quang Huy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Hội đồng TĐKT tỉnh Tiền Giang. Cùng dự có đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương và các thành viên Đoàn KTGS. Đồng chí Nguyễn Thành Diệu, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang phát biểu tại buổi làm việc với Đoàn KTGS Tiếp và làm việc với Đoàn KTGS có các đồng chí: Nguyễn Thành Diệu, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang; Trần Thị Thanh Tuyết, Giám đốc Sở Nội vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT tỉnh Tiền Giang; các thành viên Hội đồng TĐKT tỉnh; lãnh đạo các sở, ban, ngành tỉnh Tiền Giang… Đồng chí Trần Thị Thanh Tuyết, Giám đốc Sở Nội vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT tỉnh Tiền Giang báo cáo tại buổi làm việc Theo báo cáo của Hội đồng TĐKT tỉnh Tiền Giang, thời gian qua, phong trào thi đua và công tác khen thưởng được tỉnh Tiền Giang triển khai theo đúng kế hoạch; đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phục vụ kịp thời sự chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và hướng dẫn về chuyên môn của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Hoạt động của các cụm, khối thi đua và công tác xét thi đua dần đi vào nền nếp. Cùng với triển khai 5 phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động, ngay từ đầu năm, Ủy ban nhân dân tỉnh phát động phong trào thi đua với nhiều hình thức đa dạng, phong phú gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao, yêu cầu phát triển của từng cơ quan, đơn vị. Tiêu biểu là: Chuyên đề thi đua “Đảm bảo trật tự an toàn giao thông”; thi đua “Cải cách hành chính”; thi đua thực hiện tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thi đua “Nâng cao chất lượng xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên” giai đoạn 2022 - 2025; thi đua “Toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm” giai đoạn 2022 - 2025 trên địa bàn tỉnh; thi đua “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi” giai đoạn 2023 - 2025… Phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh đã được tổ chức thực hiện có hiệu quả, phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ, động viên các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Công tác khen thưởng thành tích phát triển kinh tế - xã hội có nhiều tiến bộ, khen đúng người, đúng việc, động viên kịp thời gương người tốt, việc tốt để giáo dục, góp phần tạo niềm phấn khởi trong lao động, sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, tỉnh cũng chú trọng khen thưởng đối tượng là công nhân, nông dân, người lao động, người trực tiếp sản xuất, cán bộ khoa học kỹ thuật, các thành phần kinh tế và khen người tốt, việc tốt. Lấy hiệu quả công việc làm tiêu chuẩn bình xét trên nguyên tắc “công bằng, dân chủ và công khai”, góp phần đưa Luật Thi đua, khen thưởng đi vào cuộc sống. Tỷ lệ khen thưởng cho người lao động trong năm 2021 chiếm 57,1%, năm 2022 chiếm 63,9% và 9 tháng đầu năm 2023 chiếm 61,7%. Hiện nay, tỉnh Tiền Giang không tồn đọng khen thưởng thành tích kháng chiến. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến đã có những chuyển biến rõ nét, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng với các cơ quan báo, đài trong việc giới thiệu, tuyên truyền các điển hình tiên tiến. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trao đổi tại buổi làm việc Tại buổi làm việc, các thành viên Đoàn KTGS đã trao đổi với tỉnh đi sâu vào các nội dung cụ thể hóa các phong trào thi đua, các cuộc vận động của trung ương tại tỉnh; việc phát huy vai trò của các thành viên Hội đồng TĐKT tỉnh; việc đổi mới phương pháp tuyên truyền, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến; việc kịp thời khen thưởng, biểu dương thành tích, đặc biệt của các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, những tập thể, cá nhân có đóng góp lớn cho các phong trào, các cuộc vận động; các vấn đề chuyên môn nghiệp vụ TĐKT. Đồng chí Bùi Quang Huy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát biểu tại buổi làm việc Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Bùi Quang Huy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương chúc mừng và biểu dương những thành tích mà tỉnh Tiền Giang đã đạt được trong thời gian qua. Để phong trào thi đua yêu nước tiếp tục thực sự trở thành động lực mạnh mẽ trong xây dựng và phát triển tỉnh Tiền Giang ngày càng giàu đẹp, đồng chí Bùi Quang Huy đề nghị tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung: Đôn đốc các cấp, các ngành tiếp tục quán triệt, thấm nhuần sâu sắc tinh thần "càng khó khăn thì càng phải thi đua", tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn tiếp tục đề xuất, tham mưu hoàn thiện thể chế, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; kịp thời ban hành các quy định về thi đua, khen thưởng theo Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Cùng với đó, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức công tác thi đua, khen thưởng; đẩy mạnh chuyển đổi số; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao vai trò của cấp ủy Đảng, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, nâng cao năng lực cán bộ thực thi. Tập trung làm tốt công tác khen thưởng, bảo đảm kịp thời, công khai, minh bạch. Tăng cường tuyên truyền về các phong trào thi đua yêu nước, các điển hình tiên tiến, các mô hình mới, sáng tạo, gương “Người tốt, việc tốt” để giáo dục, nêu gương, tạo sự lan tỏa, truyền cảm hứng trong cộng đồng, xã hội... Đoàn KTGS khảo sát thực tế tại vườn sầu riêng của ông Nguyễn Đình Phục ngụ ấp Hòa Thinh, xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang Đoàn KTGS tham quan Hợp tác xã Sầu riêng Ngũ Hiệp Trong chương trình, Đoàn KTGS đã đi khảo sát thực tế tại vườn sầu riêng của ông Nguyễn Đình Phục, ngụ ấp Hòa Thinh, xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; tham quan Hợp tác xã Sầu riêng Ngũ Hiệp do ông Huỳnh Tấn Lộc làm Giám đốc. Phương Thanh

Bàn giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua

BTĐKT - Sáng 26/10, tại Hà Nội, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức Hội thảo “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng”. TS. Phan Văn Hùng, Phó Bí thư Đảng ủy Bộ Nội vụ, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương chủ trì hội thảo. Quang cảnh hội thảo Dự hội thảo có đại diện lãnh đạo, công chức, viên chức các phòng, đơn vị thuộc Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; các nhà khoa học, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng của một số bộ, ban, ngành trung ương. ThS. Nguyễn Công Hoan, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương báo cáo đề dẫn hội thảo Báo cáo đề dẫn hội thảo, ThS. Nguyễn Công Hoan, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin - Truyền thông, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương cho biết: Đề tài “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng” do ThS. Nguyễn Công Hoan làm chủ nhiệm đã tiến hành nghiên cứu cơ sở khoa học, quan điểm, chủ trương và các quy định của pháp luật về việc tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua; đưa ra khái niệm, nội dung, phân tích đặc điểm, các yếu tố ảnh hưởng, từ đó làm rõ các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua; quá trình triển khai việc tổ chức cụm, khối thi đua đến nay. Hội thảo được tổ chức nhằm làm rõ thêm một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua, đề xuất các giải pháp đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2024 - 2030. TS. Phan Văn Hùng, Phó Bí thư Đảng ủy Bộ Nội vụ, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát biểu tại hội thảo Phát biểu tại hội thảo, TS. Phan Văn Hùng cho biết: Tổ chức thi đua theo cụm, khối là một chủ trương của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương chỉ đạo thực hiện từ năm 2006 và đã được các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai trong cả nước. Việc tổ chức các cụm, khối thi đua được thực hiện trên cơ sở sự phân chia tương đối giữa các đơn vị, địa phương có chức năng, nhiệm vụ hoặc điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tự nhiên tương đồng. Các đơn vị, địa phương trong cụm, khối cùng nhau phối hợp tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện công tác thi đua, khen thưởng theo hướng dẫn của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Từ năm 2010, việc tổ chức cụm, khối thi đua làm cơ sở để đề nghị tặng Cờ thi đua đã được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật và tổ chức triển khai thực hiện nền nếp trong phạm vi cả nước. Đến năm 2022, vấn đề này đã được luật hóa tại Khoản 2 Điều 16 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Trên cơ sở quy định của pháp luật và hướng dẫn của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, trong những năm qua, tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua ở trung ương và các bộ, ban, ngành địa phương đã được triển khai tích cực và đạt được nhiều kết quả; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong tổ chức phong trào thi đua và thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Các cụm, khối thi đua thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng và có ý nghĩa: Tổ chức hội thảo, tọa đàm về chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng; tổ chức khảo sát, tham quan thực tế để tham khảo, học tập các mô hình, điển hình tiên tiến; phối hợp thực hiện công tác an sinh xã hội, tổ chức tập huấn nghiệp vụ, giao lưu thể thao, văn hóa, văn nghệ… Công tác đánh giá, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, bình xét, suy tôn đề nghị tặng Cờ thi đua của Chính phủ, Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương và các hình thức khen thưởng được thực hiện bảo đảm công khai, dân chủ, góp phần động viên các bộ, ban, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, hoạt động của các cụm, khối thi đua còn có những bất cập, hạn chế. Các kiến nghị, đề xuất của các nhà khoa học, nhà quản lý tại hội thảo sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện các vấn đề về lý luận, cơ sở khoa học, cũng như nghiên cứu những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với phương thức tổ chức thi đua cụm, khối, góp phần nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng những năm tiếp theo, đặc biệt trong quá trình triển khai Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 (có hiệu lực từ 1/1/2024), có quy định về hình thức và phạm vi thi đua theo cụm, khối do Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương và các bộ, ban, ngành, địa phương tổ chức. Tại hội thảo, các nhà khoa học, các chuyên gia, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng đã trao đổi, thảo luận về các nội dung: Một số vấn đề lý luận về cụm, khối thi đua theo chủ trương của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; chủ trương và các quy định của pháp luật về việc tổ chức cụm, khối thi đua; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cụm, khối thi đua tại một số bộ, ngành, địa phương; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức phong trào thi đua trong các cụm, khối thi đua; giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng… ThS. Đỗ Thúy Phượng, Trưởng phòng Phòng Tổ chức cán bộ, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trao đổi tại hội thảo Theo ThS. Đỗ Thúy Phượng, Trưởng phòng Phòng Tổ chức cán bộ, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác tổ chức cụm, khối thi đua, cần nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc và toàn diện về nội dung này, đặc biệt là những vấn đề thực tiễn, tiếp tục hoàn thiện các vấn đề mang tính lý luận. Từ đó, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các cụm, khối thi đua; đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua trong cả nước... ThS. Bùi Thị Thu Hương, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trao đổi tại hội thảo Để nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua trong các bộ, ngành, đoàn thể trung ương, ThS Bùi Thị Thu Hương, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất một số giải pháp: Tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị tham gia phong trào thi đua; tiếp tục quán triệt và thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng, xây dựng và hoàn thiện các quy định về công tác thi đua cụm, khối trong các bộ, ngành; nâng cao vai trò của bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng trong việc tổ chức và hoạt động thi đua theo cụm, khối. Ông Nguyễn Đình Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế trao đổi tại hội thảo Ông Nguyễn Đình Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế và ThS. Bùi Quang Đức, Phó Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đều nêu lên ý kiến: Cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp cần làm tốt công tác tham mưu, đề xuất, sắp xếp các đơn vị tham gia cụm, khối đảm bảo tính tương đối về đặc điểm tình hình, chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương, để khi tổ chức thi đua, các đơn vị có điều kiện để học tập, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. ThS. Bùi Quang Đức, Phó Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trao đổi tại hội thảo Ngoài ra, việc chia khối thi đua phải bám sát các văn bản quy định của trung ương về việc chia khối thi đua, về phương pháp chấm điểm thi đua. Cần có sự thống nhất trong việc xây dựng nội dung, mục tiêu thi đua rõ ràng, tiêu chí cụ thể, cách chấm điểm, bình xét trong từng đơn vị cụm, khối, làm cơ sở để các đơn vị dễ dàng so sánh, đánh giá mức độ thành tích, bình xét, xếp hạng thi đua đảm bảo theo quy định. Khi tiến hành đánh giá, nhận xét, suy tôn, đề nghị khen thưởng giữa các đơn vị trong cụm, khối phải thực sự mang tính khách quan, tránh hình thức, nể nang. ThS. Hoàng Thị Ánh Thư, Phòng Pháp chế - Thanh tra, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông trao đổi tại hội thảo ThS. Hoàng Thị Ánh Thư, Phòng Pháp chế - Thanh tra, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng: Cải cách hành chính là một trong những giải pháp quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nội dung thi đua, khen thưởng giữa các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước đã dần hoàn thiện, tạo sức bật trong công tác thi đua, khen thưởng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm, khối thi đua. TS. Phạm Thu Thủy, Chuyên viên chính Phòng III, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trao đổi tại hội thảo TS. Phạm Thu Thủy, Chuyên viên chính Phòng III, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đề xuất: Cần tăng cường sự lãnh đạo của các bộ, ban ngành và UBND cấp tỉnh đối với hoạt động cụm, khối thi đua; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản, hướng dẫn và tổ chức hoạt động khối thi đua đối với những đơn vị trong tỉnh, bộ, ngành, đoàn thể trung ương để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ hiện nay... Phương Thanh    

Hội nghị tập huấn công tác thi đua khen thưởng năm 2023

Sáng 24/10, tại Văn phòng UBND tỉnh Điện Biên, Sở Nội vụ tỉnh Điện Biên đã phối hợp với Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng năm 2023. Tham dự Hội nghị có Đồng chí Phạm Đức Toàn – Phó Trưởng ban, Ban TĐKT Trung ương; Đ/c Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng Phòng III, Ban TĐKT TW và các đồng chí Chuyên viên Phòng III – Ban TĐKT Trung ương. Về phía Sở Nội vụ tỉnh Điện Biên có Đ/c Trịnh Hoàng Thắng, Tỉnh uỷ viên – Giám đốc Sở Nội vụ - Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh Điện Biên, cùng cán bộ, công chức Ban TĐKT Sở Nội vụ tỉnh Điện Biên. Tham dự Hội nghị tập huấn có 191 cán bộ, công chức làm công tác TĐKT tại Các Sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, các cơ quan, đơn vị, Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và 10 đầu cầu trực tuyến tại 10 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh với 377 đại biểu là công chức làm công tác TĐKT tại các phòng, ban, cơ quan đơn vị trên địa bàn 10 huyện thị xã, thành phố tỉnh Điện Biên. Đ/c Trịnh Hoàng Thắng – Tỉnh uỷ viên – Giám đốc Sở Nội vụ - Phó Chủ tịch Hội đồng TĐKT tỉnh phát biểu khai mạc Hội nghị Tại Hội nghị các đồng chí báo cáo viên Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương đã truyền đạt một số nội dung đó là: Một số quy định mới của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022; Hướng dẫn nội dung cơ bản về xây dựng, tổ chức phát động phong trào thi đua thường xuyên, phong trào thi đua chuyên đề; Hướng dẫn xây dựng, phổ biến nhân rộng và trao đổi học tập kinh nghiệm điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua; Nội dung, thủ tục hồ sơ khen thưởng; Trao đổi, thảo luận, hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai nhiệm vụ về công tác thi đua, khen thưởng tại địa phương cơ sở. Đ/c Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng phòng Phòng III Ban TĐKT Trung ương, Truyền đạt nội dung Hội nghị tập huấn Thông qua Hội nghị tập huấn sẽ giúp nâng cao năng lực tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền tổ chức tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, công tác khen thưởng của cơ quan, đơn vị, địa phương; trang bị thêm kiến thức và nâng cao kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thi đua, khen thưởng đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đặc biệt trao đổi thảo luận giải đáp khó khăn vướng mắc trong thực tiễn triển khai ở cơ sở trong thời gian tới./.     Quang cảnh Hội nghị tập huấn công tác TĐKT năm 2023 Theo snv.dienbien.gov.vn

Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng đối với ngành Nội vụ

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đã ký ban hành Thông tư số 15/2023/TT-BNV ngày 15/10/2023 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng đối với ngành Nội vụ. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024; trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật dẫn chiếu tại Thông tư này được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế thì áp dụng theo các văn bản mới ban hành. Ảnh minh họa Thông tư số 15/2023/TT-BNV quy định chi tiết thi hành Khoản 4 Điều 24; Khoản 3 Điều 26; Khoản 3 Điều 27; Khoản 3 Điều 28, Khoản 6 Điều 74; Khoản 2 Điều 75; Khoản 6 Điều 84 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Thông tư này áp dụng đối với tập thể, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ, ngành Nội vụ và các tổ chức, cá nhân có thành tích, đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của Bộ, ngành Nội vụ. Thông tư quy định về tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến" như sau: Danh hiệu ''Lao động tiên tiến'' được xét tặng hàng năm cho cá nhân các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Nội vụ đạt các tiêu chuẩn theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Cá nhân được cấp có thẩm quyền cử tham gia các khóa học tập, đào tạo, bồi dưỡng thì thời gian này được tính để bình xét danh hiệu ''Lao động tiên tiến". Thời gian nghỉ chế độ thai sản theo quy định được tính để bình xét danh hiệu ''Lao động tiên tiến". Đối với cá nhân chuyển công tác về Bộ Nội vụ trong năm xét khen thưởng, cơ quan đề xuất bình xét khen thưởng cho cá nhân đó có trách nhiệm xin ý kiến nhận xét của cơ quan nơi công tác trước khi chuyển về Bộ Nội vụ nếu cá nhân có thời gian công tác ở cơ quan đó từ 06 tháng trở lên. Trường hợp cá nhân được điều động, biệt phái đến làm việc tại Bộ Nội vụ thì việc bình xét danh hiệu “Lao động tiên tiến" do cơ quan, đơn vị điều động, biệt phái thực hiện. Cơ quan, đơn vị tiếp nhận cá nhân được điều động, biệt phái có trách nhiệm cho ý kiến nhận xét về việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị và thực hiện các nhiệm vụ được giao trong thời gian điều động, biệt phái tại Bộ Nội vụ. Không bình xét danh hiệu “Lao động tiên tiến” đối với một trong các trường hợp sau đây: - Có thời gian tuyển dụng hoặc đang làm hợp đồng lao động dưới 06 tháng. - Nghỉ không tham gia công tác theo quy định của pháp luật trong năm từ 03 tháng đến dưới 06 tháng (trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều này). - Cá nhân đang trong thời gian xem xét thi hành kỷ luật hoặc điều tra, thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo đang được xác minh làm rõ. Về tiêu chuẩn, đối tượng xét tặng danh hiệu “Cờ thi đua của Bộ Nội vụ'': Danh hiệu “Cờ thi đua của Bộ Nội vụ” được xét tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 26 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Đối tượng xét tặng danh hiệu “Cờ thi đua của Bộ Nội vụ” là các tập thể tiêu biểu, dẫn đầu phong trào thi đua của cụm, khối thi đua do Bộ trưởng Bộ Nội vụ tổ chức, bao gồm: - Các Vụ, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Trung tâm Thông tin, Văn phòng Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ và các tổ chức đoàn thể. - Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ, Học viện Hành chính Quốc gia. - Các đơn vị thuộc Học viện Hành chính Quốc gia quy định tại Điều 3 Quyết định số 27/2022/QĐ-TTg ngày 19/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ. - Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thông tư số 15/2023/TT-BNV cũng quy định về: 1) Tiêu chuẩn, đối tượng xét tặng danh hiệu ''Tập thể lao động xuất sắc''; 2) Tiêu chuẩn, đối tượng xét tặng danh hiệu ''Tập thể lao động tiên tiến''; 3) Tiêu chuẩn xét tặng hoặc truy tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; 4) Tiêu chuẩn xét tặng Giấy khen./. Theo tcnn.vn

Thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

BTĐKT - Ngày 16/10, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã công bố quyết định thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng (TĐKT) tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT). Dự buổi công bố, về phía Ban TĐKT Trung ương, có các đồng chí: Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban; Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra, Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra. Về phía Bộ NN&PTNT có các đồng chí: Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Bộ; Ngô Hồng Giang, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT, Chủ tịch Hội đồng Sáng kiến Bộ; Nguyễn Hà Xuyên, Chủ tịch Công đoàn NN&PTNT Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng TĐKT Bộ; Lê Văn Thành, Chánh Văn phòng Bộ; Nguyễn Văn Trường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Bộ; đại diện lãnh đạo các đoàn thể, các vụ, đơn vị được thanh tra. Đồng chí Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra Ban TĐKT Trung ương, Trưởng đoàn Thanh tra công bố quyết định thanh tra Đồng chí Đỗ Ngọc Toàn, Trưởng phòng Phòng Pháp chế - Thanh tra Ban TĐKT Trung ương, Trưởng đoàn Thanh tra đã công bố toàn văn Quyết định số 2972/QĐ-BTĐKT của Ban TĐKT Trung ương ngày 5/10/2023 quyết định thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT tại Bộ NN&PTNT; nêu mục đích, yêu cầu, phương pháp và thống nhất lịch làm việc với các đơn vị được thanh tra. Đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban TĐKT Trung ương phát biểu tại buổi công bố Tại buổi công bố, đồng chí Phạm Đức Toàn, Phó Trưởng ban Ban TĐKT Trung ương phát biểu quán triệt hoạt động của Đoàn Thanh tra, yêu cầu Đoàn đảm bảo thực hiện nghiêm quy chế, quy định tổ chức và hoạt động, hoàn thành nhiệm vụ theo đúng kế hoạch đã đề ra. Đồng chí cũng đề nghị lãnh đạo Bộ, Hội đồng TĐKT Bộ NN&PTNT tiếp tục chỉ đạo các đơn vị được thanh tra phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện để Đoàn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng chí mong muốn các đơn vị chia sẻ, phản ánh những vấn đề thực tiễn đặt ra để Đoàn tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền trong quá trình hoàn thiện thể chế, pháp luật cũng như trong khâu tổ chức thực hiện công tác TĐKT thời gian tới. Đồng chí Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Bộ phát biểu tại buổi công bố Phát biểu tại buổi công bố, đồng chí Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Bộ thống nhất chương trình, nội dung làm việc của Đoàn Thanh tra và yêu cầu thủ trưởng các đơn vị liên quan sắp xếp thời gian, chuẩn bị hồ sơ, tài liệu, tổ chức làm việc với Đoàn theo đúng quy định và lịch làm việc đã thống nhất. Theo báo cáo của Hội đồng TĐKT Bộ NN&PTNT, thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, công tác TĐKT trong Bộ NN&PTNT luôn được Bộ trưởng, Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ quan tâm, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi. Công tác thi đua luôn được xác định vừa là nhiệm vụ, vừa là động lực cho phát triển. Hoạt động thi đua được coi là tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét khen thưởng trong các cơ quan, đơn vị và trong bộ, ngành. Nhiều phong trào thi đua yêu nước được phát động, tổ chức thực hiện, phù hợp với từng lĩnh vực của bộ, ngành. Phong trào thi đua được phát động luôn có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các tổ chức đoàn thể quần chúng, đã thu hút đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tham gia, có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn. Các phong trào chuyên đề, phong trào nhánh thuộc các lĩnh vực đã luôn bám sát với nhiệm vụ chính trị, kế hoạch công tác đã đề ra. Nhiều phong trào thi đua yêu nước đã có sức lan tỏa, được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tích cực hưởng ứng tham gia, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khí thế sối nổi góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của bộ, ngành. Phương Thanh

Khảo sát và trao đổi kinh nghiệm về công tác thi đua, khen thưởng tại Hungary

BTĐKT - Thực hiện Chương trình công tác, từ ngày 25/9/2023 đến ngày 30/9/2023, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức đoàn nghiên cứu, học tập, khảo sát và trao đổi kinh nghiệm về công tác thi đua, khen thưởng tại Hungary. Đoàn gồm 5 thành viên do đồng chí Phó Trưởng ban Phạm Đức Toàn làm Trưởng đoàn, đồng chí Ngô Thị Việt Hà, Phó Trưởng Phòng II làm Phó Trưởng đoàn và 3 thành viên trong đoàn, gồm: Đồng chí Nguyễn Thị Tuyết Mai, chuyên viên chính Phòng III; Đỗ Phương Quý, chuyên viên chính Phòng Pháp chế - Thanh tra; Nguyễn Quang Nam, chuyên viên Văn phòng Ban. Đoàn đã đến làm việc tại 5 cơ quan, đơn vị: Đại sứ quán Việt Nam tại Hungary; các cơ quan cấp trung ương: Văn phòng Thủ tướng, Văn phòng Quốc hội, Bảo tàng quốc gia Hungary, nơi trưng bày các hiện vật khen thưởng của Nhà nước Hungary từ năm 1922 đến nay; cơ quan cấp địa phương: Ủy ban Quận IV thuộc thành phố Budapest. Về nội dung, kết quả 1. Tại Đại sứ quán Việt Nam Đón tiếp và làm việc với Đoàn có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam Nguyễn Thị Bích Thảo, ông Lê Trọng Hà, Tham tán và các cán bộ chủ chốt của Đại sứ quán. Tại đây, Đoàn được tìm hiểu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Hungary, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hungary. Theo đó, Đoàn đã nắm bắt thông tin tổng quan về đất nước Hungary. Đoàn làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam tại Hungary 2. Tại Văn phòng Thủ tướng Tiếp và làm việc với Đoàn có: Bà Gabriella Bali, Phó Quốc vụ khanh (tương đương Thứ trưởng) cùng 2 Vụ trưởng là bà Tunde Folk, Vụ trưởng Vụ Khen thưởng và ông Vekony David, Vụ trưởng Vụ Pháp luật. Tại đây, Đoàn được nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ khen thưởng cấp Nhà nước của Hungary; cụ thể như sau: Đoàn công tác làm việc tại Văn phòng Thủ tướng Hungary a) Khái quát về khen thưởng của Hungary: Hungary có Luật Khen thưởng từ năm 2011, sửa đổi bổ sung năm 2013 và 2022. Trước khi có Luật Khen thưởng, Hungary đã có nhiều hình thức khen thưởng cấp nhà nước. Cụ thể: Năm 1922, Hungary có Huân chương Chữ thập, Huân chương Công đức với 5 hạng, từ hạng 1 đến hạng 5. Huân chương hạng Nhất được trao cho những người cấp cao, bộ trưởng, các tướng lĩnh và các chức sắc cao nhất giáo hội. Huân chương hạng Nhì tặng cho bộ trưởng, đại sứ, giám mục, tướng lĩnh, các thành viên cấp cao của chính quyền và tư pháp, các nhân vật nổi bật trong lĩnh vực văn hóa, khoa học. Huân chương hạng Ba để tặng cho các vận động viên có thành tích xuất sắc, các giáo sư, cố vấn, các thành viên giáo sĩ, tu viện trưởng, giám mục, giám đốc các công ty có tầm quan trọng quốc gia… Huân chương hạng Tư tặng cho các thư ký chính quyền địa phương, giáo viên, bác sĩ, giáo sĩ. Huân chương hạng Năm để tặng cho các hạ sĩ quan. Bên cạnh huân chương, Hungary còn có Huy chương Vàng, Huy chương Bạc và Huy chương Đồng để tặng cho những nhân viên có cấp bậc thấp hơn. Năm 1939, Hungary có Huân chương Công đức Hungary với biểu tượng chữ thập lớn và vương miện thánh để dành tặng chủ yếu cho người nước ngoài như một nghi thức ngoại giao. Ngoài ra, còn có các Huân chương Thập tự sĩ quan Hungary, Huân chương Thập tự của Tư lệnh Hungary, Huân chương Hiệp sĩ Hungary, Huy chương dũng cảm để tặng cho các sĩ quan, tướng lĩnh. Sau Thế chiến thứ hai, Hungary đã ban hành Đạo luật XXI quy định: Huân chương Công trạng Hungary và Huân chương Công trạng chữ thập để tặng cho các công dân, sĩ quan Hungary và người nước ngoài có những đóng góp xuất sắc trong việc thúc đẩy lợi ích của Hungary độc lập và dân chủ. Huân chương Công trạng Hungary được chia thành năm hạng (1, 2, 3, 4, 5) và Huân chương Công trạng chữ thập được chia thành 3 hạng (Vàng, Bạc, Đồng). Năm 1991, Hungary ban hành đạo luật XXXI đổi tên Huân chương Công trạng thành Huân chương Thập tự giá của Hungary, quy định: Huân chương để ghi nhận những hoạt động xuất sắc và mẫu mực trong việc thúc đẩy lợi ích của đất nước và làm phong phú các giá trị nhân loại phổ quát. Năm 2011, Luật Khen thưởng CCII của Hungary, bao gồm các quy định về việc sử dụng quốc huy, quốc kỳ, các biểu trưng quốc gia và khen thưởng cấp Nhà nước được ban hành. b) Các hình thức khen thưởng cấp Nhà nước của Hungary theo Luật Khen thưởng được ban hành CCII năm 2011 và Luật XLIX năm 2023 về Giải thưởng Corvin và Hội đồng xét Giải thưởng Corvin. *Các hình thức khen thưởng Huân chương Thánh Stephano: Là Huân chương cao quý nhất của Hungary, dành tặng cho các cá nhân có công lao đặc biệt to lớn đối với Hungary, những cá nhân có những đóng góp xuất sắc trong cuộc sống, mang lại những giá trị quan trọng trên trường quốc tế vì lợi ích của Hungary. Mỗi năm, Tổng thống Hungary trao tặng tối đa 3 Huân chương Thánh Stephano. Huân chương Thánh Stephano thường dành tặng cho Tổng thống, Thủ tướng Hungary hoặc gần đây trao tặng cho một số cá nhân có thành tích đặc biệt, đóng góp to lớn cho đất nước, có phạm vi ảnh hưởng toàn thế giới trong các lĩnh vực. Giải thưởng Corvin: Là giải thưởng cao quý, dành tặng cho các cá nhân có thành tích tiêu biểu xuất sắc trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật. Cùng 1 thời điểm, chỉ có 15 cá nhân được trao tặng Giải thưởng Corvin. 15 cá nhân này tạo thành một Hội đồng để tham mưu xét chọn những cá nhân được đề cử nhận giải thưởng Corvin. Mỗi cá nhân được trao Giải thưởng sẽ được khắc tên trên hiện vật của Giải thưởng. Khi Giải thưởng khắc đủ 4 tên người được nhận Giải thưởng lên hiện vật (chuỗi vòng Corvin) thì sẽ được bảo quản, lưu trữ vĩnh viễn. Khi một trong 15 cá nhân đã được trao tặng không còn thì mới trao tặng để bổ sung người mới từ trong danh sách đã được duyệt. Huân chương Danh dự Hungary: Nhằm ghi nhận sự phục vụ xuất sắc của cá nhân hoặc những hành động anh hùng của cá nhân vì lợi ích của quốc gia Hungary. Hàng năm, Tổng thống Hungary trao tặng tối đa 15 Huân chương Danh dự Hungary. Huân chương Công trạng Hungary: Gồm Huân chương Công trạng Thánh giá lớn; Huân chương Công trạng Thánh giá Tư lệnh, Huân chương Công trạng Thánh giá chỉ huy, Huân chương công trạng sĩ quan, Huân chương Công trạng hiệp sĩ. Chủ yếu dành cho lực lượng vũ trang. Hằng năm, Tổng thống Hungary trao tặng không quá 5 Huân chương Công trạng Thánh giá lớn, 20 Huân chương Công trạng Thánh giá Tư lệnh, 40 Huân chương Công trạng Thánh giá chỉ huy, 140 Huân chương Công trạng sĩ quan, 300 Huân chương Công trạng hiệp sĩ. Huân chương Chữ thập Hungary: Gồm Huân chương Chữ thập Vàng, Huân chương Chữ thập Bạc, Huân chương Chữ thập Đồng. Huân chương Chữ thập Hungary tặng cho các cá nhân để ghi nhận những hoạt động xuất sắc, mẫu mực của cá nhân đó trong phục vụ đất nước góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước và các giá trị nhân loại. Hàng năm, Tổng thống Hungary trao tặng không quá 250 Huân chương Chữ thập Vàng, 250 Huân chương Chữ thập Bạc, 250 Huân chương Chữ thập Đồng. *Nguyên tắc xét khen thưởng: - Không khen thưởng cho tập thể, chỉ khen thưởng cho cá nhân - Không truy tặng (chỉ khen thưởng đối với người còn sống) - Mang tính chất tưởng thưởng, cá nhân được nhận hình thức khen thưởng không có tiền thưởng kèm theo (trừ Giải thưởng Corvin) - Ai cũng có quyền đề cử người khác, nếu thấy xứng đáng; nhưng không được đề cử khen thưởng cho bản thân và người thân - Cá nhân chỉ được nhận một mức hạng Huân chương một lần - Cá nhân đã được nhận hình thức khen thưởng cấp nhà nước thì trong vòng 10 năm sau mới được đề cử hình thức khen thưởng nhà nước và phải chứng minh được thành tích nổi bật, vượt trội hơn thành tích đã được ghi nhận tại hình thức trước. - Không tặng hình thức khen thưởng cấp Nhà nước cho cá nhân đã bị kết án vì phạm tội, bất kể người đó có được miễn trừ hậu quả pháp lý hay không (trừ trường hợp đặc biệt xứng đáng được công nhận). Trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong công tác khen thưởng - Trách nhiệm của các cơ quan: + Ủy ban Khen thưởng Quốc gia: Có trách nhiệm tổng hợp và xét từng trường hợp đề nghị khen thưởng cấp Nhà nước. Ủy ban gồm 1 Phó Thủ tướng là Chủ tịch Ủy ban và các ủy viên. Các ủy viên Ủy ban gồm các Bộ trưởng, 1 Vụ trưởng Vụ khen thưởng và 1 cá nhân đại diện Văn phòng Tổng thống. + Các bộ: Chịu trách nhiệm thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ qua Ủy ban Khen thưởng Quốc gia để xét, trình Tổng thống khen thưởng cấp nhà nước. Đây là bộ lọc về chuyên môn (các cá nhân, cơ quan, tổ chức đề cử đều phải thông qua bộ lọc này để xem xét, đánh giá uy tín và mức độ thành tích của cá nhân với hình thức khen thưởng đề nghị). Các bộ có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ nhằm mục đích chuẩn bị trao tặng và tránh trao tặng huân chương nhiều lần cho 1 cá nhân. Các bộ có bộ phận giúp việc cho Bộ trưởng về công tác khen thưởng. + Vụ Khen thưởng trực thuộc Văn phòng Thủ tướng: Có trách nhiệm tổng hợp hồ sơ đề nghị khen thưởng; kiểm tra lý lịch tư pháp của các cá nhân được đề nghị khen thưởng cấp nhà nước, trực tiếp giúp việc cho Ủy ban Khen thưởng Quốc gia. + Bộ phận giúp việc tại Văn phòng Tổng thống: Có trách nhiệm đối chiếu những đề nghị khen thưởng của Thủ tướng với Luật Khen thưởng để tham mưu cho Tổng thống ban hành quyết định khen thưởng. + Hội đồng xét Giải thưởng Corvin: Có trách nhiệm tham gia ý kiến trong việc xem xét thành tích của các cá nhân được đề cử trước khi báo cáo lên Ủy ban Khen thưởng Quốc gia. Hội đồng gồm 15 người đã được trao tặng Giải thưởng Corvin. Người đứng đầu Hội đồng xét Giải thưởng Corvin do Tổng thống bổ nhiệm. *Quyền và trách nhiệm của cá nhân được khen thưởng: + Quyền của cá nhân: Được giữ giải thưởng suốt đời (trừ Giải thưởng Corvin phải trả lại sau khi mất vì Giải thưởng Corvin được coi là tài sản quốc gia); được đeo giải thưởng vào các ngày lễ quốc gia và địa phương. Được tham gia các sự kiện cấp nhà nước trong các ngày lễ quốc gia và địa phương với tư cách khách mời. + Trách nhiệm: Cung cấp Sơ yếu lý lịch và thành tích xuất sắc được đề cử khen thưởng của cá nhân; cam kết đồng ý việc được đề cử và sẽ nhận hình thức khen thưởng cấp nhà nước nếu được duyệt; cho phép các cơ quan cập nhật vào cơ sở dữ liệu cá nhân để tìm hiểu thành tích và đồng ý chia sẻ thông tin cá nhân, những thành tích xuất sắc của cá nhân để tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng. *Quy trình, thủ tục khen thưởng - Quy trình, thủ tục khen thưởng đối với Huân chương Thánh Stephano, Huân chương Danh dự Hungary, Huân chương Công trạng Hungary và Huân chương Công trạng Chữ thập Hungary. + Bất cứ cá nhân, tổ chức nào của Hungary cũng có quyền được đề cử khen thưởng cấp Nhà nước cho các cá nhân mà họ thấy xứng đáng và gửi tới các Bộ trưởng phụ trách các ngành, lĩnh vực. Thủ tục gồm: Sơ yếu lý lịch và bản báo cáo thành tích của người được đề cử khen thưởng (báo cáo thành tích từ 3 - 4 trang) + Các bộ trưởng xem xét thành tích của các cá nhân được đề cử khen thưởng cấp Nhà nước, đối chiếu với các quy định của Luật khen thưởng. Nếu thấy xứng đáng thì gửi về Ủy ban Khen thưởng Quốc gia. + Ủy ban Khen thưởng Quốc gia: Thực hiện xét khen với từng trường hợp đề nghị khen thưởng và đề nghị Thủ tướng Chính phủ xét, trình Tổng thống khen thưởng cho các cá nhân. + Vụ Khen thưởng kiểm tra lý lịch tư pháp của các cá nhân được đề nghị khen thưởng cấp nhà nước. + Thủ tướng ký tờ trình trình Tổng thống khen thưởng + Tổng thống ban hành quyết định khen thưởng. + Văn phòng Tổng thống đăng công báo các trường hợp được khen thưởng. - Quy trình, thủ tục khen thưởng đối với Giải thưởng Corvin: + Bất cứ cá nhân, tổ chức nào của Hungary cũng có quyền được đề cử Giải thưởng Corvin cho các cá nhân có thành tích tiêu biểu xuất sắc trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật mà họ thấy xứng đáng và gửi tới Hội đồng xét Giải thưởng Corvin. Thủ tục gồm: Sơ yếu lý lịch và bản báo cáo thành tích của người được đề cử khen thưởng (báo cáo thành tích từ 3 - 4 trang) + Hội đồng xét Giải thưởng Corvin thực hiện xét với từng trường hợp. Với những cá nhân có thành tích xứng đáng thì Hội đồng gửi tới các Bộ trưởng phụ trách các ngành, lĩnh vực. + Các bộ trưởng xem xét thành tích của các cá nhân được đề cử giải thưởng Corvin. Nếu thấy xứng đáng thì gửi về Ủy ban Khen thưởng Quốc gia. + Ủy ban Khen thưởng Quốc gia: Thực hiện xét khen với từng trường hợp đề nghị khen thưởng và đề nghị Thủ tướng Chính phủ xét, trình Tổng thống khen thưởng cho các cá nhân. + Vụ Khen thưởng kiểm tra lý lịch tư pháp của các cá nhân được đề nghị khen thưởng cấp nhà nước. + Thủ tướng ký tờ trình trình Tổng thống khen thưởng + Tổng thống ban hành quyết định khen thưởng. + Văn phòng Tổng thống đăng công báo các trường hợp được khen thưởng. Bên cạnh việc khen thưởng nêu trên còn có những quy định khác như: Không có quy định về việc hủy quyết định khen thưởng và thu hồi hiện vật khen thưởng (có thể kêu gọi tự nguyện trả lại hiện vật). Tổng thống chỉ quyết định khen thưởng những trường hợp do Thủ tướng trình. Quyết định khen thưởng có chữ ký của cả đại diện Văn phòng Thủ tướng để xác nhận việc trình. Văn phòng Tổng thống có thể trả lại Tờ trình không đảm bảo yêu cầu, nhưng thực tế chưa xảy ra. Số lượng khen thưởng cấp nhà nước rất ít, mang tính danh dự rất cao, không đi kèm tiền thưởng hay ưu đãi nào và được trao những dịp trang trọng. Số lượng người được tặng thưởng Giải thưởng Corvin không được quá 15 người cùng lúc. Giải thưởng Corvin chỉ được trao tặng khi có một người đã được nhận giải thưởng qua đời, bị cấm hành nghề hoặc từ chối Giải thưởng. Việc từ chối Giải thưởng thực hiện khi cá nhân đó có văn bản gửi tới Văn phòng xét Giải thưởng Corvin. c) Trao tặng các hình thức khen thưởng - Huân chương Thánh Stephano, Giải thưởng Corvin và Huân chương Danh dự Hungary: Được Tổng thống trao tặng vào 2 dịp trọng thể của đất nước: ngày 15/3 (ngày lễ quốc gia) và 20/8 (ngày Quốc khánh Hungary). - Các hình thức khen thưởng còn lại: Tổng thống ủy quyền cho các Bộ hay các cơ quan liên quan tổ chức trao tặng. 3. Tại Văn phòng Quốc hội Đoàn làm việc tại Văn phòng Quốc hội Đoàn làm việc với bà Dukan Ildiko, Vụ trưởng Vụ Pháp luật thuộc Cục Xây dựng pháp luật, Văn phòng quốc hội Hungary và ông Vladár Zsolt, chuyên viên chính Vụ Pháp luật, Cục Xây dựng pháp luật Văn phòng Quốc hội Hungary. (Văn phòng Quốc hội có 4 Cục lớn, trong đó Cục Xây dựng pháp luật có Vụ Pháp luật).  Trong buổi làm việc, Đoàn được nghiên cứu, tìm hiểu về quy trình lập pháp nói chung và đặc biệt là quy trình các bước ban hành Chương trình xây dựng luật, quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung Luật Khen thưởng, Luật Giải thưởng Corvin và các hình thức khen thưởng của Văn phòng Quốc hội; cụ thể như sau: a) Quy trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung Luật Khen thưởng và Luật Giải thưởng Corvin. Công tác khen thưởng của Hungary được điều chỉnh bởi 2 luật: Luật Khen thưởng và Luật Giải thưởng Corvin. Bất kỳ Nghị sĩ (đại biểu Quốc hội) nào cũng đều có quyền sáng kiến lập pháp, đưa ra đề nghị xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật. Cũng như các luật khác, Luật Khen thưởng và Luật Giải thưởng Corvin được đưa vào Chương trình xây dựng và thông qua luật qua 4 giai đoạn: - Bước 1: Thảo luận về sự cần thiết xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật: Sau khi có đề nghị xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật, Ủy ban Tư pháp (trong trường hợp đối với Luật Khen thưởng) hoặc Ủy ban Văn hóa (đối với Luật Giải thưởng Corvin) lập hồ sơ xây dựng luật gồm: Giải trình sự cần thiết, kèm dự thảo luật. Khi có hồ sơ dự án luật, Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể và đề nghị các đại biểu Quốc hội tham gia ý kiến vào dự thảo luật. - Bước 2: Tiếp thu, chỉnh sửa. Ủy ban Tư pháp (hoặc Ủy ban Văn hóa) tiếp thu ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội vào dự thảo luật, trình Quốc hội. Quốc hội sẽ thảo luận và quyết định có nên xây dựng hay sửa đổi, bổ sung luật không. - Bước 3: Thảo luận tại Ủy ban Xây dựng Pháp luật của Quốc hội. - Bước 4: Phiên họp toàn thể Quốc hội, bỏ phiếu quyết định thông qua luật. Đối với Luật Khen thưởng, chỉ cần trên 50% Nghị sĩ biểu quyết đồng ý thông qua thì luật sẽ được ban hành. Tuy nhiên, Luật Giải thưởng Corvin được xác định là luật quan trọng, mang tính rường cột quốc gia nên phải có 2/3 Nghị sĩ biểu quyết đồng ý thì Luật Giải thưởng Corvin mới được ban hành. Tại các giai đoạn xây dựng và thông qua luật của Quốc hội đều có sự tham gia của đại diện Chính phủ. Đặc biệt, tại bước 4, Phiên họp toàn thể của Quốc hội, các Bộ trưởng đều được tham dự. Thể hiện xuyên suốt trong Luật Khen thưởng và Luật Giải thưởng Corvin là giá trị tinh thần (không kèm lợi ích vật chất hay đặc quyền ưu đãi nào). Tất cả các cá nhân có đóng góp lớn, thành tích xuất sắc thì đều được khen thưởng. Các bộ có trách nhiệm xem xét, đề nghị Thủ tướng Chính phủ xét và trình Tổng thống khen thưởng. Trong các quyết định khen thưởng cấp Nhà nước có chữ ký của Tổng thống và chữ ký xác nhận của đại diện Văn phòng Thủ tướng để thể hiện trách nhiệm của cơ quan trình khen thưởng. b) Về khen thưởng của Quốc hội Cũng như các cơ quan, tổ chức khác, Quốc hội Hungary có hình thức khen thưởng trong nội bộ (không phải khen thưởng cấp nhà nước) để tặng cho công chức và nhân viên của Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội Hungary tặng thưởng Giải thưởng Lajos Nasvay và Giải thưởng Károly Hajnik. - Giải thưởng Lajos Nasvay để vinh danh các công chức và nhân viên của Quốc hội có thời gian công tác từ 15 năm trở lên, có thành tích xuất sắc làm việc tại Văn phòng Quốc hội và hỗ trợ hoạt động của các Nghị sĩ quốc hội. Hằng năm, Chủ tịch Quốc hội tặng 1 Giải thưởng Lajos Nasvay cho công chức, nhân viên xuất sắc nhất. - Giải thưởng Károly Hajnik để vinh danh các công chức và nhân viên của Quốc hội có thời gian công tác từ 5 năm trở lên, có thành tích xuất sắc làm việc tại Văn phòng Quốc hội và hỗ trợ hoạt động của các Nghị sĩ quốc hội. Hằng năm, Chủ tịch Quốc hội tặng tối đa 8 Giải thưởng Károly Hajnik. Giải thưởng sẽ được Chủ tịch Quốc hội trao hàng năm vào ngày diễn ra phiên họp đầu tiên của Quốc hội (ngày 8/10). Cá nhân khi được trao Giải thưởng sẽ được nhận một Bằng giải thưởng, 1 Giấy chứng nhận và mức thưởng gấp 3 lần mức lương theo quy định. Huân chương Công trạng dành cho Khối Quân sự   Huân chương Công trạng dành cho Khối Dân sự 4. Tại Ủy ban Quận IV, thành phố Budapest Tiếp và làm việc với Đoàn là ông Czigler László, Phó Chủ tịch Quận. Trong buổi làm việc, Đoàn công tác được nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ khen thưởng khen thưởng của cấp địa phương nói chung và của Quận IV nói riêng; cụ thể như sau: Đoàn làm việc tại Quận IV Budapest a) Các hình thức khen thưởng ở Quận IV Cũng như các địa phương khác, Quận IV có hình thức khen thưởng cấp địa phương (không phải khen thưởng cấp nhà nước). Gồm 3 hình thức: - Công dân danh dự: Một năm Quận trao 1-2 danh hiệu Công dân danh dự - Giải thưởng của Quận: Một năm Quận trao 3-4 Giải thưởng - Bằng khen của Quận: Một năm Quận trao 5-6 Bằng khen b) Về quy trình đề cử và xét khen thưởng - Bất cứ cá nhân, tổ chức nào của Quận IV cũng có quyền được đề cử khen thưởng cấp Quận cho các cá nhân mà họ thấy xứng đáng và gửi tới Quận. Thủ tục gồm: Sơ yếu lý lịch và bản báo cáo thành tích của người được đề cử khen thưởng (báo cáo thành tích từ 3 - 4 trang). - Chủ tịch Quận IV sẽ xem xét thành tích của các cá nhân được đề cử khen thưởng, đối chiếu với các quy định khen thưởng của Quận. (có bộ phận chuyên môn tham mưu về công tác khen thưởng) - Nếu thấy xứng đáng thì Chủ tịch Quận trình Hội đồng Quận xem xét, khen thưởng - Hội đồng Quận xem xét, với sự giúp việc của Ban khen thưởng. Ban khen thưởng gồm các thành viên là thành viên Hội đồng, các chuyên gia ở các chuyên ngành khác nhau để xem xét, tham mưu quyết định. - Hội đồng Quận ban hành quyết định khen thưởng.  c) Nguyên tắc khen thưởng - Không khen cho tập thể, chỉ khen cho cá nhân - Không thu hồi hiện vật khen thưởng - Không có tiền thưởng - Không nhất thiết khen ở cấp dưới mới khen ở cấp trên; trong một số trường hợp, thành phố Budapest đã khen nhưng Quận IV thấy thành tích xứng đáng vẫn có thể khen với cùng thành tích đó. - Đối với công chức, nhân viên thuộc các đơn vị trực thuộc Quận có thể nhận khen thưởng Giấy khen của Quận để biểu dương những thành tích, đóng góp của cá nhân trong công tác (thực hiện theo quy trình trong nội bộ của cơ quan, đơn vị). - Việc trao thưởng diễn ra kết hợp với những sự kiện quan trọng, sự kiện văn hóa lớn của thành phố, của quận, ngày truyền thống… 5. Tại Bảo tàng quốc gia Hungary Tại Bảo tàng Quốc gia Hungary, Đoàn được nghe giới thiệu và nghiên cứu, tìm hiểu thông tin, hình ảnh, hiện vật tại phòng trưng bày các hiện vật khen thưởng của Nhà nước Hungary từ năm 1922 đến nay. PV

Nhân rộng mô hình, sáng kiến nỗ lực vượt khó, sáng tạo

BTĐKT - Ngày 7/10, Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam tổ chức tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, nhân rộng mô hình, sáng kiến tiêu biểu trong Chương trình "1 triệu sáng kiến nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19". Phát biểu đề dẫn tọa đàm, Chánh Văn phòng Tổng LĐLĐ Việt Nam Nguyễn Xuân Hùng nhấn mạnh: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực” và “Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người”. Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam Trần Thanh Hải chủ trì tọa đàm Thực hiện lời dạy của Người, nhằm hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước về công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 và phong trào thi đua đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ phát động “Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19”; quyết tâm thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội, ngày 15/12/2021, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phát động Chương trình “1 triệu sáng kiến - nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19”. Sau 10 tháng phát động, với sự vào cuộc trách nhiệm, nỗ lực quyết tâm cao của các cấp công đoàn, hưởng ứng tích cực của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước, chương trình đã hoàn thành chỉ tiêu 1 triệu sáng kiến, sớm 332 ngày so với kế hoạch đề ra. Theo thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đã có 59/82 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành trung ương và tương đương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu chương trình. Trong đó, có nhiều đơn vị có tỷ lệ vượt chỉ tiêu cao như: Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa đăng ký 100.000 sáng kiến, gấp 2,7 lần chỉ tiêu định hướng (vượt 73.066 sáng kiến); Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội đăng ký 130.000 sáng kiến, gấp hơn 2 lần chỉ tiêu định hướng (vượt 67.000 sáng kiến); Liên đoàn Lao động thành phố Hải Phòng đăng ký 45.000 sáng kiến, gấp 1,5 lần chỉ tiêu định hướng (vượt 15.427 sáng kiến); Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh đăng ký vượt chỉ tiêu 12.000 sáng kiến... Đại diện Công ty TNHH Điện Stanley Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm triển khai chương trình tại tọa đàm Một số cụm thi đua đạt kết quả cao như: Cụm thi đua 6 Liên đoàn Lao động tỉnh Bắc Trung bộ; Cụm thi đua 7 Liên đoàn Lao động tỉnh Biên giới phía Bắc; Cụm thi đua 7 Liên đoàn Lao động tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc; Cụm thi đua 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; Cụm thi đua 5 Liên đoàn Lao động thành phố trực thuộc trung ương. Phát biểu tại tọa đàm, Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam Trần Thanh Hải đánh giá cao những công nhân, viên chức, lao động đã trực tiếp có những sáng kiến, sáng tạo tham gia chương trình. Có sáng kiến làm lợi trên 500 tỷ đồng. Nhiều sáng kiến làm lợi trên 100 tỷ đồng. Số sáng kiến làm lợi trên 30 tỷ đồng là rất nhiều. Ông cho rằng, sự thành công của chương trình có vai trò quan trọng của những người sử dụng lao động, nhiều trong số họ đã có chính sách khen thưởng, động viên kịp thời gương sáng kiến, từ đó tạo niềm tin và động lực cho đoàn viên, người lao động. Chương trình 1 triệu sáng kiến là hoạt động thi đua có ý nghĩa thiết thực và quan trọng nhất của các cấp công đoàn chào mừng đại hội công đoàn các cấp và Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, nhiệm kỳ 2023 - 2028”, ông Hải nhấn mạnh. Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đã cùng nhau trao đổi, thảo luận về một số nội dung cơ bản như: Phát huy tinh thần nghiên cứu, học tập, ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại công nghiệp 4.0; sự nỗ lực, phấn đấu vượt khó, sáng tạo trong từng vị trí công việc cụ thể; sự tham gia, hưởng ứng chủ động, tích cực các phong trào thi đua do tổ chức công đoàn và doanh nghiệp phát động; động lực, nỗ lực vượt khó để xây dựng ý tưởng, sáng kiến góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Các đại biểu cũng chia sẻ vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở và chủ doanh nghiệp trong việc triển khai ý tưởng, ứng dụng sáng kiến; kết quả và sự lan tỏa tinh thần thi đua yêu nước, hỗ trợ đồng nghiệp tại các đơn vị, doanh nghiệp; sức lan tỏa phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” thông qua tổ chức các giải thưởng tôn vinh công nhân lao động… Những kinh nghiệm được các đại biểu trao đổi, chia sẻ tại buổi tọa đàm chính là động lực khơi dậy sức sáng tạo, niềm say mê lao động sản suất, góp phần xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” để ngày càng có nhiều nhân tài, nhiều công nhân giỏi, kỹ sư, kỹ thuật viên ưu tú đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Mai Thảo

Thành phố Cần Thơ: Tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng năm 2023.

BTĐKT - Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong thời gian tới, khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng trong năm 2023, sáng ngày 29/9, Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng năm 2023. Đến dự lớp tập huấn có bà Hồ Lâm Bạch Vân, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng thành phố; ông Trần Quốc Đạt, Phó Trưởng phòng Phòng Công chức, viên chức, Sở Nội vụ. Cùng dự có hơn 150 đại biểu là cán bộ, công chức, viên chức phụ trách công tác thi đua, khen thưởng ở các Ban Xây dựng Đảng thuộc Thành ủy; các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành phố; các quận, huyện, các trường cao đẳng - đại học, các ngân hàng và các cơ quan trung ương thuộc cụm, khối thi đua trên địa bàn thành phố. Bà Hồ Lâm Bạch Vân, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng, thuộc Sở Nội vụ thành phố triển khai các nghị định của Chính phủ; văn bản của Bộ Nội vụ và các hướng dẫn của Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ Nội dung của lớp tập huấn được triển khai gồm các chuyên đề trọng tâm như sau: Chuyên đề 1: Công văn số 5007/BNV-TĐKT ngày 05/9/2023 của Bộ Nội vụ về việc nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng và Hướng dẫn số 31/HD-HĐTĐKT ngày 25/7/2023 của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng thành phố về biểu dương, khen thưởng các cá nhân có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thành phố Cần Thơ và các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong đợt thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương. Chuyên đề 2: Nghị định số 48/2023/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Chính phủ. Chuyên đề 3: Hướng dẫn số 1832/HD-SNV ngày 15/6/2022 của Sở Nội vụ thực hiện quy định về công tác thi đua, khen thưởng;Công văn số 483/BTĐKT-NV ngày 04/5/2023 của Ban Thi đua - Khen thưởng về việc đánh giá kết quả công tác thi đua, khen thưởng hằng năm. Chuyên đề 4: Hướng dẫn ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận hồ sơ qua cổng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Bà Trần Thị Ngọc Dung, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng, thuộc Sở Nội vụ thành phố thông qua nội dung lớp tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng Ông Trần Quốc Đạt, Phó Trưởng phòng Phòng Công chức, viên chức, thuộc Sở Nội vụ triển khai các nội dung liên quan đến việc đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức Ông Phạm Thành Kỳ, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng, thuộc Sở Nội vụ triển khai các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ thi đua, khen thưởng Đại biểu tham dự lớp tập huấn trao đổi nghiệp vụ về công tác thi đua, khen thưởng Lớp tập huấn đã giúp cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng được trao đổi kinh nghiệm, bổ sung kiến thức, hướng dẫn tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; từ đó có nhiều giải pháp, biện pháp sáng tạo, sát với tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị để tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua và công tác khen thưởng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Xuân Phúc    

Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và chuyển đổi số hiện nay

BTĐKT - Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) nhằm nâng cao chất lượng trong cơ quan nhà nước là nội dung quan trọng trong quá trình cải cách nền hành chính nhà nước nói chung và cải cách công vụ, công chức nói riêng. Công tác này trở nên cấp thiết hơn khi tình trạng không ít CBCCVC có năng lực nghỉ việc thời gian qua và khi triển khai Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong bối cảnh đang thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Bài viết đi sâu phân tích nội hàm lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về quản lý CBCCVC theo vị trí việc làm và khung năng lực, có so sánh với một số cách thức quản lý nguồn nhân lực khác, qua đó đối chiếu với thực tiễn trong nước để làm rõ, đóng góp một số nội dung tham khảo trong quá trình thu hút, giữ chân và phát triển CBCCVC có năng lực trong cơ quan nhà nước thời gian tới. Từ khóa: Vị trí; Việc làm; Khung năng lực; Quản lý cán bộ, công chức, viên chức  (nguồn internet) 1. Cơ sở lý luận về quản lý CBCCVC theo vị trí việc làm và khung năng lực 1.1. Vị trí việc làm Theo lý thuyết quản lý nguồn nhân lực, một công việc (hay một việc làm) bao gồm một nhóm nhiệm vụ phải thực hiện để một tổ chức đạt được các mục tiêu của mình. Một việc làm có thể là yêu cầu công việc của một người, như việc làm của người đứng đầu cơ quan, hoặc là công việc của vài chục người như trường hợp của các nhà điều hành trong một công ty lớn. Một vị trí là tập hợp các nhiệm vụ và trách nhiệm, thường do một người thực hiện; mỗi cá nhân đều giữ một vị trí trong một tổ chức. Một số nước sử dụng thuật ngữ vị trí việc làm như là một vị trí nghề nghiệp, một công việc cụ thể có chức danh bao gồm một tập hợp các nhiệm vụ có liên quan do một người thực hiện nhằm đạt được một mục đích nhất định. Một số nước sử dụng thuật ngữ vai trò tại nơi làm việc song song với thuật ngữ vị trí việc làm, nhấn mạnh vào người đảm trách vị trí việc làm hơn là vào bản thân công việc đó. Như vậy, có thể hiểu vị trí việc làm là công việc ứng với một vị trí lao động thực tế, trong một địa điểm và tại một thời điểm nhất định, được đánh giá và đãi ngộ cho việc thực hiện công việc đó. Hoàn thành yêu cầu công việc của vị trí việc làm là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành yêu cầu nhiệm vụ trong công việc đó, đánh giá chất lượng, kết quả thực thi của từng cá nhân. Quản lý theo vị trí việc làm nhấn mạnh vào việc đáp ứng theo yêu cầu công việc của một vị trí, một công việc cụ thể. Vị trí việc làm trong khu vực công ở nước ta hiện nay gắn với cơ cấu ngạch công chức, chức danh viên chức để xác định biên chế công chức, số lượng viên chức, bố trí sắp xếp nhân sự trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Theo tính chất, khối lượng công việc, có vị trí việc làm đặc thù chỉ do một người đảm nhận; có một số vị trí việc làm để thực hiện một công việc do nhiều người đảm nhận; trên thực tế, có vị trí việc làm kiêm nhiệm. Có vị trí việc làm theo chức vụ lãnh đạo, quản lý; có vị trí việc làm theo lĩnh vực công tác chuyên sâu, đặc thù; có vị trí việc làm theo chuyên môn nghiệp vụ dùng chung (như tài chính, kế hoạch và đầu tư, thanh tra, pháp chế, hợp tác quốc tế, tổ chức cán bộ, thi đua - khen thưởng, văn phòng); có vị trí việc làm theo công việc mang tính tác nghiệp, hỗ trợ, phục vụ... Căn cứ xác định vị trí việc làm là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức; mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, quy mô hoạt động; phạm vi, đối tượng phục vụ; quy trình quản lý, quy trình giải quyết công việc chuyên môn, nghiệp vụ. Cấu trúc của mỗi vị trí việc làm trong cơ quan, tổ chức, đơn vị gồm bản mô tả công việc và khung năng lực phù hợp để phục vụ công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực. Các bộ phận cấu thành vị trí việc làm gồm: Tiêu đề vị trí việc làm (chức danh); nhiệm vụ và quyền hạn của người đảm nhiệm vị trí việc làm (chức trách); yêu cầu về trình độ, kỹ năng chuyên môn mà người đảm nhiệm vị trí việc làm phải đáp ứng (tiêu chuẩn); tiền lương tương xứng với vai trò của người đảm trách vị trí việc làm, chế độ đãi ngộ và các điều kiện làm việc. Nguyên tắc xác định và quản lý vị trí việc làm cần bảo đảm: Tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý CBCCVC; xác định và điều chỉnh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị; gắn với chức danh nghề nghiệp, chức vụ lãnh đạo quản lý tương ứng; bảo đảm tính khoa học, khách quan, công khai, minh bạch và phù hợp với thực tiễn.  (nguồn internet) 1.2. Khung năng lực Khung năng lực được cấu thành từ các năng lực, là tập hợp của các khả năng, kỹ năng, kinh nghiệm, thái độ và các phẩm chất cần có để người CBCCVC thực hiện hiệu quả chức trách, nhiệm vụ trong cơ quan, tổ chức. Đó là công cụ mô tả các năng lực cần thiết phù hợp với một dạng hoạt động cụ thể, một nghề nghiệp, tổ chức hoặc ngành nghề nhất định. Khung năng lực có thể bao gồm những năng lực đại diện cho các năng lực được tích hợp cần thiết để đảm bảo năng suất, hiệu quả tối đa theo các tiêu chuẩn do tổ chức đặt ra. Đây là công cụ quan trọng để đánh giá kết quả thực thi, phục vụ công tác lập kế hoạch phát triển nghề nghiệp của cá nhân, quy hoạch kế cận và phát triển tài năng của tổ chức. Khung năng lực mô tả sự kết hợp cụ thể về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi và những đặc tính cá nhân khác cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ đó đạt năng suất, hiệu quả. Khung năng lực thường bao gồm các thành phần cơ bản như sau: 1) Tên năng lực hoạt động chính, được sử dụng để xác định chức năng, nhiệm vụ của công việc; 2) Định nghĩa năng lực, để mô tả chung về hành vi, kỹ năng và những hoạt động cần thực hiện để đạt được kết quả mong muốn; 3) Các cấp độ năng lực, để xác định hành vi của người CBCCVC cần có để thực hiện hiệu quả công việc và làm chủ khả năng đó. Các cấp độ được sắp xếp theo chiều tăng dần của kiến thức, kỹ năng và thái độ với công việc. Khi đã đạt năng lực ở cấp độ cao thì tất yếu đã có năng lực ở cấp độ thấp hơn; 4) Chỉ số năng lực, để mô tả mức độ mà người CBCCVC làm chủ được các tiêu chí của các cấp độ năng lực; chỉ số này được thể hiện bằng những thông số cụ thể. Như vậy, khung năng lực nhấn mạnh vào con người thực hiện công việc, là tập hợp các năng lực - là các kỹ năng, kiến thức và hành vi có thể quan sát và đo lường được, giúp thúc đẩy sự tiến bộ về năng lực, góp phần nâng cao kết quả thực thi của người CBCCVC và thành công của tổ chức. Khung năng lực có thể phục vụ việc phân tích tình trạng hẫng hụt kỹ năng, so sánh giữa năng lực sẵn có và năng lực cần có của các cá nhân CBCCVC và của cả cơ quan, tổ chức; qua đó, giúp nhận diện năng lực còn thiếu, dự báo được năng lực nào cần bổ sung, phát triển để thực thi hiệu quả trong công việc hiện tại hoặc chuẩn bị sẵn sàng cho công việc sắp tới của cá nhân cũng như toàn tổ chức. Việc gắn kết cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực với cách thức quản lý theo kết quả thực thi ngày càng trở nên quan trọng vì các tổ chức cố gắng có sự cân bằng hợp lý giữa mục tiêu đạt kết quả đã xác định và cách thức hoàn thành công việc của CBCCVC. Hiện nay, nhiều quốc gia đã áp dụng kết hợp cách thức quản lý nguồn nhân lực theo năng lực với cách thức quản lý theo kết quả thực thi để xây dựng khung năng lực bao hàm tất cả các năng lực thuộc về hành vi cũng như các năng lực về chuyên môn nghiệp vụ (kỹ năng), áp dụng trong toàn bộ hoặc một phần của tổ chức. Trong thực tiễn cải cách tiền lương một số nước gợi mở việc xây dựng hệ thống đãi ngộ tổng thể, trong đó tăng lương cơ bản gắn với việc nâng cao năng lực của cá nhân, và thực hiện khen thưởng và một số hình thức khích lệ vật chất, tinh thần mang tính khuyến khích để đạt các mục tiêu theo kết quả với hiệu suất cao. Do đó, các cơ quan, tổ chức có thể tham khảo, xây dựng hệ thống đãi ngộ, khen thưởng, đào tạo, bồi dưỡng và thăng tiến theo năng lực, khuyến khích CBCCVC đạt năng lực cao hơn chuẩn đã định hay có tiến bộ trong nâng cao năng lực thực tiễn, khuyến khích việc đổi mới sáng tạo, thi đua đạt thành tích, kết quả cao trong thực thi nhiệm vụ. 2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực 2.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực phù hợp Thứ nhất, thực hiện phân tích công việc theo vai trò nhằm xác định đặc điểm, tính chất của từng (nhóm) chức danh, vị trí việc làm. Quá trình xây dựng khung năng lực thực chất là hoạt động thu thập, phân tích và xử lý thông tin để đưa ra một bộ các năng lực cần có cũng như các tiêu chí đánh giá năng lực đối với một vị trí, một công việc hoặc một nhóm vị trí việc làm nhất định. Khi xây dựng khung năng lực, cần bắt đầu từ khối lượng, tính chất công việc và chức năng, nhiệm vụ. Xác định được năng lực chủ yếu mà người đảm trách phải có để thực hiện hiệu quả một công việc, một vị trí công tác. Phân tích công việc là quá trình, qua đó một tổ chức nghiên cứu, phân chia công việc và phân công cho các đơn vị, các vị trí thực hiện. Qua phân tích công việc, các tổ chức còn xác định được chuẩn năng lực - đây là một quá trình mang tính hệ thống, thực hiện theo từng bước, đảm bảo những năng lực được xác định thông qua phân tích công việc thực sự là những năng lực cần thiết để hoàn thành công việc có chất lượng, hiệu quả. Phân tích công việc thường được tiến hành: Khi tổ chức được thành lập và chương trình phân tích công việc được khởi xướng lần đầu; khi một số công việc mới được tạo ra; khi các công việc có những thay đổi quan trọng theo yêu cầu đáp ứng công nghệ, phương pháp, quy trình hay hệ thống mới. Phân tích công việc thường được sử dụng nhiều nhất khi có sự thay đổi về bản chất, nội dung của công việc. Phân tích công việc giúp xây dựng Bản tiêu chuẩn công việc, bao gồm những trình độ, năng lực tối thiểu ở mức chấp nhận được mà một người cần đạt được để có thể thực hiện một công việc cụ thể. Trên thực tế, nhiều tổ chức kết hợp bản tiêu chuẩn công việc thành một nội dung trong bản mô tả công việc. Phân tích vai trò nhấn mạnh vào con người thực hiện công việc, là quá trình chỉ ra những kết quả mà người đảm nhận vị trí việc làm được trông đợi hoàn thành khi thực hiện công việc của họ; hành vi và kỹ năng họ cần có để đáp ứng các kỳ vọng đó. Hoạt động này là cơ sở để xây dựng hồ sơ vai trò - chỉ ra các lĩnh vực kết quả chính của vai trò, nhưng quan trọng hơn, xác định rõ các năng lực cần thiết để thực hiện thành công vai trò đó. Khung năng lực theo vai trò, được sử dụng để đánh giá cấp độ năng lực biểu lộ ra trong việc đạt được, hoặc có thể trong một số trường hợp, không đạt được các kết quả dự kiến. Đối với từng vị trí việc làm, phân tích công việc theo vai trò thu thập thông tin cần thiết về công việc và yêu cầu nhiệm vụ của vị trí việc làm, cũng như thái độ, hành vi, kỹ năng của người thực hiện vai trò đó để đạt chất lượng cao trong công việc. Theo đó, người đảm nhận vị trí việc làm có thể tiến hành tự đánh giá năng lực và kết quả thực thi, tự xác định các nhu cầu học tập, xây dựng lộ trình phát triển cá nhân của mình phù hợp với chiến lược của tổ chức. Phân tích công việc theo vai trò có thể dựa trên thông tin do CBCCVC thực thi công việc, đồng nghiệp, cấp trên và các bên có liên quan cung cấp theo phương pháp phản hồi 360 độ để đáp ứng yêu cầu của tổ chức cả trong hiện tại và tương lai. Thứ hai, xác định đầy đủ, chính xác các năng lực cần thiết để đạt được các kết quả đầu ra của vị trí việc làm nhằm tích hợp trong khung năng lực. Xác định vị trí việc làm không chỉ xác định khối lượng, số lượng nhiệm vụ, đầu việc phải thực hiện ở một vị trí, một công việc nhất định trong cơ quan, đơn vị mà quan trọng hơn là phải xác định được đặc điểm, tính đặc thù, độ phức tạp của công việc và trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết cũng như thái độ, ý thức trách nhiệm của người CBCCVC đối với công việc đó. Đây là căn cứ quan trọng trong việc thu hút, tuyển chọn, sử dụng CBCCVC có năng lực trong các cơ quan, đơn vị. Khi xây dựng bản mô tả công việc, cơ quan, tổ chức cần xác định các hoạt động và thời gian CBCCVC phải thực hiện để hoàn thành từng đầu việc, từng hoạt động ở mỗi vị trí việc làm và kết quả (sản phẩm) công việc của vị trí việc làm cũng như điều kiện làm việc (trang thiết bị, phần mềm quản lý, phương tiện, môi trường làm việc, phạm vi hoạt động, quan hệ công tác) của từng vị trí việc làm; từ đó, kết hợp với khung năng lực chung, sẽ cụ thể hóa thành khung năng lực, bản mô tả công việc cần có đối với vai trò của người đảm nhận vị trí việc làm đó. Qua việc xây dựng hệ thống khung năng lực và các bản mô tả công việc, có thể xác định được yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, hành vi và kỹ năng cần thiết của CBCCVC đảm trách từng vị trí việc làm. Đặc biệt, khung năng lực giúp xác định được các tiêu chí để lựa chọn ứng viên phù hợp với từng vị trí việc làm, phù hợp với văn hóa làm việc và môi trường công tác của cơ quan, tổ chức, ngành nghề, trong đó có tiêu chí về thái độ, hành vi ứng xử. Dựa vào cấp độ yêu cầu cho từng năng lực, các tổ chức có thể xây dựng kế hoạch thu hút, tuyển chọn, sử dụng CBCCVC và xác định cụ thể các kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết cho vị trí việc làm đó và sử dụng thông tin này làm tiêu chí đánh giá trong suốt quá trình tuyển chọn, sử dụng và phát triển CBCCVC.  (nguồn internet) 2.2. Vấn đề áp dụng cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC Một là, cần xác định được cấu trúc và yêu cầu của khung năng lực trong mối quan hệ với vị trí việc làm. Khung năng lực được xây dựng trên các phạm vi và mức độ khác nhau. Mức độ tổng thể, là “khung pháp lý” chung cho tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý hoặc cho chuyên môn, nghiệp vụ theo lĩnh vực, ngành nghề của cả nước hay toàn hệ thống công vụ để bảo đảm có sự thống nhất và nhất quán; đồng thời, phát huy được tính linh hoạt, độ “mở” nhất định để mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, tổ chức có thể cụ thể hóa các tiêu chuẩn chung này cho phù hợp với đặc điểm tình hình của cơ quan, tổ chức, đặc thù từng vị trí việc làm, lĩnh vực công tác và luôn đề cao nguyên tắc thực tài trong mọi trường hợp, mọi nội dung của công tác quản lý, phát triển nguồn nhân lực nói chung và quản lý CBCCVC nói riêng. Chỉ khi nào lượng hóa được các tiêu chí để đo lường một năng lực từ khung tổng thể đã quy định thì tính khả thi của khung năng lực mới có thể đạt được. Do đó, khi xây dựng khung năng lực cho các vị trí việc làm, cần phân tích rõ yêu cầu nhiệm vụ của công việc tương ứng với trình độ, cấp độ năng lực của CBCCVC cần đáp ứng. Khung này giúp nhận biết, đo lường năng lực của một CBCCVC so sánh với năng lực tại khung chung, đồng thời đánh giá chuẩn xác, khách quan việc thực thi nhiệm vụ, và hỗ trợ quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển năng lực cụ thể. Trong thời kỳ chuyển đổi số và có nhiều thay đổi nhanh chóng, khó lường hiện nay, nhiều hệ thống công vụ đã cập nhật vào khung năng lực một số năng lực mới như: năng lực dự đoán sự thay đổi để lên kịch bản ứng phó với từng tình huống; năng lực quản lý tổng thể để giải quyết đồng bộ những vấn đề phức hợp, cần có cơ chế phối hợp liên ngành; khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ năng mềm trong việc thực hiện nhiệm vụ. Trong quá trình cập nhật, hoàn thiện khung năng lực trong điều kiện chuyển đổi số, nhiều nước nhấn mạnh các năng lực của CBCCVC bao hàm cả thái độ, hành vi ứng xử, kỹ năng truyền thông, giao tiếp trên môi trường mạng nhằm tận dụng những lợi thế về công nghệ số và vượt qua những thách thức trong xây dựng và thực hiện chính phủ số, kinh tế số và xã hội số trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay. Hai là, xác định các nhóm năng lực cần thiết phục vụ công tác tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển năng lực CBCCVC. Để xây dựng đội ngũ CBCCVC đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở hiện tại và trong tương lai, cần xác định năng lực làm tiêu chuẩn để thực hiện các khâu của công tác cán bộ, từ thu hút, tuyển chọn, sử dụng, đánh giá đến luân chuyển, đề bạt, đãi ngộ và phát triển CBCCVC. Trong đó, chính sách quản lý CBCCVC không những tập trung vào kết quả thực thi mà còn chú trọng đến năng lực, cách thức cần có để hoàn thành mục tiêu công việc. Việc lập kế hoạch phát triển nghề nghiệp cá nhân, quy hoạch đội ngũ kế cận và tạo động lực thông qua chế độ đãi ngộ và khuyến khích vật chất, tinh thần dựa trên năng lực và theo kết quả thực thi, trên nguyên tắc thực tài, là điều kiện bảo đảm tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Khung năng lực dùng để tham chiếu trong việc đánh giá CBCCVC, là cơ sở cho việc đánh giá cấp độ năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của CBCCVC. Cơ quan, tổ chức căn cứ vào khung năng lực của vị trí việc làm để lựa chọn, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc, đúng sở trường, bổ nhiệm công chức theo đúng tiêu chuẩn, đãi ngộ theo năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ, hoặc quy hoạch vào các vị trí phù hợp với triển vọng để bồi dưỡng phát triển. Đồng thời, khung năng lực còn hỗ trợ hiệu quả việc xác định nhu cầu luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng hoặc nhận diện những năng lực mà CBCCVC chưa đạt chuẩn theo yêu cầu của vị trí việc làm để giúp họ có cách thức và nội dung học tập phù hợp. Một số hệ thống công vụ sử dụng thuật ngữ phát triển năng lực như là một quá trình giúp CBCCVC tiến bộ từ tình trạng hiểu biết và năng lực hiện tại sang tình trạng học thức, kỹ năng và năng lực theo yêu cầu của tương lai. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển diễn ra với hình thức của các hoạt động học tập để chuẩn bị cho mỗi CBCCVC gánh vác các trách nhiệm nhiều và cao hơn. Công tác phát triển giúp các cơ quan, tổ chức xây dựng đội ngũ CBCCVC quản lý cũng như chuyên môn đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai. Công tác này giúp nâng cao hiệu suất thực thi của CBCCVC, cung cấp các cơ hội phát triển và phục vụ cho việc quy hoạch nhân sự, chuẩn bị đội ngũ kế cận không chỉ phục vụ phát triển lãnh đạo mà còn phát triển chức nghiệp theo chuyên môn. Theo đó, thuật ngữ làm giàu công việc (làm phong phú nội dung công việc) được sử dụng nhiều để chỉ cách thức các cơ quan mở rộng nhiệm vụ, bổ sung trách nhiệm, quyền tự quyết trong vai trò mà CBCCVC được giao mà không nhất thiết phải bằng hình thức bổ nhiệm lên chức vụ cao hơn nhằm truyền nhiệt huyết yêu nghề và tạo điều kiện cho CBCCVC hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ba là, vận dụng cách thức quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực trong thu hút, giữ chân, trọng dụng người có tài năng . Quản lý tài năng bao gồm việc hoạch định và phát triển tài năng, được sử dụng như là cách thức nhấn mạnh các vấn đề của tổ chức trong việc thu hút và giữ được những người có tài năng. Tuy nhiên, một số tổ chức đánh giá quá cao nhân sự bên ngoài và chưa chú trọng nhân tài sẵn có. Một số tổ chức khác chỉ quan tâm đến những nhân sự chủ chốt nhằm nâng cao phẩm chất, tính hữu dụng và khả năng sử dụng linh hoạt các nhân viên có năng lực đặc biệt - những người có tác động ảnh hưởng lớn đến kết quả thực thi của tổ chức, bỏ qua những người có kiến thức, kỹ năng trên từng lĩnh vực, từng vị trí việc làm, có thể đóng góp lớn cho tổ chức nếu được phát huy năng lực, sở trường. Do vậy, nhiều nước thực hiện cách tiếp cận vừa thu hút những người có năng lực từ nhiều nguồn trong xã hội vừa tạo điều kiện phát triển năng lực đội ngũ CBCCVC hiện có. Họ xây dựng hệ thống công vụ mở hơn nhằm thu hút tài năng phong phú, từ nhiều khu vực ngoài nhà nước; đồng thời, nhấn mạnh khái niệm tài năng như là năng lực cụ thể trên từng vị trí, từng công việc để phát huy điểm mạnh, sở trường của từng CBCCVC trong cơ quan, đơn vị. Trong quá trình cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế, pháp luật về công vụ, công chức và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay, chúng ta có thể nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quản lý tài năng theo từng lĩnh vực, ngành nghề, vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC trong các cơ quan nhà nước. Trên cơ sở hệ thống khung năng lực với đầy đủ định nghĩa và mô tả cho từng cấp độ năng lực đối với từng vị trí, chức danh CBCCVC, có thể thu hút, đánh giá, trọng dụng và phát triển những người có tài năng, có năng lực phù hợp để bố trí vào các vị trí việc làm và phát triển cá nhân CBCCVC theo nguyên tắc thực tài. Việc kết hợp phù hợp cách thức thi để bổ nhiệm với cách thức xét tuyển thông qua quá trình rèn luyện, bồi dưỡng, luân chuyển cũng là một trong những cách thức tuyển dụng “mở” để lựa chọn người có đủ phẩm chất, năng lực và tín nhiệm để tuyển dụng vào các vị trí theo quy hoạch phát triển của tổ chức và kế hoạch phát triển cá nhân CBCCVC. 3. Đề xuất khung năng lực của CBCCVC và các điều kiện áp dụng Quá trình xây dựng khung năng lực cần chú ý đến các điều kiện và cách thức áp dụng sau: Thứ nhất, xác định rõ các năng lực của các vị trí và tích hợp được trong một khung năng lực. Quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực luôn gắn với việc xác định năng lực, xây dựng một khung năng lực và sử dụng khung năng lực đó như một căn cứ để tuyển chọn, đào tạo, phát triển, đãi ngộ theo (các) mục tiêu đã xác định của lĩnh vực quản lý nguồn nhân lực cụ thể. Một trong những vấn đề quan trọng là việc chuyển hóa các yêu cầu trong chiến lược của tổ chức thành các năng lực cá nhân cần thiết cho việc thực hiện và hỗ trợ chiến lược đó trong tổ chức. Cần tích hợp các năng lực đó trong một khung năng lực. Cần xác định khung năng lực đó được thiết kế phục vụ cho một hoặc một số mục đích quản lý nguồn nhân lực nào, chẳng hạn như để tuyển dụng CBCCVC đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, để phát triển một số năng lực cần thiết đang thiếu hụt, hay để thu hút tài năng trên một số lĩnh vực, công việc của tổ chức.  Các khung năng lực cần bao hàm các năng lực hành vi cũng như năng lực chuyên môn (các kỹ năng). Sau khi được soạn thảo, cần có sự đánh giá và điều chỉnh khung năng lực dựa trên ý kiến đóng góp của các bên liên quan. Việc xây dựng thành công một hệ thống các khung năng lực thống nhất và đồng bộ đòi hỏi phải có ba hướng tích hợp: tích hợp theo chiều dọc (liên kết với chiến lược phát triển của tổ chức), tích hợp theo chiều ngang (các quá trình, các khâu quản lý nguồn nhân lực khác nhau) và thực hiện xuyên suốt trong toàn hệ thống. Để thực hiện quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực, các tổ chức cần xây dựng lộ trình thực hiện, gồm các bước như: Quyết định lồng ghép cách thức quản lý mới trong tổng thể công tác cán bộ; tổ chức, lập kế hoạch và truyền thông về sự đổi mới công tác quản lý; xác định năng lực và xây dựng khung năng lực cho các (nhóm) lĩnh vực quản lý nguồn nhân lực theo mục tiêu cụ thể đã đề ra; tích hợp năng lực vào các hoạt động, các khâu công tác cán bộ; rà soát, đánh giá, sơ tổng kết và cập nhật, điều chỉnh hệ thống quản lý nguồn nhân lực một cách thường xuyên. Thứ hai, hoàn thiện thể chế, pháp luật điều chỉnh chính thức và bảo đảm tính hệ thống giữa các nội dung quản lý CBCCVC. Luật và các văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa bên sử dụng lao động và người lao động, chi phối các hoạt động của quản lý nguồn nhân lực, bao gồm tạo nguồn, tuyển dụng, sử dụng, trả lương, thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng cũng như đào tạo, phát triển nhân sự … Đối với CBCCVC trong cơ quan nhà nước, bên cạnh pháp luật lao động, các mối quan hệ này còn chịu sự chi phối, ràng buộc của các văn bản pháp luật khác như Luật Cán bộ công chức, Luật viên chức. Vì vậy, để áp dụng quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC, thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài trong bối cảnh chuyển đổi số, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ thể chế, pháp luật làm cơ sở đảm bảo thực hiện trên thực tế. Quản lý theo vị trí việc làm và khung năng lực đối với CBCCVC khó có thể đạt hiệu quả cao nếu thiếu sự thống nhất, đồng bộ với các nội dung quy định pháp luật về tổ chức bộ máy và công vụ, công chức. Phạm Đức Toàn (Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Bộ Nội vụ)   TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. 2. Trương Hải Long (2023), Xây dựng nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Hà nội. 3. Phạm Đức Toàn, Đào Thị Thanh Thủy (2016), Khung năng lực và quản lý công chức theo năng lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội. 4. Nguyễn Thị Hồng Hải, Phạm Đức Toàn (2019), “Giải pháp và điều kiện ứng dụng quản lý công chức theo năng lực đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10/2019. 5. Phạm Đức Toàn (2019), “Kinh nghiệm quản lý nguồn nhân lực theo năng lực của một số nền công vụ trên thế giới”.  Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2019.

Trang