Điển hình tiên tiến

Thiếu úy công an kịp thời hiến máu cứu người

TĐKT – Kịp thời hiến máu cứu một thai phụ đang trong tình trạng nguy kịch, Thiếu úy Vàng Ly Công, cán bộ Phòng An ninh đối ngoại, Công an tỉnh Sơn La đã thể hiện nghĩa cử cao đẹp vì cộng đồng, hình ảnh người chiến sĩ công an nhân dân hết lòng “vì dân phục vụ”. Thiếu úy Vàng Ly Công là người dân tộc Mông, sinh ra và lớn lên tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Anh tham gia thực hiện nghĩa vụ công an nhân dân (CAND) tại Trại Tạm giam Công an tỉnh năm 2012. Tháng 6/2015 được chính thức đứng trong hàng ngũ của lực lượng CAND. Năm 2017, anh được cử đi học tại Trường Trung cấp An ninh nhân dân. Sau khi tốt nghiệp vào tháng 10/2019, Công được điều động công tác tại Phòng An ninh đối ngoại, Công an tỉnh Sơn La. Tích cực hưởng ứng phong trào thi đua “Vì an ninh Tồ quốc” gắn với phong trào “Học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” và Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”…, trong quá trình công tác, Công luôn thể hiện là cán bộ có tinh thần trách nhiệm, không ngại khó, ngại khổ, luôn bám địa bàn biên giới để nắm chắc tình hình. Từ đó, tham mưu đúng, trúng và kịp thời cho lãnh đạo đơn vị nhiều kế hoạch công tác về vấn đề an ninh đối ngoại. Ngoài hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, Công còn hăng hái hưởng ứng, tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể. Đặc biệt, hành động cao cả hiến máu cứu người của Thiếu úy Vàng Ly Công vừa qua đã được Bộ trưởng Bộ Công an gửi thư khen ngợi. Sơn La là tỉnh miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc, điều kiện kinh tế và giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn, ngân hàng máu của tỉnh luôn trong tình trạng khan hiếm do nhu cầu sử dụng máu của bệnh nhân rất cao. Vì thế, việc tình nguyện hiến máu càng trở nên cấp thiết hơn trong giai đoạn đặc biệt này, khi dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của xã hội, trong đó công tác vận động và tiếp nhận máu phục vụ cấp cứu, điều trị người bệnh gặp nhiều khó khăn. Ngày 25/3/2020, chị Thào Thị Dy (sinh năm 1994) được đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La trong tình trạng mất máu nhiều do sảy thai, vỡ cổ tử cung, cần truyền gấp 4 đơn vị máu, gia đình không có ai cùng nhóm máu O với chị Dy, kho máu tại bệnh viện cũng không còn. Cả gia đình tuyệt vọng không biết làm thế nào. Sau khi nghe tin từ một người bạn, Công đã nhanh chóng báo cáo lãnh đạo đơn vị và đến ngay bệnh viện, tiến hành hiến 250ml máu, truyền cho chị Dy, kịp thời cứu sống chị. Nhớ lại giây phút ấy, anh Vừ A Thái, chồng chị Dy vẫn bồi hồi xúc động: “Hành động của anh Công đã trao lại cuộc sống một lần nữa cho vợ tôi. Tôi vô cùng biết ơn và khắc ghi trong lòng sự giúp đỡ đó của anh Công.” Hành động của đồng chí Thiếu úy Vàng Ly Công đã thể hiện tinh thần tương thân tương ái, thể hiện nghĩa cử cao đẹp vì xã hội, vì cộng đồng giữa thời điểm khó khăn khi cả nước đang chung tay đẩy lùi dịch bệnh. Ngày 14/4, trong bức thư khen ngợi gửi Thiếu úy Vàng Ly Công, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm nhấn mạnh, hành động của đồng chí Vàng Ly Công đã thể hiện bản chất tốt đẹp của người chiến sĩ CAND, vì nhân dân phục vụ, mang tính nhân văn cao cả, là chiến sĩ tiên phong, đi đầu hưởng ứng, thực hiện lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhân Ngày “Toàn dân hiến máu tình nguyện” và Thư gửi toàn thể cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tham gia hiến máu tình nguyện của Bộ trưởng Bộ Công an. Nguyệt Hà  

Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội: Từng bước đổi mới mô hình, phương pháp đào tạo sau đại học

TĐKT – Sau 15 năm hoạt động, Viện Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã phát triển nhanh chóng và khá toàn diện, cả về quy mô, đa dạng hóa ngành, bậc học và chất lượng đào tạo. Bước vào tuổi thứ 10, đầu năm 2005, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT) mở bậc đào tạo thạc sĩ theo Quyết định số 300/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ cho Trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (tiền thân của HUBT). Sự kiện này đã đánh dấu một bước phát triển mới có ý nghĩa lịch sử đối với HUBT, một trường đại học ngoài công lập trong hệ thống các trường đại học của nước ta. Để triển khai nhiệm vụ to lớn này, ngày 8/4/2005, GS. Trần Phương, Hiệu trưởng nhà trường đã ký Quyết định thành lập Khoa Đào tạo Sau đại học (nay là Viện Đào tạo Sau đại học). Khoa (Viện) có chức năng, nhiệm vụ là cơ quan đầu mối tổ chức, quản lý toàn bộ công tác đào tạo sau đại học của trường. Lực lượng trực tiếp thực hiện các hoạt động chuyên môn đào tạo sau đại học là các khoa chuyên ngành và các khoa tham gia giảng dạy một số học phần sau đại học của trường. TS. Đỗ Quế Lượng – Phó Hiệu trưởng Thường trực, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội trao bằng Tiến sĩ Kinh tế khóa 1 và khóa 2 cho các nghiên cứu sinh. 15 năm xây dựng và trưởng thành, cấp đào tạo sau đại học của trường đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Từ khóa tuyển sinh đầu tiên mới có 1 ngành đào tạo là thạc sĩ Quản trị kinh doanh với 33 học viên, đến nay, khóa cao học 14 đã có 600 học viên; số học viên cao nhất là khóa 11 (2016 – 2018) với 784 học viên thuộc 10 ngành đào tạo cả về kinh tế, quản trị, kinh doanh, ngôn ngữ và công nghệ. Từ năm 2014, trường bắt đầu mở bậc đào tạo cao nhất của hệ thống giáo dục quốc dân, đó là bậc tiến sĩ với một mã ngành Quản trị kinh doanh. Trong 15 năm qua, trường đã và đang đào tạo 14 khóa cao học với tổng số 6000 học viên thuộc 10 ngành đào tạo do 9 khoa chuyên ngành phụ trách và 3 khoa tham gia giảng dạy một số học phần. Trong đó, 3700 học viên (kể cả 14 học viên nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào và 1 học viên Nhật Bản) đã tốt nghiệp, được cấp bằng thạc sĩ. Số học viên hoàn thành chương trình toàn khóa học được nhận bằng thạc sĩ chiếm 80% tổng số nhập học. Cấp đào tạo tiến sĩ đến nay có 4 khóa, tổng số 41 nghiên cứu sinh; trong đó, tất cả 9 nghiên cứu sinh khóa 1 và khóa 2 đã bảo vệ thành công luận án và 5 nghiên cứu sinh đã nhận bằng Tiến sĩ kinh tế. GS.TSKH Vũ Huy Từ - Viện trưởng Viện Đào tạo Sau đại học cho biết: Để có được những thành công ấy, ngay từ ngày đầu thành lập trường, Ban Giám hiệu, đặc biệt là GS. Trần Phương, Hiệu trưởng nhà trường với tầm nhìn xa, rộng, đã xác định rõ sứ mệnh và mục tiêu chiến lược của trường. Trên cơ sở đó, từng bước có sự chuẩn bị khá đồng bộ và đủ tầm để sớm có thể mở được cấp đào tạo sau đại học. Quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhà trường đã xây dựng và không ngừng phát triển hệ thống các văn bản quy định nhằm cụ thể hóa, chuẩn hóa, quy chế hóa và quá trình hóa tất cả các khâu đào tạo sau đại học; đầu tư xây dựng và phát triển các yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác đào tạo sau đại học như: Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất - kỹ thuật… Nhà trường đã xây dựng và từng bước cải tiến, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý đào tạo sau đại học, cả về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động. Viện Đào tạo Sau đại học có biên chế nhỏ gọn, có chức năng là cơ quan đầu mối tổ chức và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến đào tạo sau đại học, do một Phó Hiệu trưởng phụ trách và Phó phòng Tổ chức - Cán bộ thuộc trường theo dõi hoạt động. Các khoa chuyên ngành và một số khoa tham gia giảng dạy, là lực lượng chuyên môn đào tạo sau đại học. Có quy định rõ ràng, hợp lý về chức năng, nhiệm vụ và quan hệ công tác giữa Viện với các khoa và giữa các khoa trong hoạt động đào tạo sau đại học. 15 năm qua, mô hình này đã phát huy được vai trò của bộ máy tổ chức và năng lực quản lý của Viện, vai trò của các khoa trong xây dựng lực lượng và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phát triển các yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác đào tạo sau đại học. Cùng với đó, Viện Đào tạo Sau đại học, các khoa chuyên ngành phụ trách và các khoa tham gia giảng dạy sau đại học luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà trường giao, biên soạn, sưu tầm, xây dựng tài liệu đào tạo kịp thời, khoa học, bài bản. Hệ thống Chương trình đào tạo sau đại học được xây dựng và định kỳ cải tiến, hoàn thiện theo định hướng ứng dụng - thực hành và phương thức đào tạo theo tín chỉ. Nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về cải tiến nội dung, phương pháp, bảo đảm chất lượng đào tạo sau đại học thường xuyên được tổ chức tại Viện. Viện đã có chương trình, kế hoạch tiến hành ngày càng nền nếp các khâu: Tuyển sinh, tổ chức quản lý lớp, mô hình học tập, thi kết thúc học phần, giao đề tài luận văn, mời người hướng dẫn và chấm luận văn, luận án, tổ chức cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ… Đặc biệt, Viện đã đề xuất với nhà trường mở rộng địa bàn tuyển sinh và đào tạo một số môn theo quy định của Bộ ngay từ khóa 7 (2012-2014). Đã kịp thời mở một số ngành mới có nhu cầu cao của xã hội (Thạc sĩ Quản lý kinh tế, thạc sĩ Quản lý công), nhờ vậy đã tăng được quy mô đào tạo lên nhanh và khá ổn định.  Phát huy những kết quả đã đạt được, để đáp ứng nhu cầu đào tạo trong giai đoạn mới với những thách thức không nhỏ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hệ đào tạo sau đại học của HUBT đang không ngừng nỗ lực để vươn lên theo kịp các trường đại học tiên tiến trong nước, khu vực và thế giới. Định hướng chiến lược của hệ đào tạo sau đại học trong 5 năm tới (2020 – 2025) là bảo đảm ổn định quy mô hàng năm tuyển sinh 700 học viên cao học và 20 nghiên cứu sinh. Về chất lượng đào tạo, bảo đảm 85% số học viên nhập học tốt nghiệp ra trường với 80% loại khá, giỏi, 20% loại trung trình về điểm học; 99% loại giỏi, xuất sắc và 1% loại khá về điểm luận văn thạc sĩ; 95 % nghiên cứu sinh được cấp bằng tiến sĩ đúng hạn quy định. Các giải pháp được đưa ra là: Bảo đảm quy mô, tiếp tục đa dạng hóa ngành và bậc đào tạo sau đại học; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo; tăng cường công tác tổ chức và quản lý lớp, quản lý giảng viên, học viên và nghiên cứu sinh, đề cao kỷ cương, chấp hành quy chế trong đào tạo; phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý của Viện, các khoa đào tạo sau đại học; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học; nâng cao năng lực cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ đắc lực công tác đào tạo sau đại học; tăng cường liên kết trường với xã hội, hợp tác quốc tế trong đào tạo sau đại học… Nguyễn Văn Long

Robot made in Vietnam tham gia chống dịch

TĐKT - Với sự nỗ lực của các nhà nghiên cứu trẻ thuộc Học viện Kỹ thuật Quân sự (Bộ Quốc phòng), chỉ trong vòng 2 tuần, robot mang tên Vibot phiên bản 1a đã được chế tạo thành công để hỗ trợ cách ly, điều trị Covid-19. Hiện Vibot-1a đã được lắp đặt, chạy thử nghiệm tại môi trường thực tế và nhận được phản hồi tốt tại Bệnh viện Bắc Thăng Long, Hà Nội. PGS.TS. Đại tá Tăng Quốc Nam, Chủ nhiệm đề tài (bên trái) giới thiệu với bác sĩ bệnh viện Bắc Thăng Long về Vibot-1a. Đề tài nghiên cứu "Chế tạo robot vận chuyển trong các khu vực cách ly có nguy cơ lây nhiễm cao" được Bộ Khoa học và Công nghệ giao cho Học viện Kỹ thuật Quân sự thực hiện từ tháng 3/2020. Đề tài nghiên cứu được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1, hình thành sản phẩm robot tự hành để phục vụ cho khu cách ly; giai đoạn 2, tiếp tục chế tạo robot thông minh, tự xây dựng được bản đồ hoạt động. Kết thúc giai đoạn 1, sản phẩm Vibot-1a đã được Tổ chuyên gia do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập đánh giá cao, với tỷ lệ 100% thành viên đồng ý thông qua và nhất trí kiến nghị Bộ Y tế xem xét cho phép sử dụng tại các cơ sở cách ly. Được thiết kế đa chức năng, linh hoạt, Vibot-1a có thể đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của từng khu vực cách ly, có thể vận chuyển nhiều loại hàng hóa khác nhau với tải trọng lên đến 100 kg. Quá trình vận chuyển, robot có thể phát nhạc, phát bản tin giải trí. Sử dụng cảm biến thông minh, Vibot-1a có thể phát ra nhiều âm thanh như xin tránh đường, xin cảm ơn, tạm biệt... Vibot 1a có thể thuần thục đảm nhận nhiệm vụ tự động vận chuyển thức ăn, thuốc men, nhu yếu phẩm… từ ngoài vào các buồng bệnh; vận chuyển rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, đồ giặt... từ buồng bệnh ra khu tập kết và hỗ trợ giao tiếp từ xa giữa nhân viên y tế và bệnh nhân. Các robot có thể hoạt động theo nhóm trong khu vực cách ly để thay thế, hỗ trợ nhân viên y tế các công việc phục vụ, chăm sóc các bệnh nhân và người nghi mắc Covid-19. PGS.TS. Đại tá Tăng Quốc Nam, Học viện Kỹ thuật quân sự, Chủ nhiệm đề tài cho biết: Điểm đặc biệt của Vibot-1a là thông qua hệ thống đường truyền được thiết lập riêng, có camera gắn trực tiếp trên robot, có chất lượng hình ảnh, âm thanh cao, các bác sĩ có thể tương tác với bệnh nhân. Nhờ đó, hạn chế tiếp xúc trực tiếp, hạn chế nguy cơ lây nhiễm chéo và mỗi robot có thể thay thế được 3 - 5 nhân viên y tế. Ngoài việc giảm rủi ro lây nhiễm, việc sử dụng robot Vibot-1a còn tạo điều kiện để nhân viên y tế tập trung thời gian, công sức phục vụ, chăm sóc và điều trị bệnh nhân nặng được tốt hơn. Mọi hoạt động của hệ thống robot được giám sát, điều khiển bởi trung tâm điều hành, tạo điều kiện cho việc mở rộng phạm vi hoạt động của robot hoặc bổ sung số lượng robot vào hệ thống khi cần thiết. Vibot-1a sử dụng kỹ thuật dẫn đường bằng vạch từ và định vị bằng thẻ nhận dạng tuy đơn giản nhưng có độ tin cậy cao, cho phép robot tự di chuyển trong khu vực cách ly để thực hiện các nhiệm vụ. Loại robot này còn có khả năng phát hiện và tránh va chạm vật cản nhờ các cảm biến trang bị ở phía trước và phía sau. Với khối nguồn pin công suất lớn và trạm sạc tự động, Vibot-1a có thể làm việc liên tục 12 giờ và tự động tìm về trạm để sạc khi cạn nguồn. Trong quá trình thiết kế, chế tạo Vibot-1a, Học viện đã phối hợp với các đơn vị có năng lực, kinh nghiệm trong và ngoài quân đội như Công ty Điện tử Sao Mai, Nhà máy Z125, Công ty cổ phần Antbot Việt Nam để cùng hoàn thiện quy trình. Sau khi hoàn thành phiên bản Vibot-1a, nhóm nghiên cứu đang tiếp tục nâng cấp và cải tiến các tính năng để robot có thể hoạt động hoàn toàn tự động và thông minh hơn, hướng tới mục tiêu chế tạo được Vibot có tính năng hiện đại như robot TUG của hãng Aethon (Mỹ). Đặc biệt, đơn vị đã lên phương án chuẩn bị sẵn sàng đầy đủ các điều kiện cho việc sản xuất các robot với số lượng lớn, đáp ứng kịp thời cho các bệnh viện, khu vực cách ly khi có yêu cầu. “Theo tính toán, nếu đầy đủ điều kiện, nguyên vật liệu cần thiết phục vụ sản xuất, Học viện Kỹ thuật Quân sự có thể sản xuất Vibot trong khoảng thời gian 1 tuần và hoàn toàn có thể sản xuất với số lượng lớn, đảm bảo đáp ứng yêu cầu điều trị khi dịch COVID-19 bùng phát.” - Thiếu tướng Nguyễn Lạc Hồng, Phó Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng chia sẻ. Trang Lê

Vinh danh các gia đình trẻ ấm no, hạnh phúc

TĐKT - Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam sẽ tổ chức Chương trình Tuyên dương "Gia đình trẻ tiêu biểu" năm 2020, vinh danh các gia đình trẻ có nhiều nỗ lực cố gắng, vượt qua hoàn cảnh khó khăn để xây dựng cuộc sống ấm no, hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ tại Thủ đô Hà Nội vào dịp kỷ niệm Ngày Gia đình Việt Nam (28/6). Chương trình nhằm mục đích biểu dương và tôn vinh những gia đình trẻ điển hình, tiêu biểu; xây dựng và lan tỏa các giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Đồng thời, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình đối với sự phát triển của xã hội; phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; vận động hội viên, thanh niên tích cực xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ. Đối tượng tuyên dương là các gia đình có các thành viên bố, mẹ và các con mang quốc tịch Việt Nam; trong đó bố và mẹ kết hôn theo đúng Luật Hôn nhân và gia đình; bố và mẹ đều ở độ tuổi không quá 35 (sinh từ năm 1985 trở về sau). Các gia đình trẻ tiêu biểu phải được được chính quyền và quần chúng nhân dân ghi nhận, được nhận Giấy khen Gia đình văn hóa giai đoạn 2017 - 2019 (căn cứ theo Nghị định số 122/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/9/2018 về việc xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”); có nhiều nỗ lực, cố gắng, vượt qua hoàn cảnh khó khăn để xây dựng cuộc sống ấm no, hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả; thực hiện tốt vai trò chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con cái. Các gia đình trẻ dự Chương trình tuyên dương sẽ được tham gia nhiều hoạt động ý nghĩa tại Thủ đô Hà Nội; được nhận Bằng khen của Trung ương Hội LHTN Việt Nam và nhiều phần thưởng giá trị khác. Hồ sơ tham dự Chương trình, bên cạnh các nội dung liên quan, các gia đình trẻ sẽ phải làm một bài bài viết của đại diện thành viên gia đình (cha, mẹ hoặc con) hoặc video clip giới thiệu về gia đình của mình, quá trình vươn lên vượt qua khó khăn trong cuộc sống để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và quan điểm, suy nghĩ về gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ. Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt nam sẽ nhận hồ sơ đến hết ngày 3/5/2020. Nơi nhận: Văn phòng Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, số 64 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội (Bìa hồ sơ ghi rõ: Tham gia Chương trình Tuyên dương “Gia đình trẻ tiêu biểu” năm 2020). ĐT: 024.62782663, Email: giadinhtre2020@gmail.com. Hoàng Long

Thầy giáo trẻ giúp người Mông đuổi “cái đói, cái nghèo”

TĐKT - Tình cờ bén duyên với Suối Giàng (huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) trong một lần công tác, thầy giáo trẻ Nguyễn Văn Kiểm đã đem lòng yêu mến con người cũng như mảnh đất, khí hậu nơi đây. Trong suốt 15 năm dạy chữ nơi vùng cao Suối Giàng, chứng kiến cuộc sống khó khăn, khổ cực của người Mông, chứng kiến những cây trà cổ thụ hàng trăm năm tuổi – báu vật của đất trời đang bị bỏ phí trên núi cao, những điều ấy đã thôi thúc anh bắt tay vào xây dựng thương hiệu Tuyết Shan Cổ Thụ Trà. Miệt mài “cõng chữ” lên non Tốt nghiệp cử nhân khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2001, thầy giáo trẻ Nguyễn Văn Kiểm được phân công công tác tại quê nhà thuộc xã Bình Thuận, một xã vùng thấp của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Cơ duyên đưa anh tới Suối Giàng trong một lần công tác. Lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này, anh cảm nhận được nơi đây là một vùng đất thơ mộng, nằm trên đỉnh núi cao với mây mù bao phủ. Ở độ cao gần 1400 m so với mực nước biển, Suối Giàng có khí hậu trong lành, mát mẻ với những cây trà cổ thụ mà trước đó anh chưa bao giờ nhìn thấy và chưa bao giờ nghĩ rằng nó lại to đến vậy. Những cây trà mọc tự nhiên được người Mông thuần hóa có tuổi đời hàng trăm năm với đường kính gốc vài người ôm. Tán lá trà xòe rộng bằng cả gian nhà. Anh Nguyễn Văn Kiểm trao quà cho các em học sinh dân tộc thiểu số vượt khó học tập tốt. Cảm mến mảnh đất và con người nơi đây, đến năm 2004, anh quyết định xung phong lên công tác tại Suối Giàng theo chương trình tăng cường giáo viên lên vùng cao của ngành giáo dục. Anh kể: “Những ngày đầu về công tác, tôi đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ vì điều kiện đi lại khó khăn, bất đồng ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau, xa xôi cách trở trình, trình độ dân trí thấp, kinh tế đồng bào còn nghèo nàn, lạc hậu… Tuy nhiên con người nơi đây lại rất thật thà mộc mạc, chăm chỉ chịu thương, chịu khó.” Trong một năm tăng cường công tác tại Suối Giàng, anh đã trực tiếp giảng dạy cho các em học sinh và làm công tác tuyên truyền xây dựng đời sống mới cho các em và phụ huynh học sinh. Các em học sinh 100% là con em dân tộc Mông, với 80% là hộ nghèo và thiếu ăn thường xuyên. “Trong quá trình công tác không biết tự bao giờ tôi đã cảm thấy gắn bó máu thịt với mảnh đất này.” – anh tâm sự. Từ đó, hết thời gian tăng cường, anh quyết định xin ở lại công tác lâu dài với mong muốn là làm cho đồng bào Mông nơi đây đỡ khổ hơn, cho mảnh đất vùng cao này được vui tươi, ấm no, hạnh phúc hơn. Anh đã xin đất làm nhà cùng gia đình sinh sống và công tác tại đây.  Hiểu rằng muốn có cuộc sống tốt hơn, người Mông nơi đây phải bắt đầu từ việc học chữ, ngoài việc dạy cho các em học sinh THCS, anh đã mở và dạy các lớp xóa mù chữ, sau đó là các lớp bổ túc tiểu học, bổ túc THCS cho cán bộ xã và những người lớn tuổi.  Mang “báu vật của đất trời” tới tay người tiêu dùng 15 năm gắn bó với Suối Giàng, điều khiến Kiểm trăn trở nhất là làm sao để cải thiện đời sống cho bà con nơi đây bằng chính thế mạnh của họ cũng như làm sao để có một sản phẩm cốt lõi mang lại giá trị thực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và góp chút công sức nhỏ bé của mình cho xã hội. Anh Nguyễn Văn Kiểm bên cây trà tuyết shan cổ thụ Khi đó, hình ảnh về những cây trà cổ thụ lại hiện lên trong đầu anh. “Người Mông nơi đây đang sở hữu những báu vật của trời đất ban tặng là những cây trà cổ thụ mà sao vẫn nghèo đói? Mình nên làm gì để thay đổi và phát huy hết giá trị cây trà cũng như phát huy những đức tính cần cù, chịu khó của con người nơi đây để tạo ra giá trị kinh tế?” – những câu hỏi cứ lặp đi lặp lại trong tâm trí người thầy giáo trẻ. Với truyền thống làm trà của gia đình kết hợp với học hỏi được bí quyết làm trà của người Mông bản địa, anh đã thử nghiệm sao trà vào những năm 2006, tuy nhiên mãi đến năm 2009, anh mới cho ra đời được những mẻ trà shan tuyết cổ thụ có phẩm cấp thật sự. Được sự ủng hộ của gia đình và người thân, anh thành lập cơ sở sản xuất trà vào năm 2011. Gia đình anh đã liên kết với các hộ dân và mua lại những gốc trà cổ thụ và thuê bà con chăm sóc, thu hái và chế biến theo đúng kỹ thuật để đảm bảo cho ra những búp trà hoàn toàn tự nhiên, thơm ngon, tinh khiết, có lợi cho sức khỏe. “Chúng tôi đã hướng dẫn bà con cách thu hái trà đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, cách chăm sóc tự nhiên như cây trà mọc tự nhiên vốn có, cách loại bỏ cây bụi làm ảnh hưởng đến cây trà... Với những việc làm thiết thực, chúng tôi đã được người Mông nơi đây ủng hộ và phối hợp cùng làm trà.” – anh kể. Tuy nhiên, những ngày đầu khi chưa có thương hiệu, anh không thể bán sản phẩm ổn định cho khách hàng vì trên thị trường xuất hiện nhiều hàng giả có nhãn mác trà Suối Giàng. Vì vậy, để ổn định lâu dài và giữ gìn được uy tín và chất lượng sản phẩm, anh đã đăng ký thương hiệu năm 2016. Đến năm 2017, anh cùng một số người bạn có cùng tâm huyết thành lập công ty Cổ phần đầu tư và thương mại Suối Giàng với mong muốn tạo ra một thương hiệu có giá trị cho xã hội và thúc đẩy kinh tế. Đến nay sản phẩm của công ty đã khẳng định được chất lượng và đứng vững trên thị trường. Anh Kiểm giới thiệu sản phẩm Tuyết Shan Cổ Thụ Trà được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Từ khi thương hiệu Tuyết Shan Cổ Thụ Trà ra đời, sản phẩm này đã mang lại lợi ích kinh tế, cải thiện cuộc sống người dân nơi đây. Trong quá trình sản xuất, công ty luôn mua ổn định giá chè tươi cho bà con và hỗ trợ kỹ thuật; thường xuyên động viên, chăm sóc họ về tinh thần cũng như vật chất để họ yên tâm bám trụ cây trà cổ thụ làm vốn mưu sinh. Anh cho biết: “Hiện nay nguồn trà được thu hái từ vườn trà của công ty và của 500 hộ người Mông ở địa phương. Từ đó, chúng tôi có được nguồn nguyên liệu sạch đúng tiêu chuẩn và có doanh thu ổn định hàng năm.” Năm 2019, công ty của anh đưa ra thị trường 45 mẫu sản phẩm trà cao cấp phục vụ khách hàng vào các dịp lễ và tiêu dùng hàng ngày. Trong đó, các dòng sản phẩm quà tặng và khách hàng kỹ tính chính là mục tiêu công ty hướng tới. Trong thời gian tới, công ty vẫn tập trung ưu tiên phân khúc cao cấp và phát triển một số dòng trà mới như là hồng trà, hoa trà… “Mục tiêu cao nhất của chúng tôi là làm sao người tiêu dùng thấy được việc bỏ ra vài ngàn đồng, vài chục ngàn đồng hoặc thậm chí hàng trăm ngàn để thưởng thức một tiệc trà sạch thơm ngon tinh khiết từ Tuyết Shan Cổ Thụ Trà của công ty là hoàn toàn đáng giá. Chúng tôi đã, đang và sẽ đặt mục tiêu sức khỏe khách hàng là trên hết.” – Anh tâm niệm. Phương Thanh

Cô gái trẻ gây dựng thành công thương hiệu nấm của người Tày

TĐKT - Bén duyên với nghề trồng nấm từ năm 2016, không ngừng học hỏi, nghiên cứu phát triển, đa dạng hóa sản phẩm, chị Lường Thị Giang đã gây dựng được một thương hiệu riêng của người Tày ở thôn Nà Nghịu, xã Lục Bình, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Tới nay, sản phẩm nấm sạch, an toàn và giàu dinh dưỡng của Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hợp Giang do chị làm chủ đã được người tiêu dùng gần xa biết tiếng và ưa chuộng. Mô hình cho doanh thu hằng năm trên 1 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 200 triệu đồng/năm, giải quyết việc làm cho 23 thanh niên tại địa phương. Chị Lường Thị Giang kiểm tra chất lượng các phôi nấm sò Trước đây, khi làm nhân viên y tế học đường ở một trường tiểu học, trong quá trình nghiên cứu để tìm sản phẩm nâng cao giá trị dinh dưỡng cho học sinh, chị đã biết đến công dụng của nấm. Nhận thấy nấm là sản phẩm có hàm lượng giá trị dinh dưỡng cao, sạch, có thể lựa chọn sử dụng trong bữa ăn hàng ngày, chị bắt đầu nhen nhóm ý tưởng khởi nghiệp với sản phẩm nông nghiệp này. Ý chí làm giàu trên mảnh đất quê hương thôi thúc chị dành toàn bộ vốn liếng và vay mượn thêm 70 triệu đồng xây nhà xưởng, mua 3.000 bịch phôi nấm hoàng đế về trồng. Đây là loại nấm cao cấp nhưng lại trồng được trong môi trường thông thường, phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương, mang lại năng suất cao. Chị kể: “Thời điểm đó, nấm hoàng đế còn lạ lẫm trên thị trường Bắc Kạn. Không nản chí, tôi kiên trì chào bán hàng cho người quen, qua mạng xã hội, tiếp thị qua các nhà hàng, quán cơm, bán tại các chợ đầu mối… Dần dần, lượng khách cũng tương đối ổn định, tôi bán được nhiều nấm hơn nhưng sản lượng ít và bị tư thương ép giá do quy mô bé, chưa chủ động trong việc tạo phôi và sản xuất nấm.” Đợt trồng đầu tiên đạt doanh thu hơn trăm triệu đồng. Được mọi người ủng hộ, chị thêm quyết tâm gắn bó với nghề. Để nâng cao tay nghề, sản lượng, chị mày mò tìm hiểu thêm về kỹ thuật trồng nấm. Không quản đường sá xa xôi, chị tìm tới các cơ sở, công ty nuôi trồng nấm tại các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội để học hỏi kinh nghiệm; đồng thời chủ động liên hệ với Trung tâm nấm thuộc Viện Di truyền (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) và tham gia khóa đào tạo trồng nấm ngắn hạn tại đây. Chị Giang cho biết: Trồng nấm không hề dễ vì phụ thuộc nhiều yếu tố như nguồn nước, điều kiện khí hậu, mỗi loại nấm lại cần có khu sản xuất riêng… Ngoài ra, trồng nấm đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận trong các khâu, nếu không phôi nấm không phát triển, công sức bỏ ra coi như uổng phí. Vừa làm vừa tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, từng bước mở rộng quy mô sản xuất, chị mạnh dạn vận động các thành viên trong xã tham gia thành lập hợp tác xã (HTX). Tháng 1/2018, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hợp Giang do chị sáng lập ra đời dưới sự hỗ trợ, tư vấn của Liên minh HTX tỉnh, với 10 thành viên, ngành nghề chính là sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu: nấm sò, mộc nhĩ, linh chi, nấm rơm và nấm hoàng đế. Chị Giang cùng các thành viên bắt tay lên kế hoạch sản xuất kinh doanh, tìm địa điểm sản xuất, thuyết phục gia đình cho mượn đất vườn làm khu nuôi trồng nấm. Tháng 4/2018, nhà xưởng được hoàn thiện, tháng 6/2018, HTX đi vào sản xuất. HTX sản xuất quy mô tập trung từ tháng 8/2018 với đội ngũ lao động lành nghề có bằng cấp như kế toán, kỹ thuật, tiếp thị - bán hàng và lao động phổ thông làm việc thường xuyên tại HTX là người dân tộc Tày tại địa phương. Chị Giang cùng thành viên HTX tiến hành đóng gói các bịch phôi nấm Năm đầu, HTX chủ yếu sản xuất nấm, doanh thu đạt hơn 1 tỷ đồng. Năm 2019, khi ngày càng có nhiều khách hàng có nhu cầu mua bịch phôi nấm về tự chăm sóc, thu hái, HTX đã tập trung sản xuất bịch phôi nấm để bán, bình quân một tháng sản xuất 20.000 bịch, doanh thu ước đạt khoảng 2 tỷ đồng/năm. Ngoài việc phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu, HTX của chị còn tạo việc làm thường xuyên cho 8 lao động và 10 - 15 lao động theo thời vụ (là người dân địa phương), thu nhập bình quân đạt 4-6 triệu đồng/người/tháng. Hợp tác xã sử dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương, thu mua phế phụ phẩm nông nghiệp rơm, rạ (bình quân 15 tấn/tháng); mùn cưa (15 tấn/tháng). Được sự hỗ trợ từ các chuyên gia, quy trình sản xuất của HTX liên tục được cải tiến, chuẩn hóa. Các sản phẩm ngày càng được nghiên cứu, phát triển đa dạng và hoàn thiện. Chị Giang cho biết mỗi loại nấm đều có kỹ thuật trồng và chăm sóc khác nhau, nhưng để có được sản lượng nấm đạt chất lượng cao thì quan trọng nhất là khâu chọn giống, sau đó là cách ủ nguồn nguyên liệu. Nguyên liệu phải được lựa chọn kỹ càng, loại bỏ hết các tạp chất, thanh trùng sạch sẽ, như vậy chất lượng nấm mới đạt, năng suất sẽ cao hơn. Chị Lường Thị Giang giới thiệu các sản phẩm của HTX tại các hội chợ, triển lãm Nhờ sản xuất bằng quy trình khắt khe, áp dụng công nghệ cao, không dùng chất bảo quản nên sản phẩm của HTX Hợp Giang có chất lượng cao. Riêng sản phẩm nấm sò được sản xuất và đóng gói tại HTX Hợp Giang đã được Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) kiểm nghiệm và công bố sản phẩm được sản xuất đảm bảo sạch, an toàn, đáp ứng Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5322:1991 (CODEX STAN 38-1981) về nấm ăn và sản phẩm nấm ăn, tuân thủ và đảm bảo các quy định về an toàn thực phẩm. Đặc biệt, năm 2018, sản phẩm nấm sò tươi đóng gói của HTX được công nhận là sản phẩm OCOP đạt 3 sao cấp tỉnh. Không quản ngại khó khăn, với niềm đam mê kinh doanh, chị Giang là tấm gương điển hình sáng tạo trong phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu chính đáng. Chị là một trong 34 thanh niên nông thôn xuất sắc nhận Giải thưởng Lương Định Của năm 2019 do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trao tặng. HTX Hợp Giang được UBND tỉnh Bắc Kạn tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong việc thực hiện chương trình OCOP. Mô hình của chị được lãnh đạo huyện quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ phát triển. Đây còn là “điểm đến” cho những người có đam mê nghề nấm chia sẻ kinh nghiệm, cùng hợp tác đầu tư trong quá trình khởi nghiệp. Mục tiêu của chị là sẽ đưa HTX Hợp Giang trở thành HTX tiên phong trong việc sản xuất nấm gắn với chuỗi giá trị, áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại đầu tiên trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn; trở thành đơn vị hàng đầu trong việc sản xuất và chuyển giao công nghệ nuôi trồng nấm, đến năm 2020 cung ứng nấm và phôi nấm chiếm lĩnh 90% thị trường trong tỉnh, mở rộng và khẳng định thương hiệu tại thị trường ngoài tỉnh. Phương Thanh

Biểu dương các chiến sĩ quân hàm xanh xung kích trên tuyến đầu biên cương của Tổ quốc

TĐKT - Nhằm kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng (BĐBP) tiếp tục, nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19, ngày 1/4, Trung tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh BĐBP đã có Thư khen gửi cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng toàn lực lượng. Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Cà Xèng, BĐBP Quảng Bình tư vấn về y tế cho bà con nhân dân trên địa bàn. (Ảnh: Văn Chương) Thời gian qua, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng với các lực lượng, chính quyền địa phương và nhân dân ở khu vực biên giới, tổ chức tốt công tác phòng, chống dịch, ngăn chặn không để dịch xâm nhập vào nội địa và đơn vị. Trên dọc tuyến biên giới đất liền, trong điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, khó khăn, thiếu thốn nhiều mặt, các đơn vị đã tổ chức hàng nghìn tổ, đội với hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ ngày đêm tuần tra, chốt chặn đường mòn, lối mở, quản lý, kiểm soát chặt chẽ biên giới, cửa khẩu, không để dịch bệnh lây truyền qua biên giới; tích cực, chủ động tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân phòng, chống dịch đạt hiệu quả tích cực. Hàng trăm cán bộ, học viên, chiến sĩ các nhà trường và các đơn vị tuyến biển đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh điều động của Bộ Tư lệnh tăng cường phối thuộc cho các đơn vị trọng điểm trên tuyến biên giới tham gia phòng, chống dịch bệnh… Nhiều đồng chí đã gác lại tình cảm riêng, hoãn làm đám cưới, không về tổ chức lễ cưới con, đưa con bị ốm nặng đi bệnh viện chữa trị… để ở lại cùng đồng đội tham gia phòng, chống dịch. Những việc làm trên đã góp phần tô thắm, lan tỏa hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân của người lính quân hàm xanh được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân cả nước ghi nhận, đánh giá cao. Đặc biệt, ngày 25/3/2020 tại phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã chia sẻ và động viên cán bộ, chiến sĩ BĐBP: “Ngay mùa dịch Covid-19 này, lực lượng BĐBP cũng vất vả lắm, phải ngủ lán trại ngay đường mòn, lối mở. Đồn là nhà, mà có được ở trong đồn đâu” thật sự ấm áp và cảm động. “Đảng ủy, Bộ Tư lệnh nhiệt liệt biểu dương, khen ngợi những việc làm có ý nghĩa cao đẹp của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng toàn lực lượng đã tích cực tham gia phòng, chống dịch Covid-19 thời gian qua.” – Trung tướng Hoàng Xuân chiến nhấn mạnh. Thời gian tới, tình hình dịch Covid-19 được dự báo sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, có thể còn kéo dài. Bộ Tư lệnh BĐBP đề nghị cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị toàn lực lượng quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Tổng Bí thư - Chủ tịch nước, tập trung cao độ, quyết liệt triển khai các biện pháp cấp bách đã đề ra theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 các cấp. Các cơ quan, đơn vị duy trì chấp hành nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, trực phòng, chống dịch Covid-19 theo đúng quy định; rà soát lại các phương án, kế hoạch để chủ động xử lý các tình huống có thể xảy ra; sẵn sàng lực lượng, phương tiện thực hiện nhiệm vụ ở các trạng thái, cấp độ dịch cao hơn khi có lệnh. Tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo vệ biên giới, cửa khẩu; tổ chức tuần tra, kiểm soát chặt chẽ đường mòn, lối mở biên giới, ngăn chặn hoạt động xuất nhập cảnh trái phép, phối hợp chặt chẽ với địa phương, các lực lượng tổ chức việc tiếp nhận và cách ly theo quy định. Thực hiện nghiêm ngặt công tác phòng, chống dịch trong các cơ quan, đơn vị, nhất là cách ly xã hội; tuyệt đối không được đi đến vùng có dịch và ngược lại; kiên quyết ngăn chặn không để cán bộ, chiến sĩ bị lây nhiễm và không để dịch xâm nhập vào cơ quan, đơn vị. Tiếp tục quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ; huy động mọi nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch, biểu dương khen thưởng gương người tốt, việc tốt có nhiều thành tích trong thực hiện nhiệm vụ và công tác phòng, chống dịch Covid-19. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc” và hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư - Chủ tịch nước, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP tin tưởng cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng toàn lực lượng sẽ tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc, mỗi cán bộ, chiến sĩ BĐBP xứng đáng là một chiến sĩ quân hàm xanh xung kích trên tuyến đầu biên cương của Tổ quốc. Phương Thanh

Tìm sinh kế, lập thân, lập nghiệp

TĐKT – Sau thời gian làm công nhân ở miền Đông Nam bộ nhiều năm, anh Danh Hoàng (dân tộc Khơ me) quyết định về quê hương xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang để lập nghiệp và đã thành công với mô hình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sản xuất theo chuỗi khép kín. Anh Danh Hoàng cho biết, trước đây, bản thân và gia đình chỉ sản xuất nông nghiệp thuần túy, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, anh luôn suy nghĩ, trăn trở tìm cách để khắc phục cái đói, cái khổ. Anh Danh Hoàng đang chăm sóc diện tích hẹ của gia đình Từ hai bàn tay trắng, được các cấp bộ đoàn tuyên truyền về các chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển sản xuất, mà trực tiếp là sự giúp đỡ chính quyền địa phương và tổ chức đoàn thanh niên xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, anh Hoàng đã được đi tham quan học tập thực tế nhiều lần tại các mô hình phát triển kinh tế hay ở các địa phương. Từ những kinh nghiệm được học hỏi và những kỹ thuật được chuyển giao từ đợt tập huấn của Đoàn, Hội; cộng với sự hỗ trợ về vốn của các cấp, Hoàng đã tìm thấy hướng đi cho mình - xây dựng mô hình phát triển kinh tế “Chuỗi sản xuất khép kín quy mô hộ gia đình”. Tận dụng diện tích đất nhà khoảng 5000 m2 , anh Hoàng tiến hành trồng cây bắp. Sau khi thu hoạch, anh tận dụng cây bắp làm thức ăn cho 8 con bò, giúp giảm chi phí thức ăn, giúp bò sinh sản tốt và đạt chất lượng về giống cũng như bò thịt. Không những thế, anh còn tận dụng nguồn phân bò nuôi trùn quế để bán và nuôi lươn đồng. Anh Hoàng chia sẻ: Trùn quế được anh sử dụng làm thức ăn dinh dưỡng cho lươn và gà; còn lại anh đem bán, với mỗi kg trùn quế, anh có thêm được 50.000đ.  Ngoài ra, những sinh khối của trùn quế là nguồn phân hữu cơ rất tốt để gia đình anh trồng rau màu. Đặc biệt, hiện tại ở gia đình anh đang trồng cây hẹ, mang lại thu nhập ổn định mỗi tháng bình quân 8 triệu đồng. Chính từ mô hình khép kín này, anh đã tiết kiệm được chi phí, đồng thời hạn chế được việc sử dụng phân thuốc hóa học, từ đó cung cấp ra thị trường những sản phẩm chất lượng, đảm bảo an toàn. Mỗi năm, mô hình cho gia đình anh thu nhập trên 100 triệu đồng. Chia sẻ về việc làm của mình, anh Hoàng bảo: Tuy mô hình còn nhỏ, mới chỉ là những thành công ban đầu, nhưng nó đã đem đến cho tôi sự hứng khởi, quyết tâm. Dự định trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục mở rộng thêm trại trùn quế và phát triển thêm đàn gà. Danh Hoàng bên đàn bò gia đình Bày tỏ sự biết ơn đối với chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thanh niên các cấp trong việc giúp đỡ gia đình anh phát triển thành công mô hình khép kín, cho giá trị kinh tế cao, anh Hoàng chia sẻ: “Phải nói rằng tổ chức đoàn thanh niên là cầu nối giữa người đoàn viên, thanh niên với Nhà nước để hộ gia đình được tiếp cận với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong vấn đề phát triển kinh tế, hỗ trợ tiền vay, hỗ trợ lãi suất. Quan trọng nhất đối với tôi là đã kịp thời tiếp cận được với nguồn vốn 120 của Trung ương Đoàn; được tiếp thu các kiến thức khoa học, kinh nghiệm hay trong xây dựng và vận hành mô hình; được tiếp cận với đầu ra ổn định, giúp gia đình an tâm sản xuất. Danh Hoàng bày tỏ mong muốn: Không chỉ riêng với tôi, tìm ra sinh kế cho bản thân là khát khao của rất nhiều bạn trẻ khác. Tôi mong rằng, các cấp, các ngành tiếp tục tạo điều kiện, hỗ trợ thêm nguồn vốn, khoa học kỹ thuật để các mô hình của thanh niên được phát triển thêm. Tôi sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm của mình với mọi người, cùng bắt tay xây dựng kinh tế, tìm được động lực và hướng lập thân lập nghiệp, khẳng định mình trong xã hội. Được biết, ngoài việc phát triển kinh tế, anh Hoàng luôn gương mẫu trong việc thực hiện đầy đủ các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn, tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, chung tay xây dựng nông thôn mới, kịp thời động viên, ủng hộ những thanh niên có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện để họ được phát triển sản xuất. Hưng Vũ

“Nữ thuyền trưởng” và 6 năm vững lái “con tàu An sinh”

TĐKT - Lần đầu gặp Thứ trưởng, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam Nguyễn Thị Minh, ít ai ngờ ẩn sâu sau dáng người mảnh mai, dịu dàng của chị là một tính cách quyết liệt, quyết đoán với một cường độ làm việc cao và sức bền đến không ngờ. Và có lẽ cũng ít người biết, nữ “thuyền trưởng” của ngành BHXH còn có những khoảng lặng rất đời thường... Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Minh ký kết Bản Ghi nhớ hợp tác với Cơ quan Phúc lợi và đền bù cho người lao động Hàn Quốc (KCOMWEL) Ngày 20/11/2014 có lẽ đã trở thành một trong những dấu mốc quan trọng đối với chị Nguyễn Thị Minh. Đó là ngày Quốc hội thông qua Luật BHXH Sửa đổi. Là người đứng đầu ngành, trực tiếp giúp Chính phủ tổ chức thực hiện hai chính sách quan trọng, trụ cột của hệ thống an sinh xã hội Quốc gia, với chị Minh, niềm vui và hạnh phúc thực sự đong đầy khi trong công việc của ngành đạt được những thành tựu mới... Tháng 3/2014, khi vừa mới chân ướt, chân ráo về ngành, chị Minh đã cùng với Ban lãnh đạo BHXH Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan, tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua hai dự thảo sửa đổi Luật BHXH, Luật BHYT - hai đạo luật cơ bản tạo hành lang pháp lý cho công tác tổ chức thực hiện chính sách và cơ chế hoạt động của BHXH Việt Nam sau này. Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Minh kiểm tra vận hành hệ thống “một cửa điện tử tập trung” tháng 1/2017  Còn nhớ quá trình thảo luận đi đến thống nhất nội dung sửa đổi Luật BHXH, trên nghị trường và đến lúc Luật được thông qua, niềm vui đã vỡ òa trong chị và niềm vui ấy càng lớn khi quá trình dự thảo Luật có phần công sức của tập thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam, từ Trung ương đến địa phương. Phấn khởi, vui mừng, nhưng hơn ai hết, chị Minh hiểu, hoàn thiện hành lang pháp lý chỉ là công việc khởi đầu. Chặng đường gian nan đưa chính sách vào cuộc sống còn đang ở phía trước. Khoảng thời gian tiếp theo, chị Minh cùng với Ban lãnh đạo BHXH Việt Nam chỉ đạo các đơn vị giúp việc tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc bộ, ngành chức năng tham mưu với Chính phủ trong việc ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật. Đặc biệt là việc tham mưu với Chính phủ ban hành các quyết định về việc giao chỉ tiêu BHYT, BHXH cho các địa phương nhằm hiện thực hóa mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân đã được xác định tại Nghị quyết 21-NQ/TW, Nghị quyết 28-NQ/ TW và thể chế hóa tại Luật. Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Minh thăm hỏi, chia sẻ, động viên và tặng quà tri ân các đồng chí thương, bệnh binh tại Trung tâm Điều dưỡng thương binh Thuận Thành (Bắc Ninh) Trong hệ thống BHXH Việt Nam, chị quyết liệt chỉ đạo thực hiện tổng rà soát các quy trình nghiệp vụ, cắt giảm thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hướng tới một nền hành chính không giấy tờ và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các tổ chức, cá nhân đến giao dịch với cơ quan BHXH. Sau hơn 5 năm, đến nay, mục tiêu BHYT toàn dân đã cơ bản hoàn thành với gần 90% người dân có thẻ BHYT. Số người tham gia BHXH tự nguyện có sự tăng trưởng vượt bậc với tổng số người tham gia gần 600.000 người. Riêng con số phát triển BHXH tự nguyện trong nửa cuối năm 2018 và năm 2019 lớn hơn tổng số người tham gia của 10 năm trước đó. Đặc biệt, hoạt động phục vụ của ngành BHXH có sự thay đổi cả về lượng và chất. Số thủ tục hành chính trong lĩnh vực BHXH giảm mạnh, từ hơn 200 thủ tục xuống còn 27 thủ tục; 100% các thủ tục hành chính đã được thực hiện giao dịch điện tử ở mức độ 3, 4. Nhiều thủ tục hành chính đã được rút ngắn thời gian giải quyết, như thời hạn cấp sổ BHXH từ 20 ngày, cấp thẻ BHYT từ 7 ngày xuống còn 5 ngày, cấp lại thẻ BHYT ngay trong ngày đối với những trường hợp đang nằm viện hoặc không có thay đổi về thông tin... Qua đó, đã giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, người lao động khi tham gia giao dịch với cơ quan BHXH. Ngành BHXH đã hoàn thành việc rà soát và cấp mã định danh BHXH cho trên 92 triệu dân. Xây dựng và vận hành Hệ thống thông tin giám định BHYT điện tử lưu trữ hồ sơ khám, chữa bệnh BHYT của trên 85 triệu người tham gia BHYT. Thực hiện kết nối và đồng bộ toàn diện các phần mềm nghiệp vụ... Khi BHXH Việt Nam liên tục thăng hạng và đứng thứ 2 về chỉ số sẵn sàng ứng dụng CNTT, xếp thứ 86/190 (tăng 81 bậc) về chỉ số nộp thuế, BHXH trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2018 do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố, chị Minh nói giản dị: Đó là công lao của trên 20.000 cán bộ, công chức, viên chức trong toàn hệ thống BHXH. Cá nhân chị chẳng bao giờ nhận chút thành tích nào về riêng mình. Với tình trạng lạm dụng, trục lợi BHYT cũng diễn ra khá phức tạp. Làm thế nào để kiểm soát hiệu quả sử dụng quỹ, để từng đồng quỹ được sử dụng đúng mục đích, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi cho người tham gia? Câu hỏi ấy luôn trăn trở trong lòng nữ Tổng Giám đốc, không chỉ khi chị đã về công tác trong ngành mà ngay từ khi chị còn là Thứ trưởng Bộ Tài chính và được giao phụ trách lĩnh vực này. Khi đi thị sát thực tiễn, chị nhận thấy nếu chỉ với hơn 2.000 giám định viên BHYT, muốn kiểm soát tốt việc sử dụng quỹ khám, chữa bệnh BHYT sẽ là điều không tưởng nếu không áp dụng công nghệ. Đi tham khảo, học tập kinh nghiệm các tổ chức an sinh quốc tế, ý tưởng về một hệ thống giám định điện tử tập trung cứ lớn dần trong tâm thức chị. Những ngày đầu triển khai, có người nghi ngờ, có người phản đối, có người thiếu hợp tác... nhưng với sự nhạy cảm của nhà quản lý chuyên nghiệp, sự tâm huyết của người đứng đầu, chị đã hình dung ra chiến lược ứng dụng CNTT vào các hoạt động nghiệp vụ, coi đây là công cụ hữu hiệu trong quản lý thu, chi, khắc phục sự thiếu hụt nguồn nhân lực do tinh giản biên chế, mang lại sự minh bạch và là chìa khóa để cải cách hành chính thành công. Đến nay, Hệ thống thông tin giám định BHYT với các tính năng giám định tổng hợp, giám định chuyên đề đã từng bước phát huy hiệu quả. Khối lượng công việc thủ công của anh em được giảm bớt, việc giám sát, kiểm soát quỹ khám, chữa bệnh BHYT từng bước khắc phục được những hạn chế - với chị, đó là niềm vui. Những câu chuyện cán bộ BHXH đi kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT bằng xe máy, đơn vị sử dụng lao động chặn xe không tiếp, hay có anh em bị rắn lục cỏ chui vào bô xe, bị rắn cắn may chưa nguy hiểm đến tính mạng... càng làm chị trăn trở. Chị bàn với các đồng chí trong Ban Cán sự, Ban Tổng Giám đốc xây dựng phương án, báo cáo Chính phủ để anh em cấp cơ sở có thêm phương tiện làm việc, giảm bớt những rủi ro, vất vả... Đi đến đâu công tác, câu đầu tiên chị hỏi là anh em hôm nay đến dự có đủ không, tiến độ công việc thế nào, có gì khó khăn cần lãnh đạo ngành tháo gỡ, đời sống anh em thế nào. Chị bảo, anh em đến dự đông đủ là thể hiện sự đoàn kết của tập thể lãnh đạo và toàn đơn vị đó. Với chị, một tập thể quan trọng nhất là sự đoàn kết. Chị luôn dặn dò Công đoàn phải thường xuyên giám sát bếp ăn, làm sao miếng cơm, miếng rau trong suất cơm trưa của anh em có thể chưa được sang nhưng phải sạch và đủ chất. Chị luôn tỉ mỉ quan tâm anh em cơ quan như trong gia đình mình vậy. Trong công việc chị là người quyết liệt và cẩn trọng nhưng trong đời thường chị lại hết sức giản dị đó là phong thái và phong cách rõ nét nhất của “nữ thủ lĩnh” ngành BHXH.  Không chỉ cập nhật các kiến thức công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu công việc, chị còn tổ chức các lớp học ngoại ngữ, nâng cao trình độ tiếng Anh cho cán bộ, công chức và viên chức quản lý khối cơ quan Trung ương và bản thân chị cũng là một thành viên tích cực của các lớp học này. Là nữ cán bộ quản lý có quá trình trưởng thành từ cơ sở, kinh qua nhiều vị trí công tác, hơn ai hết, chị Minh hiểu những vất vả của cán bộ nữ. Chị tâm sự: Thành công của một người đàn ông cần sự nỗ lực một thì thành công của một người phụ nữ cần sự nỗ lực và hy sinh gấp 10 lần. Có lẽ chính vì thế, trong công tác cán bộ, chị luôn quan tâm, động viên và chia sẻ với những cán bộ nữ, đặc biệt là những nữ cán bộ quản lý cấp dưới. Dù có bận rộn mấy thì cứ tháng 7 hàng năm chị vẫn luôn sắp xếp để tham dự 1 cuộc thăm hỏi người có công, gia đình chính sách hay thăm 1 trung tâm điều dưỡng thương, bệnh binh, 1 gia đình nghèo, neo đơn; thăm, viếng các anh linh liệt sĩ tại các nghĩa trang quốc gia trên tuyến đường Trường Sơn. Chị bảo, trong niềm tưởng nhớ chung các anh linh liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, chị có nỗi niềm riêng về người anh trai hy sinh trong chiến dịch Trường Sơn đến nay chưa tìm được mộ phần... Có lẽ cũng từ mất mát của gia đình mình, chị thấu cảm nhiều hơn với sự hy sinh, mất mát của những gia đình thương binh liệt sĩ, hiểu hơn giá trị của độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đấy là máu xương, nước mắt của bao thế hệ, để từ đó chị mong muốn với cương vị của mình, có thể làm được nhiều điều tốt đẹp hơn, với sứ mệnh là cầu nối An sinh xã hội đến với nhiều hơn những gia đình Việt Nam trên mọi miền Tổ quốc. Ngọc Ánh    

Hiệu quả từ mô hình câu lạc bộ “Nam giới là điểm tựa của phụ nữ”

TĐKT - Câu lạc bộ (CLB) “Nam giới là điểm tựa của phụ nữ” ở ấp Thanh Thủy (thị trấn Thanh Bình, huyện biên giới Bù Đốp, tỉnh Bình Phước) được thành lập từ năm 2009. Sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, CLB đã góp phần thay đổi cơ bản nhận thức của các thành viên, góp phần tạo sự công bằng, bảo đảm quyền bình đẳng giới. CLB luôn tiên phong trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ ở địa phương Ông Nguyễn Văn Ưng, chủ nhiệm CLB cho biết: CLB “Nam giới là điểm tựa của phụ nữ” ở Thanh Thủy được thành lập với mục đích vận động nam giới, đặc biệt các ông chồng tôn trọng, giúp đỡ, chia sẻ công việc gia đình, xã hội, trở thành điểm tựa vững vàng cho phụ nữ. Sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, CLB đã trở thành điểm gắn kết của người dân trong ấp, là điểm sáng trong các hoạt động xã hội cũng như xây dựng khu dân cư văn hóa ở địa phương. Thành lập với 30 thành viên, đến nay, CLB đã có 108 thành viên với hơn một nửa là nam giới. Có khoảng 40 cặp vợ chồng cùng là thành viên. CLB duy trì duy trì sinh hoạt đều đặn hàng quý với nội dung chính là tuyên truyền về giới và bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình cho các thành viên CLB; vận động nam giới không có hành vi bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong gia đình. Ngoài ra, CLB còn tổ chức tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, gương phụ nữ nghèo vượt khó nhằm giúp các thành viên nam giới hiểu và thông cảm với những khó khăn của phụ nữ để tạo điều kiện cho phụ nữ được vươn lên, bình đẳng với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội. “Trong các buổi sinh hoạt, vì có nhiều nội dung phong phú nên không chỉ các bà vợ mà nhiều ông chồng đã nâng cao được nhận thức về bình đẳng giới. Từ quan niệm cũ cho rằng, trách nhiệm của người vợ trong gia đình là phải cáng đáng việc nhà, bếp núc, chăm sóc con cái đến chăm lo gia đình, nay người chồng đã cùng với vợ làm công việc gia đình và ngoài xã hội. Đặc biệt, không có tình trạng mâu thuẫn nhau do người chồng uống rượu say, phá phách, đánh đập, chửi bới vợ con.” - ông Ưng chia sẻ. Là một trong những hội viên tích cực của CLB, anh Triệu Quang Thìn chia sẻ: Vợ chồng tôi kết hôn được 26 năm và có 3 con. Ngoài thời gian làm vườn, chăn nuôi, tôi cùng vợ vẫn luôn dành thời gian tham gia các phong trào do CLB tổ chức. Từ khi biết đến “Nam giới là điểm tựa của phụ nữ”, tôi được học thêm nhiều điều bổ ích cũng như nhiều kinh nghiệm để cùng vợ nuôi dạy con cái, giữ gìn hạnh phúc trong gia đình. Sinh hoạt trong CLB, các thành viên không chỉ được tuyên truyền về xây dựng gia đình hạnh phúc mà còn được CLB hỗ trợ, giúp đỡ phát triển kinh tế. Từ khi thành lập đến nay, CLB đã huy động được 110 triệu đồng tiền vốn và xoay vòng hỗ trợ 30 hội viên vay với lãi suất thấp. Bên cạnh đó, CLB cũng tích cực tham gia các phong trào tại địa phương. Tính 5 năm trở lại đây, các thành viên đã đóng góp hơn 40 triệu đồng cùng nhiều ngày công để xây dựng, tu sửa nhà văn hóa ấp thêm khang trang, sạch đẹp. Ban chủ nhiệm CLB còn tích cực tuyên truyền, vận động các thành viên tham gia sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường trong ấp, đóng góp lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng dọc tuyến đường ấp và đóng góp xây dựng cơ sở vật chất trong ấp với số tiền mặt hơn 100 triệu đồng. Cũng theo ông Ưng, để duy trì hoạt động của CLB, các hội viên mà chủ yếu là các ông chồng đã cùng nhau học tập và chia sẻ kinh nghiệm về mọi vấn đề. Việc làm này nâng cao ý thức trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình, xứng đáng là điểm tựa vững chắc cho vợ và các con. Đây cũng là biện pháp hữu hiệu trong công tác phòng, chống bạo lực trong gia đình, bảo vệ quyền bình đẳng cho phụ nữ. Điều dễ nhận thấy nhất về hiệu quả hoạt động của các CLB đã góp phần vào thành tích nhiều năm liền ấp Thanh Thủy đạt chuẩn khu dân cư văn hóa. Tùng Chi  

Trang