Tổng kết 13 năm thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng trong Quân đội
TĐKT - Ngày 16/8, Tổng cục Chính trị (TCCT) Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng (TĐKT) trong QĐND Việt Nam (2004 - 2017). Tới dự, có các đồng chí: Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm TCCT, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng; Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban TĐKT Trung ương, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương. Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm TCCT, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng phát biểu tại Hội nghị Tại Hội nghị, các đại biểu đã đánh giá toàn diện, cụ thể về kết quả đạt được, cũng như tồn tại, hạn chế; chỉ ra bất cập, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thực hiện Luật TĐKT. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, TCCT, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; triển khai thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả Luật TĐKT. Biểu hiện rõ nhất là phong trào Thi đua Quyết thắng trong Quân đội diễn ra sôi nổi, rộng khắp, liên tục phát triển cả diện rộng và chiều sâu, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lao động, sản xuất và tập trung khắc phục những khâu yếu, mặt yếu. Cùng với đó, công tác khen thưởng luôn được các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nghiêm túc, đúng quy định của Luật TĐKT và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc xét và đề nghị khen thưởng đảm bảo công khai, dân chủ, chặt chẽ, đúng quy trình, đối tượng, tiêu chuẩn. Đã chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ, cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ; kịp thời động viên, khuyến khích các tập thể, cá nhân lập được nhiều thành tích trên nhiều lĩnh vực. Có thể nói, Luật TĐKT đã tạo lập khuôn khổ pháp lý, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động công tác TĐKT thống nhất trong phạm vi toàn quân, toàn quốc, nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước về TĐKT; tạo bước chuyển mạnh mẽ, quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Công tác TĐKT có nhiều đổi mới, chuyển biến tích cực, hiệu quả; cổ vũ, động viên các cơ quan, đơn vị và toàn quân hoàn thành tốt nhiệm vụ; góp phần xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc. Tại Hội nghị, các đại biểu cũng thẳng thắn chỉ rõ những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật TĐKT, Nghị định của Chính phủ và Thông tư của Bộ Quốc phòng. Nổi lên là những vướng mắc về tiêu chuẩn, hiệp y và quy trình, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng... Trên cơ sở đó, các đại biểu đề xuất nhiều chủ trương giải pháp nâng cao chất lượng công tác TĐKT, kiến nghị một số nội dung sửa đổi, bổ sung. Trên cơ sở các ý kiến tại hội nghị, Cục Tuyên huấn tiếp tục tổng hợp, báo cáo Thủ trưởng TCCT, Thủ tưởng Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Nội vụ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật TĐKT và Nghị định của Chính phủ. Những nội dung thuộc về Thông tư của Bộ Quốc phòng, Cục Tuyên huấn tiếp thu, bổ sung, sửa đổi khi xây dựng Thông tư mới, thay thế Thông tư 160/2014/TT-BQP của Bộ Quốc phòng. Đức AnhDiễn đàn
Hà Nội tổng kết 13 năm thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng (2004 - 2017)
TĐKT – Sáng 10/8, UBND TP Hà Nội tổ chức Hội nghị tổng kết 13 năm thi hành Luật Thi đua, Khen thưởng, triển khai các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng của thành phố. Tới dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh; Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung. Cùng dự có Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Trần Thị Hà. Báo cáo tại Hội nghị, đồng chí Phùng Minh Sơn, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng TP Hà Nội cho biết: sau 13 năm thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành, thông qua việc vận dụng sáng tạo, chỉ đạo quyết liệt và có nhiều đổi mới, công tác thi đua, khen thưởng của thành phố đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Phong trào thi đua ngày càng thiết thực, hiệu quả. Hội nghị tổng kết 13 năm thi hành Luật Thi đua, Khen thưởng, triển khai các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng của TP Hà Nội. Nét mới trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua của thành phố những năm qua là tổ chức các phong trào thi đua đặc thù theo ngành, lĩnh vực: “Xây dựng Người Hà Nội thanh lịch, văn minh”; thi đua thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội; thi đua đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”; thi đua “Năm trật tự văn minh đô thị”; thi đua "An toàn thực phẩm"; thi đua thực hiện “kỷ cương hành chính”; phong trào "Sáng kiến, sáng tạo Thủ đô"... Từ năm 2004 đến nay có gần 5.000 mô hình thi đua do các đơn vị thực hiện, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thực hiện các nhiệm vụ công tác trọng tâm, những khâu yếu, việc khó của các cấp, các ngành và của thành phố. Công tác khen thưởng của thành phố ngày càng đảm bảo chất lượng, đã chú trọng việc cụ thể hóa chính sách khen thưởng được quy định trong Luật Thi đua, Khen thưởng để hướng dẫn các đơn vị trên địa bàn thành phố thực hiện. Qua đó, công tác khen thưởng có nhiều đổi mới và dần dần đi vào nền nếp, chất lượng khen thưởng từ thành phố đến cơ sở được nâng lên rõ rệt. Trong những năm qua, tỷ lệ khen thưởng cá nhân là người lao động trực tiếp (từ cấp trưởng phòng thuộc các sở, ban, ngành và tương đương trở xuống) trên địa bàn thành phố ngày càng tăng. Đến năm 2016, tỷ lệ người lao động trực tiếp chiếm 90% số lượng cá nhân được khen thưởng. Đã có cá nhân là nông dân, người dân lao động trực tiếp (không làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp) trên địa bàn được đề xuất khen thưởng cấp Nhà nước (7 năm qua có 25 trường hợp, chiếm tỷ lệ 0,6% trong tổng số trường hợp được khen thưởng cấp Nhà nước toàn thành phố). Trong nhiều năm liền Hà Nội được Trung ương đánh giá là một trong những địa phương dẫn đầu trong cả nước. Bộ máy những người làm công tác thi đua, khen thưởng từ thành phố đến các cấp, các ngành được quan tâm, kiện toàn theo các quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành; được quan tâm đào tạo nâng cao trình độ chính trị, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn. Tại Hội nghị, các đại biểu cũng chỉ ra những khó khăn, hạn chế; đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng trong thời gian tới. Trong đó, đa số đại biểu cho rằng: bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi đua, khen thưởng chưa được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm thường xuyên, còn thiếu các hình thức tuyên truyền thiết thực, hiệu quả. Các phong trào thi đua phát triển chưa đồng đều, một số đơn vị chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chưa tạo được sự phối hợp, liên kết của các ngành, địa phương và các cơ quan liên quan. Việc vận dụng và đề nghị mức hạng khen thưởng còn nhiều lúng túng. Bình xét khen thưởng còn có biểu hiện nể nang, cào bằng, mang tính luân phiên. Việc xét, công nhận lao động tiên tiến theo thẩm quyền cấp xã thực hiện chưa hiệu quả. Công tác phát hiện xây dựng, nhân rộng các điển hình tiên tiến chưa được quan tâm thường xuyên. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh phát biểu tại Hội nghị Phát biểu tại Hội nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh biểu dương những thành tích của TP Hà Nội đã đạt được trong triển khai thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng thời gian qua. TP đã có nhiều đổi mới, sáng tạo, bám sát các nhiệm vụ chính trị nên chất lượng công tác thi đua, khen thưởng ngày càng được nâng cao. Phó Chủ tịch nước đề nghị, trong thời gian tới, Hà Nội cần tập trung thực hiện 5 nội dung. Trong đó tiếp tục không ngừng kiến nghị, chủ động, sáng tạo tìm kiếm các giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng, gắn với thực tiễn đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế của Thủ đô và đất nước. Tăng cường tuyên truyền về ý nghĩa phong trào thi đua yêu nước, “Người tốt, việc tốt” và các phong trào khác gắn với việc thực hiện việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục làm tốt công tác khen thưởng đặc biệt các đối tượng là người lao động và khen đột xuất; giải quyết dứt điểm khen kháng chiến. Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung đề nghị Thủ trưởng các đơn vị trên địa bàn bám sát 5 nội dung của Phó Chủ tịch nước đã nêu; lấy kết quả thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của cơ quan, đơn vị là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đồng thời nhấn mạnh, việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng của TP Hà Nội trong thời gian tới tập trung vào 5 nội dung: tập trung đổi mới hoạt động Cụm thi đua; đổi mới nội dung, hình thức phát động các phong trào thi đua; đổi mới công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân điển hình tiên tiến; nâng cao chất lượng công tác khen thưởng; ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành và việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính có liên quan đến quy trình, thủ tục, hồ sơ khen thưởng mức độ 3; kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp. Mai ThảoTĐKT - Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dư âm mà chiến tranh để lại vẫn còn vẹn nguyên trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt, với thương binh, liệt sĩ thì âm hưởng hào hùng của những trận đánh năm xưa đã trở thành những kỷ niệm không thể nào phai mờ. Việc lấy ngày 27/7 hàng năm là ngày tri ân các Anh hùng, liệt sĩ sẽ là thông điệp trao truyền cho hậu thế về những đóng góp của những Anh hùng, liệt sĩ cho dân tộc, khơi dậy trong mỗi người con đất Việt niềm tự hào về quá khứ oai hùng trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, củng cố, bồi đắp ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa cho mọi người dân Việt Nam.
Thế hệ trẻ thành kính thắp hương tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần “.... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, hy sinh một phần xương máu trên các chiến trường. Với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh. Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội. Ngày 28/5/1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát Lớn Hà Nội để kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.
Ngày 17/11/1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam đã tổ chức Lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ”, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sĩ. Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sĩ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày để tri ân các thương binh, liệt sĩ. Tại cuộc họp này các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27/7 là ngày Thương binh toàn quốc. Từ đó hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sĩ. Từ tháng 7/1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi ngày Thương binh toàn quốc thành ngày Thương binh - Liệt sĩ để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn", “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Đền ơn, đáp nghĩa” của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để từng bước tri ân những Anh hùng, liệt sĩ, thương, bệnh binh và những người có công với cách mạng. Từ năm 2007 đến năm 2017, cả nước đã đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa” hơn 3.481 tỷ đồng, trong đó, quỹ Trung ương hơn 41,36 tỷ đồng, quỹ địa phương hơn 3.440,4 tỷ đồng; xây dựng gần 90.000 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần 75.000 nhà tình nghĩa với tổng trị giá gần 12.200 tỷ đồng; tặng gần 159.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá gần 955.000 tỷ đồng.
Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, Chính phủ đã cấp cho các địa phương trên 2.450 tỷ đồng để hỗ trợ cho 80.000 hộ gia đình người có công khó khăn về nhà ở; 100% các Mẹ Việt Nam anh hùng được các đơn vị nhận phụng dưỡng; 98% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 97% người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống người dân nơi cư trú.
Thời gian qua, cả nước đã tìm kiếm, quy tập được 939.462 hài cốt liệt sĩ; an táng tại 3077 nghĩa trang trong cả nước. Việc xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ được các cấp, các ngành chú trọng và đã đạt được những kết quả cụ thể. Hiện cả nước có 9.637 công trình ghi công liệt sĩ, bao gồm đài tưởng niệm, nhà bia ghi tên liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ. Nhiều công trình trở thành công trình văn hóa, có giá trị về mỹ thuật, giáo dục truyền thống: Nghĩa trang Điện Biên Phủ, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang Đường 9, Đền liệt sĩ Bến Dược, Khu tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc...
Có thể khẳng định chính sách ưu đãi người có công với nước đã và đang được bổ sung, hoàn thiện và là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay.
Nguyễn Tú Anh
Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng tại các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước
TĐKT- Ngày 25/7, tại Hà Nội, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng tại các Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước. Đến dự, có Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Trần Thị Hà. Cùng dự có lãnh đạo các bộ, ngành, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty và doanh nghiệp Nhà nước. Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Trần Thị Hà cho biết: triển khai đề tài cấp quốc gia “Công tác thi đua, khen thưởng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay”, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã tổ chức hội thảo khoa học trong bối cảnh Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, Khoá XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa được ban hành. Đây là những chủ trương lớn, rất quan trọng, là cơ sở để tiếp tục phát triển nhiều thành phần kinh tế trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và cũng là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện lý luận, thực tiễn về thi đua, khen thưởng nói chung và thi đua, khen thưởng trong doanh nghiệp nói riêng. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng đối với doanh nghiệp trong điều kiện đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập quốc tế. Tập đoàn kinh tế Nhà nước, tổng công ty Nhà nước là nhóm công ty có quy mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác, tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Theo đó, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước được kỳ vọng đảm đương những vai trò hết sức quan trọng. Hội thảo khoa học đổi mới công tác thi đua, khen thưởng tại các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước Mặc dù mục tiêu, nhiệm vụ và vai trò của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước là hết sức nặng nề, nhưng nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước vẫn quan tâm làm tốt công tác xã hội và tổ chức các phong trào thi đua để góp phần thúc đẩy thực hiện mục tiêu sản xuất, kinh doanh. Các phong trào thi đua trong khu vực này thời gian qua tập trung thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hành tiết kiệm; cùng các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao. Phương thức tổ chức thi đua cũng khá đa dạng. Cùng với các phong trào thi đua thường xuyên là các đợt thi đua ngắn ngày, thi đua cao điểm gắn với thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh hoặc những ngày lễ lớn, kỷ niệm ngày truyền thống... Ngoài ra, Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương đã tổ chức mô hình Khối thi đua các tập đoàn kinh tế và Khối thi đua các tổng công ty Nhà nước, để các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước cùng phối hợp triển khai các phong trào thi đua do Trung ương phát động và giao lưu, trao đổi các mô hình, điển hình trong tổ chức các phong trào thi đua và công tác khen thưởng trong từng tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Tuy nhiên, công tác thi đua, khen thưởng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước còn không ít khó khăn, thách thức. Việc tổ chức phong trào thi đua phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp; phụ thuộc vào hiệu quả, kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Có nơi, có lúc phong trào thi đua còn hình thức, chưa thực sự sâu rộng, chưa gắn kết với thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; khen thưởng cho người lao động trực tiếp cũng chưa thực sự được quan tâm. Một số tập thể, cá nhân sau khi được khen thưởng thành tích chưa được phát huy, lan toả; cá biệt còn có trường hợp vi phạm pháp luật... Những tồn tại, khó khăn, với nhiều nguyên nhân cả về mặt khách quan và chủ quan đã tác động không nhỏ cho việc triển khai, tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện công tác khen thưởng ở các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước trong thời gian tới, tạo động lực quan trọng trong phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu vực các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Hội thảo đã tập trung 5 nội dung: Thứ nhất, đánh giá về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, đánh giá vai trò của tổ chức Đảng; vai trò phối hợp của tổ chức công đoàn và các đoàn thể quần chúng với việc triển khai phong trào thi đua nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Thứ ba, các giải pháp nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua khen thưởng... Thứ tư, hoàn thiện đánh giá tiêu chí đánh giá kết quả phong trào thi đua đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và đối với người trực tiếp lao động... Cuối cùng là vai trò của cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng đối với việc đổi mới công tác thi đua, khen thưởng tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong thời gian tới. Hồng ThiếtTĐKT - Trong Bản Di chúc lịch sử, trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương binh và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình. Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương, cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Những tư tưởng, tình cảm của Người dành cho thương binh, liệt sĩ và thân nhân của họ tới nay vẫn được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng, kế thừa và phát huy.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tất cả mọi người, đặc biệt là các cụ già, phụ nữ, thanh thiếu niên, nhi đồng, các chiến sĩ, thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ. Trong tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Người đã viết: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”.
Xuất phát từ tình cảm chân thành đó đối với thương binh, liệt sĩ, ngay sau cuộc Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, giữa bộn bề công việc và khó khăn chồng chất nhưng Người vẫn không quên các thương binh, thân nhân liệt sĩ: "Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cám ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con của tôi".
Khi sang thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viếng thăm Đài tưởng niệm chiến sĩ tử trận tại Biarit, mộ chiến sĩ vô danh tại Khải Hoàn Môn, mộ liệt sĩ bị phát xít Đức bắn trên đồi Valêriêng. Người nói: "Trông thấy nghĩa sĩ Pháp vì độc lập và tự do mà bị người Đức tàn sát, lại nhớ đến nghĩa sĩ Việt cũng vì độc lập, tự do mà cũng bị người khác tàn sát, khiến cho người ta thêm nỗi cảm động ngậm ngùi". Từ đó, Người khẳng định: dù ở đâu, bất cứ nơi nào, độc lập - tự do đều do xương máu của các nghĩa sĩ và sự đoàn kết của toàn dân mà xây nên. "Vậy nên, những người chân chính yêu chuộng độc lập, tự do của nước mình, thì cũng phải kính trọng độc lập, tự do của dân tộc khác".
Để bày tỏ tình cảm thắm thiết, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị thương tật vì đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị các ban, ngành, đoàn thể Trung ương đang họp ở Đại Từ, Thái Nguyên, lấy ngày 27/7/1947 làm "Ngày Thương binh toàn quốc" đầu tiên. Đến năm 1955, "Ngày Thương binh toàn quốc" được đổi tên thành "Ngày Thương binh - Liệt sĩ".
Mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng hằng năm, cứ đến ngày 27/7, Bác đều trực tiếp gửi thư, tặng quà, đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ và viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang. Người còn trích 1 tháng lương của mình tặng các thương binh. Ngay cả những tặng phẩm của đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài kính tặng, Bác đều tặng lại các thương binh. Người luôn khẳng định ý nghĩa cao cả của ngày 27/7, bởi vì đó là “một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”. Người kêu gọi đồng bào cả nước hãy thể hiện tình cảm thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình bằng những việc làm thiết thực nhất: “Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sỹ bị thương. Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng”.
Trong “Bài điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người viết: “Tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà, hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân... Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!”. Đó là tình cảm trân trọng và tiếc thương của một vị lãnh tụ dành cho người đồng chí trung kiên bởi vì “có cái chết hóa thành bất tử”.
Thực hiện lời răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với truyền thống và đạo lý của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. “Đền ơn, đáp nghĩa” ngày nay đã trở thành một phong trào sâu rộng, có sức lan tỏa lớn lao và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tích cực, chủ động tham gia, mang tính hiệu quả và thiết thực.
Hàng năm, Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 đã trở thành ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước. Từ đó có những việc làm thiết thực, thường xuyên để giúp gia đình, con em những người đã hy sinh, mang thương tật vơi bớt khó khăn trong cuộc sống.
Phạm Viết Đạt
70 năm chính sách ưu đãi người có công với những chặng đường hoàn thiện
TĐKT- “Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý ngàn đời của dân tộc. Truyền thống đạo lý tôn thờ, hậu đãi người có công với đất nước, với dân tộc của cha ông đã được kế thừa và phát huy trong thời đại Hồ Chí Minh và là nền tảng sức mạnh để dân tộc ta làm nên những chiến thắng lừng lẫy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nửa thế kỷ qua. Ngay từ những ngày đầu non trẻ của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và nêu lên những quan điểm cơ bản về ưu đãi người có công với cách mạng. Đánh giá rất cao công lao, thành tích của các thương binh, liệt sĩ, gia đình quân nhân, những cá nhân và gia đình có công với cách mạng, Hồ Chủ tịch đã viết: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc với nhân dân. Cho nên, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, chính sách đối với người có công đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong quan điểm khẳng định thực hiện công tác ưu đãi người có công với cách mạng là góp phần củng cố vững chắc hậu phương, tạo sức mạnh cho tiền tuyến đánh giặc lập công. Văn bản pháp luật đầu tiên về ưu đãi người có công với cách mạng là Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký ngày 16/2/1947, sau đã được bổ sung bằng Sắc lệnh số 242/SL ngày 12/10/1948 quy định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng “tử sĩ”, thực hiện chế độ “ lương hưu thương tật” đối với thương binh, chế độ “tiền tuất” đối với gia đình liệt sĩ. Khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, bước sang thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định công tác thương binh, liệt sĩ là một trong những vấn đề lớn của nước ta. Mười năm sau ngày giải phóng (1975 - 1985) là giai đoạn có những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của nước ta. Pháp luật ưu đãi càng có những thay đổi, bổ sung để khắc phục một số bất hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại, hình thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới. Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quy định bổ sung, sửa đổi về đối tượng, điều kiện hưởng trợ cấp ưu đãi và quy định thống nhất thực hiện chính sách ưu đãi trong phạm vi cả nước... Trao quà cho Thương, bệnh binh tại tỉnh Hà Giang Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã nêu rõ một nguyên tắc chung là chế độ ưu đãi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và được bảo đảm bằng ngân sách Nhà nước. Điều đáng lưu ý nhất là chế độ trợ cấp hàng tháng đã từng bước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với người có công trong thực tế so với trước đây không còn đơn thuần là sự liệt kê bao cấp (định tính) mà đã mang tính định lượng cụ thể, sát thực, khách quan và linh hoạt; góp phần ổn định đời sống người có công với cách mạng, tạo điều kiện cải thiện rõ rệt đời sống một bộ phận người có công có hoàn cảnh đặc biệt như các Bà mẹ Việt nam Anh hùng, người có công giúp đỡ cách mạng và thân nhân liệt sĩ già yếu, cô đơn; góp phần củng cố lòng yêu nước, lòng tin đối với Đảng, chế độ; cổ vũ họ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Để đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không ngừng được bổ sung, sửa đổi phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước, đồng bộ với những văn bản pháp luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật. Chính sách ưu đãi xã hội quy định tại Pháp lệnh đã đi vào đời sống xã hội và đạt được nhiều kết quả. Hầu hết người có công và thân nhân của họ đã được hưởng các chế độ ưu đãi của nhà nước. Hàng năm, ngân sách Nhà nước đã dành gần 30.000 tỷ đồng để thực hiện chế độ ưu đãi nhằm không ngừng chăm lo đến đời sống của người có công với cách mạng ngày càng tốt hơn. 97% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú. 96,5% xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công. Đời sống người có công được ổn định và từng bước được cải thiện, góp phần to lớn ổn định chính trị, xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ Xã hội chủ nghĩa; góp phần ổn định chính trị - xã hội để phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Nhìn chung, Pháp lệnh đã thể chế cơ bản hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công, tạo lập hành lang pháp lý, trở thành công cụ cho hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ưu đãi xã hội. Đây là tiền đề để thực hiện sự ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với người có công, đảm bảo sự dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Mặc dù vậy, ông Nguyễn Duy Kiên, Phó Cục trưởng Cục Người có công cho biết: chính sách ưu đãi người có công hiện nay vẫn còn một số vấn đề vướng mắc, bất cập. Vì vậy, thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/07/2016 của Quốc hội về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2016 và 2017, văn bản số 4869/VPCP-PL ngày 11/5/2017 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang đề nghị các địa phương tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 nhằm đánh giá toàn diện việc thực hiện Pháp lệnh. Qua đó, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số quy định trong chính sách ưu đãi người có công, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện tốt chủ trương của Đảng qua các kỳ Đại hội X, Đại hội XI, Đại hội XII. Cũng theo Phó Cục trưởng Cục Người có công Nguyễn Duy Kiên, để hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công hơn nữa, trước hết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi xã hội người có công với cách mạng, phấn đấu đến năm 2020 hoàn chỉnh hành lang pháp lý trong lĩnh vực này, đặc biệt, điều chỉnh chế độ trợ cấp ưu đãi trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân xã hội. Cùng với đó, triển khai thực hiện đồng bộ các chế độ ưu đãi về kinh tế - xã hội nhằm nâng cao mức sống người có công trên mức trung bình của xã hội, đúng theo nguyên tắc đã được ghi nhận trong Cương lĩnh xây dựng đất nước: “Không chờ kinh tế phát triển cao mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”. La GiangKhắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
TĐKT - Khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là vấn đề cấp bách, mang tính thời sự nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, giúp Đảng không ngừng củng cố niềm tin với quần chúng nhân dân, với đội ngũ cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công tạo dựng, vun trồng: Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Hơn tám mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã giành được những thắng lợi rực rỡ, ghi đậm những dấu ấn không thể phai mờ trong dòng chảy chung của lịch sử dân tộc. Lớp lớp những thế hệ cán bộ, đảng viên, những người con ưu tú của dân tộc đã không tiếc máu xương, dâng hiến cả cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc ngoại xâm cùng bè lũ tay sai bán nước đã thực sự hoà quyện thống nhất với khát vọng giải phóng dân tộc. Thống nhất non sông, đất nước đã trở thành mục tiêu, động lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hướng tới, quyết vượt qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù để chiến thắng, viết lên bản anh hùng ca về bản lĩnh, ý chí sức mạnh và con người Việt Nam trong thời đại mới. Những thắng lợi vĩ đại đó là thành quả, công sức của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người con ưu tú của dân tộc. Tuy nhiên, ngày nay, để giữ vững được những thành tựu vĩ đại đó, vấn đề đặt ra là phải khắc phục cho được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của Đảng đã chỉ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước”. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế tri thức, trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Cần có đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, thực sự đại diện cho trí tuệ, lương tâm, danh dự đứng mũi, chịu sào trước những nhiệm vụ, tình thế mới đặt ra. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên bao gồm 18 vấn đề, là những vấn đề rất cơ bản, căn cốt được đúc rút từ chính thực tiễn hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ những biểu hiện trong nội bộ bản thân của mỗi con người… Để khắc phục những biểu hiện của việc suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của Đảng đã đề ra 10 giải pháp cơ bản. Trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 4 khoá XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ rõ cần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Đây được coi là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong xây dựng, rèn luyện, cũng như trong đấu tranh, khắc phục sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong đó, cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng… Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, tập thể lên trên lợi ích cá nhân, không mang nặng chủ nghĩa cá nhân, có như vậy, mới từng bước khắc phục được những biểu hiện của việc suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Có thể coi đây là bước đột phá chủ yếu hiện nay nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên. Không thể mong chờ có đội ngũ cán bộ tốt, nếu không có quan điểm và phương pháp công tác đúng, không thực hiện tốt công tác cán bộ. Phải thực hiện tốt việc “phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài”; kiên quyết loại bỏ những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, năng lực yếu kém, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống…, coi đó là những vấn đề cấp bách, cần thực hiện với những biện pháp tích cực và mạnh mẽ. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại bỏ đối với những cán bộ, đảng viên không có đủ uy tín trước tập thể, trước nhân dân, không có năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc, cũng như sa vào những vấn đề lợi ích nhóm, thu vén cá nhân, không quan tâm đến công việc. Nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, đảng viên có chức, có quyền trong tu dưỡng, rèn luyện; đồng thời gắn trách nhiệm của họ với việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị và theo tinh thần: người đứng đầu và cấp uỷ cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là vấn đề lâu dài, phức tạp cần tiền hành thường xuyên, thận trọng từng bước một. Do đó, cuộc đấu tranh này cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm chính trị cao, như V.I.Lênin đã nói: không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài chính những khuyết điểm của bản thân của chúng ta. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn ý thức được mỗi hành động, việc làm của mình, luôn đặt mình trong tổ chức, có những suy nghĩ, hành động, việc làm đúng với quan điểm, đường lối của Đảng trước khi hành động để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra. Mỗi cán bộ, đảng viên đều có trong tay mình thanh gươm bảo bối đó là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, vì vậy, cần có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi tình huống khó khăn, thử thách, luôn kiên định với con đường, mục tiêu mà bản thân đã lựa chọn. Nguyễn Tú AnhTĐKT - Sáng 4/7, tại Hà Nội, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng "Đời sống mới" trong thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh". Chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; GS,TS. Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Trương Thị Ngọc Ánh, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
Ngày 3/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 44 thành lập Ban Trung ương vận động đời sống mới và một năm sau (ngày 20/3/1947), với bút danh Tân Sinh, Người cho xuất bản tác phẩm "Đời sống mới". Tác phẩm trình bày một cách cặn kẽ, cơ bản nội dung của đời sống mới, từ khái niệm, mục đích, đối tượng của đời sống mới; hướng dẫn cách thức thực hành đời sống mới trong mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, từng nhóm đối tượng và môi trường cụ thể; định hướng phương châm và phương pháp xây dựng đời sống mới một cách vắn tắt, thiết thực, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện.
Hội thảo được tổ chức với mục đích thông qua tác phẩm làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, giá trị thực tiễn để vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về "Đời sống mới" trong thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên phát động, đặc biệt là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" trong giai đoạn hiện nay.
Toàn cảnh Hội thảo
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, đồng chí Trương Thị Ngọc Ánh, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho biết: từ cuộc vận động "Xây dựng nếp sống mới" do Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam khóa III phát động năm 1980, đến cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" năm 1995 và nay là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" là những minh chứng thiết thực, biểu hiện sinh động cho mọi phong trào thi đua ái quốc trong thời kỳ mới của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. Cuộc vận động đã tạo ra phong trào toàn dân thi đua phát triển kinh tế, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, huy động hàng ngàn tỷ đồng góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo. Từ tháng 9/2010 đến nay, "Quỹ vì người nghèo" ở bốn cấp đã tiếp nhận trên 10.500 tỷ đồng, giúp sửa chữa và nâng cấp trên 1.400.000 nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo; tạo điều kiện hỗ trợ hàng triệu hộ nghèo khám, chữa bệnh, học tập, phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo. Đến nay, cả nước đã có 121.047 xã, phường, thị trấn được công nhận thực hiện tốt công tác đền ơn, đáp nghĩa; 83,9% hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa; 71,19% khu dân cư đạt danh hiệu Khu dân cư văn hóa; 87,7% thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố có hương ước, quy ước được phê duyệt. Nhân dân đã trực tiếp đóng góp hàng ngàn tỷ đồng, hàng triệu ngày công, tích cực hiến công, hiến của tham gia xây dựng nông thôn mới. Đến quý I/2017, cả nước đã có 2.656 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 29,76%; 33 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 3 huyện so với cuối năm 2016 và 18 huyện so với cuối năm 2015.
Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh nhấn mạnh: có thể khẳng định, với tính chất toàn dân, toàn diện, cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" tiếp tục là minh chứng thiết thực trong việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn mới; thể hiện tính sáng tạo, kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh qua tác phẩm "Đời sống mới" trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, để thực hiện hiệu quả cuộc vận động trong thời gian tới, phải tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; phát huy sức sáng tạo, đổi mới nội dung và hình thức thực hiện của từng địa phương, đơn vị, cộng đồng và các hộ gia đình. Làm cho mỗi nội dung của cuộc vận động là cơ sở cho việc triển khai mọi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương; hạt nhân củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; biểu tượng kết nối các phong trào thi đua ái quốc của mọi cấp, ngành, đơn vị; động lực khơi dậy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, thế mạnh của từng địa phương, vai trò tự quản của cộng đồng, tinh thần tự nguyện, tự giác của mọi người dân trong xây dựng và phát triển đất nước…
Tại Hội thảo, các đại biểu đã cùng trao đổi về các nội dung: "Đời sống mới" - tác phẩm đặt nền móng cho xây dựng con người mới, văn hóa mới, xã hội mới; "Đời sống mới" - tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, thương dân, bài học quý giá trong tập hợp, vận động quần chúng nhân dân; "Đời sống mới" - tác phẩm khơi nguồn cho mọi phong trào thi đua yêu nước, nền tảng cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam thế kỷ 20.
Phương Thanh
Tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào thi đua đạt danh hiệu “Công nhân giỏi Thủ đô”
TĐKT – Hàng năm, UBND phối hợp với Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) TP Hà Nội phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ), nhất là phong trào thi đua "Lao động giỏi" phấn đấu trở thành "Công nhân giỏi Thủ đô". Đồng thời, tổ chức nhiều hội thi thợ giỏi ở các lĩnh vực, ngành nghề nhằm khơi dậy tiềm năng lao động sáng tạo, ý thức chủ động, tiền phong, gương mẫu của đội ngũ công nhân, lao động. Mỗi năm, phong trào đều được các cấp công đoàn Thủ đô tích cực hưởng ứng, tìm cách làm mới để tạo được hiệu quả cao nhất. Năm 2017 là năm thứ 11 phong trào được tổ chức triển khai. LĐLĐ TP Hà Nội đã chỉ đạo LĐLĐ các quận, huyện, thị xã, công đoàn ngành, công đoàn cấp trên cơ sở phối hợp với chính quyền đồng cấp tổ chức phát động các phong trào thi đua tới toàn thể đoàn viên, CNVCLĐ. Trong đó khối sản xuất, kinh doanh tập trung vào phát động, đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu “Công nhân giỏi Thủ đô”. Nét mới trong chỉ đạo tổ chức phong trào thi đua năm nay là đã gắn với cuộc vận động "Công đoàn đồng hành với doanh nghiệp tăng năng suất lao động; thực hiện "Quyền lợi đảm bảo, phúc lợi tốt hơn cho đoàn viên, người lao động". Phong trào đã góp phần động viên, khai thác mọi tiềm năng, trí tuệ của từng công nhân, lao động nghiên cứu, sáng tạo, tìm tòi những sáng kiến cải tiến, đúc rút các kinh nghiệm từ nghề nghiệp, nghiên cứu các quy trình công nghệ để hợp lý hóa sản xuất, tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất, tiết kiệm vật tư, nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống người lao động. Bà Nguyễn Thị Tuyến - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐVN, Chủ tịch LĐLĐ TP. Hà Nội và ông Đặng Quang Điều - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐVN, Trưởng ban Chính sách xã hội và Thi đua khen thưởng Tổng LĐLĐVN trao Bằng chứng nhận và vòng nguyệt quế cho "CN giỏi Thủ đô" năm 2017 Với anh Nguyễn Văn Tú, kỹ thuật viên sửa chữa ô tô bậc 6/7, Công ty Liên doanh Toyota Giải Phóng, thực hiện phong trào thi đua trở thành công nhân giỏi là luôn tự nhắc nhở mình phải gương mẫu trong lao động sản xuất, thường xuyên có sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, góp phần tăng năng suất, tiết kiệm nguyên vật liệu; thường xuyên nâng cao kỹ thuật tay nghề cao. Do đó, các sản phẩm của anh làm ra luôn có chất lượng tốt. Hai năm liên tục, anh được công ty bình chọn là kỹ thuật viên xuất sắc tiêu biểu. Năm 2016 anh đạt giải nhì Hội thi tay nghề do Toyota Việt Nam tổ chức cho kỹ thuật viên cao cấp. Đối với anh Đinh Chí Kiên, tổ trưởng tổ sản xuất chiết bia hơi, phân xưởng công nghệ, Công ty cổ phần bia Sài Gòn - Hà Nội, sáng kiến, cải tiến là động lực giúp anh say mê với công việc. Anh luôn chủ động học hỏi, nghiên cứu các giải pháp để ứng dụng vào chuyên môn hiệu quả, tiết kiệm tối đa thời gian, tăng năng suất lao động. Những năm qua, anh đã có sáng kiến cải tiến, chế tạo toàn bộ hệ chiết bia hơi, hệ băng tải ra vào, nghiên cứu chế tạo máy rửa keg 2L sơ bộ, máy gắp keg 2L thành phẩm, chuyển đổi chế tạo thả nắp dập bằng tay sang tự động và đưa vào ứng dụng tại nơi sản xuất. Với thành tích đó, từ năm 2012 – 2016, anh liên tục đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở. Năm 2015 được Bộ Công thương tặng Bằng khen. Đồng chí Nguyễn Duy Thịnh, công nhân 6/7, tổ trưởng sản xuất CNC2, Công ty Cổ phần xích líp Đông Anh thuộc công đoàn ngành Công thương Hà Nội, nhiều năm qua đã cùng các anh em trong tổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đạt 112% kế hoạch sản xuất hằng năm. Bản thân anh luôn chịu khó tìm tòi, học hỏi cách tiếp cận với công nghệ cao, đạt năng suất lao động 200%. Năm 2015, 2016, anh được công nhận là công nhân giỏi cấp ngành và "Người thợ trẻ giỏi" khối doanh nghiệp TP Hà Nội. Dù ở bất kỳ ngành, nghề, cương vị công tác gì, những người công nhân, lao động luôn bộc lộ đức tính cần cù trong lao động, tích cực tìm tòi, sáng tạo trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống người lao động. Có thể nói, phong trào "Lao động giỏi" phấn đấu trở thành "Công nhân giỏi Thủ đô" đã khẳng định được ảnh hưởng, tác dụng to lớn đối với sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, được đông đảo cộng đồng doanh nghiệp và công nhân, lao động mọi lĩnh vực tích cực hưởng ứng, trở thành phong trào hành động cách mạng của tổ chức Công đoàn Thủ đô. Thông qua các hình thức tôn vinh “Công nhân giỏi” có thành tích xuất sắc ở cấp mình, đã tạo không khí thi đua sôi nổi trong lao động, sản xuất, khơi dậy ý chí, lòng nhiệt tình, say mê sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của người lao động. Sức sáng tạo của công nhân ngày càng được phát huy. Qua 11 năm đã có 125.358 sáng kiến được công nhận ở cấp cơ sở, 10.052 sáng kiến được công nhận ở cấp trên cơ sở. Từ những sáng kiến, kinh nghiệm từ cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, Hội đồng tư vấn đã tham mưu xét chọn đề nghị Chủ tịch UBND TP Hà Nội tặng Bằng khen công nhận “Sáng kiến, sáng tạo Thủ đô” cho 954 cá nhân, trong đó có 650 sáng kiến tính được giá trị làm lợi bằng tiền là 1.390 tỷ đồng. Riêng trong năm 2017, TP Hà Nội có 33.270 công nhân, lao động được công nhận danh hiệu công nhân giỏi cấp cơ sở, tăng 7,1% so với năm 2016; 1.962 công nhân, lao động được công nhận công nhân giỏi cấp trên cơ sở. Thời gian tới, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra cho đất nước ta nói chung và Thủ đô nói riêng nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn thách thức ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, kinh doanh và đời sống, việc làm của công nhân, lao động. Các doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn do tác động của các yếu tố đầu vào sản xuất, kinh doanh tăng, cầu hàng hóa giảm, cùng với thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp vẫn là nỗi lo tiềm ẩn. Từ đó, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng hơn nữa của tổ chức công đoàn, các cấp, các ngành, Adoanh nghiệp và đông đảo CNVCLĐ. Để phong trào thi “Lao động giỏi” nói chung và phong trào thi đua phấn đấu đạt danh hiệu “Công nhân giỏi Thủ đô” nói riêng mang lại hiệu quả cao hơn, các cấp công đoàn thành phố cần tiếp tục tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền đồng cấp. Nghiêm túc triển khai thực hiện chỉ thị 34 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 7/4/2014 về “Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”. Qua đó, tổ chức các phong trào để động viên khích lệ đội ngũ CNLĐ tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước. Đặc biệt là phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo", đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, hướng vào tháo gỡ khó khăn, ách tắc trong sản xuất, kinh doanh, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như cải thiện điều kiện làm việc, đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, phấn đấu đạt danh hiệu “Công nhân giỏi Thủ đô”. Qua đó, góp phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp phát triển, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển kinh tế- xã hội năm 2017 và những năm tiếp theo. Thục AnhVai trò của hiệp hội trong việc kết nối các nhà khoa học, quản lý và doanh nghiệp
TĐKT - Ngày 11/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức Hội thảo tăng cường vai trò của tổ chức hội trong việc kết nối các nhà khoa học với doanh nghiệp nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 4 tháng đầu năm 2017, Việt Nam có 39.580 doanh nghiệp thành lập mới. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực khoa học – công nghệ rất ít. Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Khoảng 80 - 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu, có loại được sản xuất từ thập niên 1980 - 1990; 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao. Theo VCCI Việt Nam hiện có khoảng 450 hiệp hội doanh nghiệp là ngôi nhà chung thu hút và đại diện cho tổng số khoảng gần nửa triệu doanh nghiệp còn đang hoạt động trên cả nước… Hội thảo tăng cường vai trò của tổ chức hội trong việc kết nối các nhà khoa học với doanh nghiệp nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp Theo TS Trần Duy Khanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Đào tạo Doanh nhân APEC, các tổ chức hiệp hội đóng vai trò quan trọng, là đơn vị trung gian kết nối chuyển giao công nghệ giữa các nhà khoa học, quản lý và doanh nghiệp. Có thể nói, không có các hiệp hội thì nhà khoa học, quản lý và doanh nghiệp không thể gần nhau bởi không có cái nhìn chung. Việc chuyển giao kết quả nghiên cứu vào cuộc sống, ra ngoài sản xuất hay tới doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có điều kiện thuận lợi hoặc có đơn vị, tổ chức nào tìm đến thì làm, do vậy, cần phải xuất hiện nhiều mô hình các tổ chức trung gian. Thông qua chức năng hiệp hội, các nhà khoa học, quản lý tham gia với các doanh nghiệp bằng các hoạt động: tư vấn xây dựng chiến lược; tư vấn ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học – công nghệ; tư vấn đào tạo công nghệ mới, phát triển nguồn nhân lực… Ông Khanh nhấn mạnh, thực tiễn đã chứng minh, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đi lên từ hộ kinh doanh nên thiếu nhiều thứ. Nếu được các nhà khoa học, quản lý tư vấn, hỗ trợ, các doanh nghiệp sẽ phát triển và hội nhập bền vững… Tại Hội thảo, các đại biểu đã tham luận nhiều chủ đề xoay quanh việc kết nối các nhà khoa học, trong đó có các tham luận về hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; chính sách và các chương trình hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; vai trò của các hiệp hội trong việc kết nối giữa các nhà khoa học, nhà quản lý và doanh nghiệp... Hồng ThiếtTrang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- sau ›
- cuối cùng »