Điển hình tiên tiến

Cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ

TĐKT - Sáng 2/4, tại Hà Nội, cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống (4/4/1981 - 4/4/2021) và đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Lãnh đạo Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng. Trong 40 năm xây dựng và trưởng thành, ở từng giai đoạn, hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ cán bộ, công chức, nhân viên, chiến sĩ cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những năm qua, cơ quan Văn phòng đã làm tốt công tác phối hợp hiệp đồng giữa các cơ quan đơn vị trong Bộ Tư lệnh và các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng, Ban Chỉ đạo phối hợp hoạt động Cụm Di tích Lịch sử - Văn hóa Ba Đình, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong tổ chức, triển khai nhiệm vụ. Chủ động tham mưu nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ đón tiếp, tuyên truyền và nhiệm vụ đối ngoại, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ đón tiếp phục vụ đồng bào và khách quốc tế đến viếng Bác, tham quan Lăng và vươn lên từng bước làm chủ nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Đồng thời, đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ tuần tra, canh gác bảo đảm tuyệt đối an toàn cơ quan Bộ Tư lệnh… Cùng đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhân viên, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, tận tâm, tận lực với công việc; nội bộ đoàn kết thống nhất, dân chủ được phát huy, quan hệ phối hợp hiệp đồng với các đơn vị bạn ngày càng tốt hơn. Với những thành tích đã đạt được, cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng được trao tặng: Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba; Cờ thưởng, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen, Cờ thưởng của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; nhiều năm liền cơ quan đạt danh hiệu Đơn vị Quyết thắng, Cờ thưởng đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua của Ban Quản lý Lăng... Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày truyền thống, Cơ quan Văn phòng Ban Quản lý Lăng vinh dự được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Phương Thanh

Người cán bộ “nói dân hiểu, làm dân tin”

TĐKT - Xông xách, nhiệt tình, trách nhiệm, quên mình vì sự bình an của nhân dân, Thượng úy Lê Thừa Văn, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị, từng bước khẳng định mình qua những sáng kiến hữu ích trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và rất nhiều việc làm ý nghĩa hướng tới cộng đồng. “Chính những nụ cười hạnh phúc, lời cảm ơn của bà con, là liều thuốc tinh thần to lớn, là động lực để tôi và đồng đội vượt qua khó khăn, nguy hiểm khi ứng cứu dân.” - Anh chia sẻ. Thượng úy Lê Thừa Văn được trao tặng Giải thưởng Gương mặt trẻ triển vọng toàn quốc năm 2020 Văn sinh ra và lớn lên tại xã Trung Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, phía Nam cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải. Ngay từ nhỏ, anh đã được ông bà kể cho nghe về một thời máu lửa, đất nước bị chia cắt ở chính địa phận quê hương mình, hình ảnh chú công an nhân dân vũ trang kiên cường bám trụ, canh phòng và bảo vệ giới tuyến đã ngấm dần trong anh, trở thành tình yêu và quyết tâm phấn đấu để trở thành người chiến sĩ mang quân hàm xanh. Khi đạt được ước mơ, tốt nghiệp Thủ khoa khóa 26, Học viện Biên phòng, Văn được phân công về Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế (CKQT) Lao Bảo, BĐBP tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu, cũng như các sĩ quan trẻ mới ra trường, Văn gặp rất nhiều khó khăn, từ việc chưa có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, chưa am hiểu địa bàn, phong tục, tập quán của đồng bào, chưa nói được tiếng dân tộc trên địa bàn, chưa va chạm với các loại tội phạm, chưa gặp cảnh bão chồng bão, lũ chồng lũ và rất nhiều khó khăn khác. Trao hàng cứu trợ đồng bào bị ảnh hưởng bởi mưa lũ Trên cương vị Đội trưởng Đội vận động quần chúng, thấm nhuần phương châm phải thực sự vì dân, gần dân, sát dân, nghe được dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin, Văn đã dành rất nhiều thời gian tự học tiếng dân tộc Pa Cô và Vân Kiều trên địa bàn. Từ chỗ không nghe được tiếng nói của đồng bào, anh đã có thể nghe hiểu và giao tiếp thông thường bằng ngôn ngữ của họ. Kiên trì thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc, anh đã hiểu nhiều hơn về phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, điều kiện kinh tế, tâm tư tình cảm của từng hộ dân trên địa bàn. “Cảm thông với hoàn cảnh của các hộ nghèo, tôi luôn đau đáu phải tham mưu triển khai việc gì đó giúp các hộ dân thoát được đói, giảm được nghèo.” - Văn chia sẻ. Nhận thấy khí hậu, thời tiết quanh năm nắng ấm, đất phù sa ven sông Sê Pôn rất thích hợp cho việc trồng cỏ voi, anh đã đề xuất với cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn phối hợp với các đoàn thể địa phương thực hiện hai mô hình “Bò giống cho người nghèo” và “Nuôi dê chuồng”. Đề xuất của anh được ủng hộ, từ năm 2019 đến nay, Đồn Biên phòng CKQT Lao Bảo đã phối hợp với các lực lượng hỗ trợ cho bà con được hơn 60 con bò và 150 con dê, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhờ vậy, bà con đã có thêm thu nhập, kinh tế gia đình dần ổn định, nhiều hộ đã mua được ti vi, lợp lại mái nhà che mưa, che nắng, không còn quá phụ thuộc vào chính sách trợ cấp của Nhà nước. Thượng úy Lê Thừa Văn cùng đồng đội hỗ trợ bà con khắc phục hậu quả do mưa lũ Trong quá trình hoạt động, gắn bó mật thiết với bà con khu vực biên giới, anh càng thấm thía phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”. Đợt lũ lịch sử năm 2020, anh cùng đồng đội đã dầm mình trong mưa lũ nhiều ngày liên tục để giúp di dời hàng trăm người dân tới nơi an toàn. Anh kể: “Có lúc, trời mưa lạnh cùng với cái đói khiến tôi và đồng đội thấm mệt. Lúc đó, trong tôi chỉ có suy nghĩ phải cố gắng hơn nữa, trong lúc khó khăn này nếu ai cũng nản chí thì nhân dân không biết trông cậy vào ai.” Anh nhớ mãi ánh mắt của già làng Hồ Thanh Bình, bản Ca Tăng trong cơn bão Noul năm 2020, khi các anh đội mưa tới nơi, nhà của già làng bị tốc mái hoàn toàn, trong khi trời vẫn mưa, tường nhà nguy cơ bị sập rất cao. Anh đã nhanh chóng báo cáo đơn vị và huy động chiến sĩ; tận dụng vật chất tại chỗ và đơn vị hỗ trợ, anh cùng đồng đội dầm mưa, chắn gió, chèn tường, lợp mái, dựng cột, chằng chống nhà cửa liên tục từ 12h30 phút trưa đến 20h30 tối thì hoàn thành. “Đêm đó, trời lại mưa bão rất to, gió rất lớn, thức đêm cùng đồng đội, chúng tôi cảm thấy thực sự ấm lòng” – Văn bồi hồi nhớ lại. “Bão qua đi, tôi được già làng nhận làm con trong gia đình. Sau này khi các nhà báo đến phỏng vấn, các lãnh đạo, các đoàn thiện nguyện đến thăm hỏi, già làng luôn nhắc đến tôi và đồng đội là những người đến cứu giúp đầu tiên, già làng còn nói với mọi người: Quý con Văn hơn cả con dê, hơn cả tiền bạc.” Anh không quản ngại xuống tận các thôn bản tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân phòng, chống dịch bệnh Covid-19 Năm 2020 với hàng trăm lần xuống bản tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân phòng, chống dịch bệnh Covid-19, kiên trì bám trụ cùng đồng đội tại các tổ, chốt, anh đã 2 lần hoãn đám cưới để toàn tâm toàn ý cùng đồng đội chống dịch. Với Văn, hạnh phúc và tình cảm của nhân dân chính là mục tiêu, là động lực để anh phấn đấu không mệt mỏi. Năm 2020, anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Anh vinh dự được nhận giải thưởng Tình nguyện Quốc gia; 3 Bằng khen của Trung ương Đoàn; Bằng khen của Bộ Tư lệnh BĐBP; Bằng khen của UBND tỉnh Quảng Trị cùng nhiều Bằng khen, Giấy khen khác. Anh vinh dự được bình chọn là Gương mặt trẻ tiêu biểu BĐBP năm 2020, Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân và Gương mặt trẻ triển vọng toàn quốc năm 2020. Phương Thanh

Điểm tựa vùng biên

TĐKT - Bằng những việc làm thiết thực, cụ thể, với tinh thần tận tụy với dân, những năm qua, bên cạnh việc bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng Bản Giàng, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh, đã góp phần xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân ở khu vực biên giới. Giúp dân ổn định cuộc sống Đồn biên phòng Bản Giàng quản lý, bảo vệ đoạn biên giới dài 19,3 km thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội 3 xã biên phòng (Hương Lâm, Hương Liên, Hương Vĩnh). Điều kiện kinh tế, xã hội các xã trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. “Làm thế nào để nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia luôn là vấn đề trăn trở của cấp ủy, chỉ huy đơn vị.” - Anh Nguyễn Tiến Khánh, chính trị viên Đồn biên phòng Bản Giàng cho biết. Đồn Biên phòng Bản Giàng phối hợp với nhà trường trao học bổng trong chương trình “Nâng bước em tới trường” Khó có thể thống kê hết những việc làm xuất phát từ tình thương và trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đồn Biên phòng Bản Giàng dành cho đồng bào các dân tộc nơi biên giới trong nhiều năm qua. Những người lính quân hàm xanh đã đóng góp hàng nghìn ngày công lao động giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước cho nhân dân nắm và thực hiện. Cùng với đó, đơn vị thực hiện tốt mô hình an sinh xã hội như nhận 4 cháu “con nuôi đồn biên phòng”; nuôi dạy các cháu tại đơn vị, “nâng bước em tới trường” 5 cháu có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập, hỗ trợ mỗi cháu 500 nghìn đồng/tháng; phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ giúp đỡ phụ nữ nghèo biên giới 15 mô hình sinh kế trị giá trên 150 triệu đồng. Cử hàng trăm lượt cán bộ kịp thời ứng cứu giúp nhân dân khắc phục hậu quả, giảm thiểu thiệt hại khi có thiên tai, bão lũ xảy ra, đảm bảo an toàn về người và tài sản cho nhân dân trên địa bàn huyện Hương Khê. Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Bản Giàng giúp nhân dân xây dựng nhà mới Đặc biệt, trên địa bàn có đồng bào dân tộc Chứt với 41 hộ, 146 khẩu, là dân tộc có nguy cơ bị tuyệt chủng, được đơn vị phát hiện đưa về định cư tại bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê. Dân tộc Chứt trước đây sống du canh, du cư, đói khổ quanh năm, trình độ nhận thức lạc hậu, có nhiều hủ tục, cả bản không ai biết chữ, 50% người dân trong bản mắc bệnh lao và các dị tật của nạn hôn nhân cận huyết thống. Bằng tình cảm, trách nhiệm và ý chí quyết tâm của người lính Cụ Hồ, các cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng Bản Giàng đã triển khai nhiều biện pháp, nhiều cách làm đưa người dân tộc Chứt tái hòa nhập cộng đồng, vượt qua khó khăn ổn định cuộc sống. “Thắp sáng” Rào Tre Cuộc sống của đồng bào Chứt ở bản Rào Tre đang không ngừng đổi thay, tiến bộ theo thời gian. Từ cuộc sống du canh, du cư, phải trông chờ vào sự trợ giúp của Nhà nước và bộ đội biên phòng, giờ đây bà con đã biết cách làm ăn, dần đẩy lùi được đói nghèo, lạc hậu. Nhiều hộ còn xây dựng được mô hình sản xuất hiệu quả. Có người đã mạnh dạn đi làm ăn xa, những hủ tục lạc hậu cũng đã được đẩy lùi… Để có được điều đó, các cán bộ, chiến sĩ quân hàm xanh đã không quản ngại gian khó, quyết tâm bám bản, tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân lao động sản xuất, xây dựng nếp sống mới. Chính trị viên Nguyễn Tiến Khánh kể: “Giúp người Chứt trồng lúa nước, câu chuyện tưởng chừng như đơn giản nhưng đối với người Chứt thì vô cùng khó khăn. Cán bộ, chiến sĩ phải làm mẫu trước, hướng dẫn họ từng bước làm quen từ cày bừa, gieo mạ, cấy lúa và chăm sóc, thu hoạch. Chúng tôi phải kiên trì mất 10 năm, người Chứt mới có thể bắt đầu tự làm được.” Nhờ sự giúp đỡ của các anh, đến nay, người Chứt đã có trên 3 ha lúa nước, 1 ha hoa màu, 5 hộ gia đình có mô hình trồng rừng và 6 hộ có mô hình chăn nuôi lợn, gà. Cuộc sống của họ từng bước tự lập, tách dần sự lệ thuộc vào trợ cấp của Nhà nước. Ngoài ra, đơn vị cũng tích cực giúp người Chứt khám, chữa bệnh. Với tỷ lệ 50% người mang các mầm bệnh khác nhau trong người, tuổi thọ của người Chứt trung bình không vượt quá 45 tuổi. Đơn vị đã cử một tổ quân y thường xuyên bám sát dân bản khám và điều trị, cấp thuốc miễn phí cho bà con, phối hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế để điều trị loại bỏ bệnh lao trong bản Rào Tre. Đến nay, việc loại bỏ bệnh lao cơ bản đã hoàn thành; tuổi thọ người Chứt ngày một nâng lên. Hôn nhân cận huyết thống là một trong những vấn đề nhức nhối ở bản Rào Tre, nó đã từng gây ra những hệ lụy rất đau lòng. Nhiều đứa trẻ sinh ra bị khuyết tật, khiếm khuyết cơ thể khi có bố mẹ cùng dòng máu. Để giải quyết tình trạng này, các cán bộ, chiến sĩ vừa làm công tác tuyên truyền, giải thích tác hại của hôn nhân cận huyết, đồng thời xây dựng mô hình “cầu nối se duyên”, trực tiếp làm “ông tơ, bà nguyệt”, mai mối, cưới hỏi, tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao cho thanh niên người Chứt gặp gỡ với các thanh niên ngoài bản. Kết quả, các anh đã se duyên cho 6 cặp đôi người Chứt lấy người ngoài bản Rào Tre, đã có 4 cặp sinh con, những cháu bé khỏe mạnh, thông minh, hứa hẹn một thế hệ người Chứt mới giúp bản Rào Tre ngày càng phát triển. Một trong những kết quả nổi bật khác của Đồn biên phòng Bản Giàng đó là thành công trong việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở bản Rào Tre. Trước đây, bản Rào Tre chỉ có 2 đảng viên, không có chi bộ, phải sinh hoạt ghép, các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động kém hiệu quả, việc triển khai các chủ trương, chính sách đến với người dân gặp rất nhiều khó khăn. Chính trị viên Nguyễn Tiến Khánh cho biết: “Chúng tôi đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác bồi dưỡng, tập huấn nguồn cán bộ, nguồn phát triển đảng, như bồi dưỡng học văn hóa, học cảm tình đảng. Quá trình rèn luyện, bồi dưỡng rất công phu và mất nhiều thời gian, đòi hỏi cán bộ biên phòng phải kiên trì, nhẫn nại mới có thể tạo được nguồn quần chúng kết nạp Đảng. Từ năm 2015 đến nay, Rào Tre đã phát triển được 5 đảng viên và đã thành lập được chi bộ Đảng, các đảng viên giữ các cương vị chủ chốt trong hệ thống chính trị - xã hội của bản.” “Không có bội đội biên phòng thì dân bản mình không được như hôm nay đâu. Dân bản mình nhớ ơn bộ đội nhiều lắm.” - Chị Hồ Thị Kiên, Trưởng bản Rào Tre tâm sự. Với sự kiên trì, bền bỉ của các thế hệ cán bộ tại Đồn biên phòng Bản Giàng, cuộc sống đồng bào Chứt nói riêng và đồng bào vùng biên huyện Hương Khê đang có những sự tiến bộ trông thấy. Bức tranh của bản làng biên giới đang thực sự khởi sắc, góp phần tô thắm hình ảnh người chiến sĩ biên phòng trong lòng nhân dân. Phương Thanh

Trưởng bản người Mông giúp dân đẩy lùi hủ tục lạc hậu

TĐKT - Bằng việc huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, anh Thao Văn Dia, Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã giúp người Mông nơi đây xây dựng đời sống văn hóa mới. Hủ tục lạc hậu dần được đẩy lùi, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được cải thiện đáng kể. Anh Thao Văn Dia, Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản Mùa Xuân báo cáo tại Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Thanh Hóa lần thứ X, giai đoạn 2020 - 2025. Cũng như phần lớn các bản vùng cao khác, cuộc sống của đồng bào người Mông ở huyện Quan Sơn trước đây gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân chính là do bà con bị trói buộc bởi những phong tục, tập quán lạc hậu như: Hiện tượng tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tục thách cưới cao, tổ chức tiệc cưới linh đình; tục mổ nhiều trâu để làm ma cho người chết; tục để xác người chết trong nhà nhiều ngày rồi mới đưa đi an táng; tập quán thả rông gia súc, đốt rừng làm nương rẫy… Những hủ tục đó đã ăn sâu trong suy nghĩ, thói quen của đồng bào, làm cho đời sống nhiều hộ gia đình vốn đã khó khăn lại càng khó khăn, nghèo đói hơn. Vì vậy, để loại bỏ những hủ tục ra khỏi đời sống của người dân vùng cao là việc làm không hề đơn giản. Được nhân dân tín nhiệm bầu làm Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản, nhận thức được rằng đẩy lùi hủ tục là vấn đề then chốt để mở đường phát triển kinh tế - xã hội ở một bản vùng cao nghèo khó như bản Mùa Xuân, anh Thao Văn Dia cùng với tập thể chi ủy, ban quản lý bản đã tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới, trọng tâm là vận động người dân cải tạo những phong tục, tập quán lạc hậu. “Để làm được điều đó, tôi nhận thấy rằng cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo được sự đồng thuận của nhân dân và vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại cơ sở.” - anh Thao Văn Dia chia sẻ. Xác định vấn đề cốt lõi là nâng cao nhận thức của nhân dân, anh đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, vận động; ngoài ra, tranh thủ sự ủng hộ và nêu cao vai trò của cán bộ, đảng viên, già làng, trưởng bản, người uy tín trong bản, trong dòng họ… Anh cho biết: “Tâm lý của phần đông đồng bào dân tộc Mông là chỉ tin vào những điều “mắt thấy, tai nghe”. Do đó, những việc làm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, già làng, trưởng bản, người uy tín trong bản, trong dòng họ đối với việc xóa bỏ tập quán lạc hậu, xây dựng văn hóa mới sẽ có giá trị thuyết phục to lớn trong vận động bà con làm theo.” Nghĩ là làm, anh mạnh dạn đề xuất thành lập tổ tuyên truyền xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của bản và xung phong nhận nhiệm vụ tổ trưởng. Các thành viên trong tổ bao gồm ban quản lý bản, chi hội trưởng chi hội phụ nữ, bí thư chi đoàn thanh niên, chi hội trưởng chi hội nông dân, cựu chiến binh. Đối với từng hủ tục, anh cùng các thành viên trong tổ đã tìm hiểu, xác định nguyên nhân và tìm ra phương hướng khắc phục cụ thể. Tổ tập trung vào việc phát huy vai trò của những già làng, trưởng dòng họ, những người có uy tín trong cộng đồng; nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Tổ phân công cho từng thành viên trực tiếp phụ trách các nhóm hộ cụ thể, thường xuyên đến thăm hỏi, trò chuyện, tạo mối quan hệ thân tình với từng hộ gia đình, qua đó, tuyên truyền về tác hại, hệ lụy của các hủ tục đối với đời sống người dân. Đồng thời, ban quản lý bản đã xây dựng được quy ước phù hợp với tình hình thực tế của bản và lấy ý kiến nhân dân trong các buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nội dung không thể thiếu trong những bản quy ước đó là: Không được thả rông gia súc, không nuôi nhốt gia súc dưới sàn nhà sàn; ăn sạch, ở sạch; không đốt nương làm rẫy, không sinh con thứ ba, không để xảy ra tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết; không thách cưới cao, không tổ chức tiệc cưới linh đình; không mổ nhiều trâu, bò để làm ma cho người chết; không để xác người chết trong nhà nhiều ngày rồi mới đưa đi an táng… Anh Thao Văn Dia (ngoài cùng bên trái) tới tận nhà để tuyên truyền, vận động các hộ dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự và xóa bỏ các hủ tục lạc hậu Với sự cố gắng nỗ lực của trưởng bản Thao Văn Dia, chi ủy, ban quản lý bản, tổ tuyên truyền, cùng với ý chí vươn lên của chính người dân, đến nay, 100% các hộ dân trong bản đã có chuồng nuôi gia súc bảo đảm hợp vệ sinh. Khi ốm đau, bệnh tật, bà con đã đưa người ốm đi khám, điều trị tại các cơ sở y tế. Trong toàn bản, đến cuối năm 2020, 100% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đều thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình; tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết đã được chấm dứt hoàn toàn; 100% trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường. Bà con tổ chức tang ma gọn nhẹ, không tốn kém. Việc canh tác lúa nước 2 vụ/năm đã được thực hiện nhằm góp phần chấm dứt việc đốt rừng làm nương rẫy. Nhiều hộ đã khai hoang mở rộng diện tích ruộng để canh tác lúa nước; nhiều diện tích đất hoang hóa đã được chuyển đổi sang trồng rừng và trồng cây ăn quả… Người dân luôn tin tưởng và một lòng theo Đảng. Có được những kết quả trên, Thao Văn Dia chia sẻ, anh rất vui vì đã góp một phần công sức nhỏ bé đẩy lùi các hủ tục lạc hậu; mong muốn của bà con và của anh đã thành hiện thực. Bản Mùa Xuân hôm nay tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng do xuất phát điểm thấp nên đời sống của bà con vẫn còn gặp khó khăn về nhiều mặt: Đường giao thông chưa được đầu tư xây dựng kiên cố; chưa có điện lưới quốc gia; hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục và y tế còn thiếu và đã xuống cấp, khiến cho việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản của bà con nơi đây gặp vô vàn những khó khăn. Trình độ dân trí còn thấp, kiến thức làm ăn của bà con còn hạn chế, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa được chú trọng dẫn đến năng suất và sản lượng cây trồng vật nuôi chưa cao. Trưởng bản Thao Văn Dia mong các cấp có thẩm quyền sớm quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng, cụ thể là kéo điện lưới quốc gia về bản, hỗ trợ làm đường từ bản Ché Lầu đi bản Mùa Xuân, Xía Nọi và bản Khà (xã Sơn Thủy) để người dân có nhiều cơ hội hơn nữa trong việc phát triển về mọi mặt. Phương Thanh

Tâm huyết trọn đời với việc nâng đỡ những đứa trẻ bất hạnh

TĐKT - Năm nay, dù đã bước sang tuổi thất thập nhưng bà Văn Thị Thu Thủy (sinh năm 1952), tức ni sư Thích Nữ Như Trí, Trụ trì chùa Diệu Giác - Phó Giám đốc Nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi chùa Diệu Giác, TP Hồ Chí Minh vẫn nhanh nhẹn, nhiệt huyết với công tác xã hội. Chưa bao giờ bà nghĩ đến việc sẽ ngừng lại công việc tốt đạo đẹp đời cống hiến cho xã hội, luôn cầu nguyện hòa bình thế giới và ngoài kia mãi mãi không còn những mảnh đời bất hạnh, không còn những bữa cơm thiếu trước hụt sau, những trận lũ lụt không còn hoành hành và đau thương sẽ mãi không tồn tại. Năm 2020, bà vinh dự được tôn vinh “Tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng” và được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Ni sư Thích Nữ Như Trí cho biết: Trước giải phóng năm 1975, ni sư cùng quý sư cô mở lớp học tình thương xóa nạn mù chữ cho xóm nghèo tại địa phương. Qua một thời gian, ni sư nhận thấy còn có quá nhiều hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, có những gia đình miếng ăn còn khó kiếm thì nói gì đến việc tìm con chữ. Trong đó, cũng có rất nhiều trẻ em lang thang, có đứa mồ côi cha, có đứa mồ côi mẹ, thậm chí là mồ côi cả cha và mẹ. Mỗi ngày chứng kiến mỗi hoàn cảnh khó khăn khác nhau, ni sư nảy sinh ý nghĩ thành lập Nhà tình thương nhận nuôi các em mồ côi, nhằm phần nào giúp xã hội bớt đi nỗi lo về trẻ em. Các em nhỏ trong Nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi chùa Diệu Giác quây quần bên ni sư Thích Nữ Như Trí trong Ngày Quốc tế Phụ nữ Năm 1989, ni sư chính thức thành lập Nhà tình thương Diệu Giác và hoạt động đến hôm nay. Mỗi ngày, số lượng trẻ bị bỏ rơi càng tăng lên, công việc hỗ trợ càng vất vả nhưng ni sư Thích Nữ Như Trí vẫn kiên trì, toàn tâm, toàn ý lo lắng chu toàn cho các em từ việc học, việc ăn. Ni sư không để các em thua kém các bạn đồng trang lứa, hết lớp này trưởng thành có công việc ổn định lại tiếp tục đến lớp khác. Sự phát triển của xã hội càng cao, tệ nạn càng phát sinh. Bên cạnh việc chăm sóc trẻ em mồ côi, ni sư còn chăm sóc những người nhiễm HIV và chính thức thành lập Phòng tư vấn HIV/AIDS hỗ trợ cộng đồng trên địa bàn Quận 2, TP Hồ Chí Minh vào năm 2001. Phòng là nơi hỗ trợ và giúp đỡ các gia đình có người nhiễm HIV, truyền thông và xóa bỏ kỳ thị trong xã hội, mở các lớp tập huấn cho thân chủ có nhiễm về các vấn đề xã hội. Đồng thời, phòng còn giới thiệu thân chủ được xét nghiệm và uống thuốc ARV miễn phí. Ni sư luôn ủng hộ và kêu gọi các cộng tác viên, nhân viên thiện nguyện hỗ trợ hết mình cho người có nhiễm, luôn thăm hỏi và chăm sóc kịp thời đến những người kém may mắn. Ni sư luôn dạy quý cô, nhân viên  và các con với phương châm “Phụng sự cuộc sống là cúng dường chư Phật”. Hiện ni sư cũng là người quản lý Nhà nuôi dạy trẻ mồ côi Diệu Giác tại số 177 Trần Não, phường Bình An, Quận 2, với gần 100 trẻ mồ côi đủ mọi lứa tuổi. Chưa dừng lại ở đó, ni sư Thích Nữ Như Trí luôn tìm đến những gia đình có hoàn cảnh khó khăn để hỗ trợ, sửa chữa, xây nhà, đào giếng và làm cầu tại các tỉnh thành từ Bắc vào Nam. Những trận lũ lụt xảy ra mỗi năm ở miền Trung và miền Tây, ni sư luôn âm thầm đi cứu trợ. Ngoài ra, hằng năm còn phát quà cho người nghèo tại địa phương vào những dịp lễ, chỉ mong họ có được cuộc sống bình yên. Ni sư Thích Nữ Như Trí thăm và hỗ trợ mổ mắt cho người mù tại tỉnh Kiên Giang Theo lời ni sư Như Trí, hàng tháng, tổng chi phí sinh hoạt cho các em, từ tiền ăn uống, chi phí sách vở học tập, chi phí cá nhân đã lên đến gần 200 triệu đồng, chưa kể các phí đột xuất phát sinh khác. Tuy vậy, bất cứ lúc nào nhà chùa cũng luôn luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để các em sống ở đây có một cuộc sống tương đối, phần nào bù đắp tình thương các em vốn bị thiếu hụt. Để có thể đủ lực trang trải, nhà chùa Diệu Giác đã cho mở quán cơm chay cạnh đó từ năm 1997. Ngoài ra, dựa vào một số nguồn từ các nhà hảo tâm ở khắp nơi, không chỉ trong nước mà kiều bào ở nước ngoài cũng thành tâm quyên góp tiền, chung tay cùng nhà chùa giúp đỡ những mảnh đời cơ nhỡ. Người có tiền giúp tiền, người có gạo ủng hộ gạo, các bạn học sinh - sinh viên ủng hộ sách vở, đồ dùng học tập, các cô bác tiểu thương ủng hộ rau, quả, mắm muối hàng ngày nên cuộc sống của các em nhỏ cũng đỡ phần khó khăn, thiếu thốn. Với các em nhỏ nơi đây, mái ấm tình thương chùa Diệu Giác thực sự là ngôi nhà chung khai mở trí tuệ để các em bé tuy sinh ra không may mắn nhưng đã được giáo dục, chắp cánh ước mơ để tự tin vững bước vào đời. Mai Thảo

Mệnh lệnh của trái tim nhà báo nhân ái

TĐKT - Sinh ra và lớn lên ở TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, từ năm lên sáu tuổi, cậu bé Nguyễn Văn Lực đã theo mẹ đi phát gạo, phát muối, phát mì tôm cho người nghèo. Năm 1969, anh gia nhập Đoàn Thanh niên Hồng thập tự Đà Lạt khi tròn 16 tuổi, được tham gia nhiều hoạt động trợ giúp những mảnh đời bất hạnh, chăm lo cho các hoàn cảnh khó khăn, giúp trẻ mồ côi và người khuyết tật. Sau năm 1975, anh làm công tác báo chí, phát thanh truyền hình rồi về làm lãnh đạo chuyên trách công tác Hội Nhà báo và là Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo Lâm Đồng. Cuộc đời cứ đưa đẩy anh làm hết việc này đến việc khác, nhưng có một việc chẳng ai phân công, chẳng ai “bổ nhiệm” vậy mà nó cứ cuốn hút và thôi thúc người đàn ông ấy hơn 50 năm qua, đó là công việc từ thiện. Tâm sự với chúng tôi anh bảo rằng: Những năm làm báo, được đi nhiều, thấy nhiều, hiểu nhiều, anh càng cảm nhận rõ hơn và thấu hiểu được nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh. Ngòi bút của anh viết về hoàn cảnh của những người bị bệnh hiểm nghèo, về cái chết luôn rình rập cướp đi sinh mạng của những cháu bé bị bệnh tim, về sự trống trải, cô đơn của những đứa trẻ mồ côi, của những cụ già không nơi nương tựa… đã chạm đến trái tim của hàng triệu độc giả. Hàng trăm nghìn nhà hảo tâm trong số hàng triệu độc giả ấy đã chủ động tìm đến anh để tìm hiểu và trao đổi cách thức để giúp cho những đối tượng này. Anh Nguyễn Văn Lực cùng các nhà hảo tâm đến trao hỗ trợ cho các hoàn cảnh khó khăn 10 năm qua, từ ngày được bầu làm Chủ tịch Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo – Người tàn tật và Trẻ mồ côi tỉnh Lâm Đồng đến nay, anh đã vận động hơn 500 tỷ đồng để giúp đỡ hơn 1.300 trẻ em và bệnh nhân nghèo được phẫu thuật tim, giúp đem lại ánh sáng đôi mắt cho gần 10.000 người cao tuổi; tặng 4.000 xe lăn, xe lắc cho người khuyết tật và bệnh nhân bị tai biến, bại liệt. Hơn 1.500 xe đạp và 1.200 suất học bổng đã được trao cho học sinh mồ côi, học sinh khuyết tật và học sinh nghèo, gần 100 ngôi nhà tình thương được xây dựng. Đã có 421 cháu bé bị dị tật bẩm sinh được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng; hơn 4.000 lượt học sinh mầm non và học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số được tài trợ nâng cao thể trạng từ những bữa ăn dinh dưỡng; 5.000 thẻ bảo hiểm y tế được tặng cho những gia đình khó khăn; hơn 100 hoàn cảnh được hỗ trợ từ các chương trình Tiếp sức hồi sinh, Vượt lên chính mình, Mở cửa tương lai, Khát vọng sống, Thắp sáng ước mơ Xanh, Nhịp tim Việt Nam, Nâng cao chất lượng dinh dưỡng, Phẫu thuật đem lại nụ cười, Trợ vốn khởi nghiệp… Nhiều gia đình được hỗ trợ từ 100 - 500 triệu đồng. Nhiều công trình công cộng như giếng khoan, hệ thống nước sạch, thư viện trường học, cầu giao thông, bếp ăn tình thương được xây dựng để phục vụ đồng bào, bệnh nhân và học sinh vùng sâu, vùng xa... Đó thực sự là những con số “biết nói”, cho thấy sự đam mê, nhiệt huyết của một con người hết lòng vì cộng đồng. Ấy vậy mà khi được vinh danh là Tấm gương sáng vì cộng đồng, được Thủ tướng Chính phủ gặp mặt và tặng Bằng Khen, được phóng viên báo chí quan tâm phỏng vấn, đề nghị chia sẻ về những việc mình làm... anh khiêm tốn nói: “Người ta nói, khi đã giúp gì đó cho ai thì đừng nhớ việc mình đã giúp, khi đã cho người ta cái gì thì đừng kể và khi đã hết lòng để ai đó giành lại mạng sống thì đừng nhắc. Cho nên khi viết những dòng báo cáo, nói ra những việc mình đã làm như thế nào, tôi thấy khó vô cùng”.                 Song thực tế 10 năm qua, được làm việc, hợp tác với anh, chưa ngày nào người ta thấy anh ngơi nghỉ. Với trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức Hội, có lúc anh phải làm việc 30 ngày một tháng và có khi suốt nhiều tuần lễ phải di chuyển liên tục, đến với đồng bào nghèo vùng xa, đến với những hoàn cảnh khó khăn vùng sâu. Cũng có thể do công việc cuốn đi nên sức khỏe của anh có phần giảm sút. Nhưng với anh, được sẻ chia nỗi đau với những người mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo, góp phần lau đi những giọt nước mắt của những người cha, người mẹ khi con mình không có tiền mổ tim, khi mạng sống của các cháu mong manh... mới là niềm vui, là hạnh phúc thực sự. Đó không chỉ là trách nhiệm của người làm công việc bảo trợ mà đó còn là mệnh lệnh của trái tim, là trách nhiệm xã hội của một nhà báo chân chính. Nhà báo Nguyễn Văn Lực đến thăm bệnh nhân Lý Trung Tấn sau khi mổ  tim thành công Anh Lý Trung Tấn, ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng là một người bán vé số dạo. Hàng ngày, anh đi bán vé số để kiếm tiền nuôi gia đình, nhưng thỉnh thoảng bị khó thở, không đi nổi nên có ngày chẳng bán được tờ vé số nào. Anh đến trung tâm y tế huyện khám và được chuyển lên tuyến tỉnh. Các bác sĩ chẩn đoán tim của anh Tấn hở van 3 lá, 2 lá và hẹp động mạch chủ phải vào TP Hồ Chí Minh mổ gấp. Gia đình quá nghèo nên anh Tấn không thể xoay sở số tiền 133.760.000 đồng để mổ tim theo giấy báo của Bệnh viện Tim TP Hồ Chí Minh. Người ta chỉ anh tìm đến Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo - Người tàn tật và Trẻ mồ côi Lâm Đồng để xin tài trợ mổ. Nhưng các nhà tài trợ chỉ hỗ trợ chi phí mổ tim cho đối tượng từ sơ sinh đến 21 tuổi, trong khi thời điểm đó anh Tấn đã 37 tuổi. Không đành nhìn một người trụ cột của gia đình phải đầu hàng trước bệnh tật, anh Lực đã xoay sở mọi cách, nhắn tin nhờ bạn bè hỗ trợ. Trong 1 tuần, anh đã giúp bệnh nhân Tấn có đủ số tiền 133,76 triệu đồng để thực hiện ca mổ thành công. 3 năm sau, đến lượt con gái của anh Tấn nhập viện mổ tim, cũng với chi phí gần 100 triệu đồng và đã được Hội Bảo trợ Lâm Đồng lo toàn bộ chi phí phẫu thuật. Một trường hợp khác là chị Trương Đan Vân, 37 tuổi, cư trú tại 30/1, Khởi Nghĩa Bắc Sơn, thành phố Đà Lạt, mang trong mình 2 căn bệnh hiểm nghèo: Suy thận mạn và Lupus ban đỏ, lại phải nuôi 2 con nhỏ trong độ tuổi ăn học. Chồng của người phụ nữ này là Nguyễn Phi On, 39 tuổi, quanh năm làm thuê, làm mướn để kiếm tiền cho vợ chạy thận nhân tạo. Bốn người trong gia đình nghèo đó ở trong căn nhà dột nát bên cánh rừng thông ở ngoại ô thành phố. Biết được hoàn cảnh éo le đó, anh Lực đã tự hứa phải cứu người phụ nữ này, phải giúp họ sửa lại căn nhà và phải tìm cách lo cho 2 đứa bé nghèo được ăn học. Chỉ trong một buổi vận động, anh Lực và các tấm lòng nhân ái đã mang đến cho gia đình 177.270.000 đồng từ chương trình Khát Vọng Sống. Đó là một số tiền không lớn nhưng đã giúp chị Vân có tiền chữa bệnh, gia đình có tiền sửa lại ngôi nhà, các con của Vân có tiền để yên tâm học hành và tìm cơ hội đổi đời. Đó chỉ là hai trong số hàng trăm ngàn trường hợp nhận được sự trợ giúp từ nhà báo Nguyễn Văn Lực, Chủ tịch Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo – Người tàn tật và Trẻ mồ côi tỉnh Lâm Đồng. Thấy anh mê mẩn với công việc bảo trợ, có người hỏi anh rằng: Có phải vì anh có “khẩu khiếu” và vì anh là nhà báo nên mới dễ thuyết phục người khác “rút túi tiền” giúp cho người nghèo, xây trường học, dựng nhà tình thương... Anh đã thẳng thắn trả lời rằng: Không hẳn là như vậy, bởi vì trong mỗi con người đều có trái tim nhân ái, một khi chúng ta khơi dậy được lòng nhân ái trong họ thì ai cũng sẵn lòng. Bớt đi gói thuốc lá để bệnh nhân nghèo có thêm ký gạo, bớt đi ly rượu, chai bia để người bệnh có được viên thuốc đặc trị, bớt đi tô phở để các cháu mồ côi có bát cơm đầy... việc đó ai cũng làm được. Vấn đề là sự giúp đỡ của họ phải đến đúng đối tượng, người được giúp phải tự vươn lên, các công trình do các nhà hảo tâm giúp đỡ phải được sử dụng có hiệu quả. Rồi bằng mọi cách, hãy mời những mạnh thường quân, những tấm lòng vàng đến tận nhà những người cần giúp, đến bên giường bệnh nhân nghèo để trao tận tay những đồng tiền nhân ái; cùng nhà tài trợ trao cho người tàn tật chiếc xe lăn, tặng cho các cháu mồ côi hộp sữa, chiếc cặp, cây bút… Chính những việc đó đã giúp các nhà hảo tâm không chỉ “tai nghe” mà còn “mắt thấy”, không chỉ hỗ trợ mà còn cảm thông. Anh Nguyễn Văn Lực (ở giữa) đưa các cháu bé bị bệnh tim bẩm sinh nhập viện phẫu thuật tại Bệnh viện Tim Tâm Đức TP Hồ Chí Minh Nhiều người gọi anh với cái tên đặc biệt là “Kẻ đi xin có thương hiệu” – một chức danh chưa từng ghi trong thang bảng lương cán bộ, viên chức nhà nước nhưng anh lại thấy vui vô cùng. Anh bảo: Càng nhiều “Kẻ đi xin có thương hiệu” thì càng có nhiều bệnh nhân nghèo, người tàn tật và trẻ mồ côi được giúp đỡ, cưu mang. Điều quan trọng là tiền của các nhà hảo tâm đóng góp, hỗ trợ, giúp đỡ cho bệnh nhân nghèo, cho trẻ mồ côi hoặc người khuyết tật phải được chuyển ngay đến đúng địa chỉ. Những nỗ lực của anh Nguyễn Văn Lực đã góp phần thắp lên niềm tin về lòng nhân ái, khơi dậy cái tâm, cái thiện trong cộng đồng và thu hút ngày càng nhiều người tham gia hoạt động nhân đạo từ thiện. Năm 2018, anh được tỉnh Lâm Đồng tuyên dương và tặng danh hiệu “Gương sáng đời thường”; năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen và được vinh danh Tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng. Mai Thảo

Chàng trai người Tày đưa gia vị xứ Lạng vươn xa

TĐKT - Những năm gần đây, tại Lạng Sơn, cùng với hoa hồi, cây mác mật dần mang lại giá trị cao, diện tích trồng được người dân mở rộng. Với những bà con vùng cao xứ Lạng, mác mật là loại gia vị không thể thiếu trong các món ăn hàng ngày như vịt, lợn quay… Nhận thấy giá trị của cây mác mật, chàng thanh niên người Tày - Dương Hữu Điện ở xã Chiêu Vũ, huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn đã quyết định khởi nghiệp từ cây gia vị này. Dương Hữu Điện thuyết trình ý tưởng tại Vòng bán kết Cuộc thi Dự án khởi nghiệp sáng tạo dành cho thanh niên nông thôn năm 2019 Điện cho biết, mác mật là loại cây gia vị đặc trưng có ở vùng Đông Bắc bộ như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên… Quả mác mật có thể ăn tươi hoặc dùng để nấu, kho trong một số món ăn đặc sản vùng cao, bởi mùi thơm của loại cây gia vị này rất đặc biệt, tạo cho món ăn trở nên đậm đà, thơm, bùi. Với loại đặc sản vùng cao này, khi ướp vào các món nướng, quay sẽ tạo nên mùi vị lạ và thơm ngon, ngậy và bùi, lại không độc hại, dễ tiêu hoá… Đặc biệt, người dân thường dùng hạt mác mật để chế biến thêm món nước chấm sền sệt. Toàn tỉnh Lạng Sơn hiện có khoảng 350 ha cây mác mật, trong đó, chủ yếu thu hoạch và bán quả tươi với giá trung bình khoảng 15.000 đồng/kg. Diện tích tương đối lớn song trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở chế biến quả, lá mác mật theo hướng hàng hóa. Là người con của Lạng Sơn, nhiều năm làm nghề thu gom lá, Điện chứng kiến quả mác mật bán cho thương lái đưa sang Trung Quốc, giá trị mang lại không cao. Trong khi đó, loại gia vị này ngày càng được sử dụng phổ biến ở thị trường nội địa. “Từ người làm thuê, mình thay đổi nhận thức, vì nhận thấy mác mật là nguồn tài nguyên đặc biệt ở địa phương, cần phải tìm cách nâng cao giá trị gia tăng thay vì bán thô, giá rẻ mạt cho Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân để mình nghiên cứu và chế biến lá, quả mác mật thành nước sốt, một dạng sản phẩm tiện dụng cho người tiêu dùng, giảm chi phí vận chuyển, kho bãi… Chỉ có làm như vậy thì mới nâng cao được giá trị của loại cây gia vị này, người dân tộc mới có thêm việc làm và nguồn thu nhập”, Điện tự tin chia sẻ. Dương Hữu Điện giành được suất đào tạo ngành thương mại quốc tế tại các nước trong khu vực châu Á Tận dụng 6 ha diện tích mác mật tại vườn nhà, Điện đã đầu tư khoảng 30 triệu để mua các thiết bị như máy ép, máy xay để chiết xuất, chế biến sản phẩm từ mác mật. Tháng 4/2020, Điện bắt tay vào thử nghiệm, chế biến, xây dựng công thức cho các loại sốt có hương vị mác mật. Điện cho biết: “Khó khăn nhất là gia giảm sao cho các loại gia vị hòa quyện lại với nhau nhưng vẫn phải giữ được hương vị đặc trưng của mác mật. Sau hàng chục lần gia giảm thành phần, khối lượng, thử tẩm ướp và chế biến các món ăn, 2 sản phẩm gia vị mác mật sấy khô và nước sốt dạng lỏng đã ra đời. Thành phần chính của 2 loại sốt này là quả mác mật, lá mác mật, hồi, quế, hồ tiêu… Tuy đã qua chế biến song hương vị mác mật không bị giảm đi mà còn thơm ngon hơn do có những loại gia vị khác bổ trợ. Đặc biệt, thời gian bảo quản lên đến 1 năm. Với 2 loại sốt này, người tiêu dùng có thể sử dụng để tẩm, ướp các món kho, chiên, nướng, rán, làm nước chấm… Hiện nay, sản phẩm của Điện đã có mặt ở 5 cơ sở quay nướng tại khu vực xã Chiêu Vũ. Tại cuộc thi Dự án khởi nghiệp sáng tạo dành cho thanh niên nông thôn do Trung ương Đoàn phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) tổ chức năm 2019, dự án các loại sốt hương vị mác mật của Điện đã vượt qua hàng nghìn sản phẩm để lọt vào vòng chung kết. Anh nhận được suất đào tạo ngành thương mại quốc tế tại các nước trong khu vực châu Á. Hướng xa hơn, Điện chia sẻ anh sẽ chế biến tinh dầu mác mật và nhiều sản phẩm khác với mong muốn thu hút đông đảo lực lượng đoàn viên, thanh niên tại địa phương tham gia. Dự án nếu được triển khai rộng sẽ mang lại giá trị rất lớn cho người dân và xã hội trên địa bàn tỉnh, góp phần thực hiện thành công chương trình xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Nguyệt Hà

Phát triển kinh tế từ trồng ổi nữ hoàng

TĐKT -  Những năm gần đây, trên địa bàn xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu xuất hiện nhiều mô hình phát triển kinh tế hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao thu nhập cho người dân. Trong đó, phải kể đến mô hình trồng ổi nữ hoàng của ông Nguyễn Thanh Hùng, ấp Hòa Linh bước đầu mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế trên địa bàn xã. Ông Hùng thu hoạch ổi Nữ hoàng Trên diện tích đất sau vườn nhà, hơn 2 năm về trước, gia đình ông Hùng chủ yếu trồng rau màu. Tuy nhiên, theo ông Hùng cho biết, các loại cây này cho năng suất thấp, bán không được giá nên thu nhập không đáng kể. Vốn là người làm nông thuần túy, bao năm vất vả, một nắng hai sương, nhưng trồng hoa màu không mang lại hiệu quả, năm 2019 vợ chồng ông Hùng quyết định chuyển đổi sang trồng ổi nữ hoàng. Lý do đưa ra quyết định này, theo ông Hùng, qua tìm hiểu trên các phương tiện truyền thông, nhận thấy mô hình ổi nữ hoàng có tiềm năng và phù hợp với vùng đất Long Thạnh, ông đã tìm hiểu quy trình chăm sóc, hiệu quả mà giống ổi này mang lại và tìm nguồn tiêu thụ… Vậy là ông quyết định về cải tạo mảnh đất nhà mình và mua 300 cây ổi nữ hoàng về trồng. Qua 8 tháng trồng, đến tháng 9/2019, vườn ổi đã bắt đầu cho thu hoạch mỗi ngày. “Với số vốn đầu tư ban đầu chưa đến 5 triệu đồng, sau 8 tháng trồng, mỗi ngày tôi thu hoạch từ 30 - 50 kg ổi (15.000 đồng/kg), thu về từ 400.000 - 750.000 đồng. Với nguồn lợi nhuận thu được từ trồng ổi nữ hoàng, gia đình tôi mua sắm được nhiều vật dụng có giá trị, kinh tế gia đình khá giả hơn so với trước.”- ông Hùng chia sẻ. Tiếng lành đồn xa, hiện nay có rất nhiều người trong và ngoài xã tìm đến vườn ổi của ông để tham quan và chia sẻ kinh nghiệm. Ông cũng đang chuẩn bị chiết giống để cung cấp cho một số người có nhu cầu mua về trồng. Chia sẻ về kinh nghiệm trồng ổi nữ hoàng, ông Hùng cho biết: Trồng ổi nữ hoàng vốn đầu tư ít, chi phí không cao. Ổi nữ hoàng có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, thời gian sinh trưởng ngắn, tỷ lệ đậu trái và năng suất cao. Trái ổi ngọt, giòn, ít hạt, ít sâu bệnh và cho thu hoạch quanh năm. Chỉ cần đầu tư cây giống một lần, sau khi cây cứng cáp có thể chiết nhánh hoặc ươm hạt để phát triển cây mới. Cũng theo ông Hùng cho biết, khi trái ổi to bằng ngón tay cái (2cm) dùng túi ni-lông bọc kín bên ngoài nhằm hạn chế sâu bệnh, đặc biệt là sâu đục trái. Khoảng hai tháng sau khi bọc trái là có thể thu hoạch. Với sự cần cù, biết nắm bắt thông tin, nhìn ra hướng đi đúng để phát triển kinh tế, ông Hùng đã biến mảnh vườn của mình thành mô hình trồng trọt cho hiệu quả cao.    Tuệ Minh

Thắp sáng niềm tin cho những số phận bất hạnh, tật nguyền

TĐKT - “Tuy hiện tại sức khỏe không tốt nhưng nếu có cơ hội được đi thiện nguyện, tôi sẽ vẫn lên đường” – Đó là lời bộc bạch của bà Phùng Thị Nhung – Phó Chủ tịch Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam. Với bà, từ thiện đã gắn bó như hơi thở cuộc sống trong suốt hơn 20 năm nay, trở thành động lực để bà sống vui, sống khỏe và sống có ích mỗi ngày. Tham gia công tác thiện nguyện từ rất sớm nên bà Phùng Thị Nhung được xem như một trong những người đầu tiên đặt viên gạch xây dựng và phát triển Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam. Với vai trò là hội viên rồi Phó Chủ tịch Hội, bà đã có nhiều cống hiến, góp phần cải thiện đời sống cho trẻ em cơ nhỡ, tật nguyền, thăm và tặng quà cho những hoàn cảnh khó khăn, đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão lụt, thậm chí lan tỏa tấm lòng nhân ái và bao dung tới cả những nơi miền núi xa xôi, hay nơi thường ít được chú ý tới như trại phong Hải Dương, Thái Bình, Trung tâm điều trị HIV/AIDS ở Hà Nội, Cao Bằng, Điện Biên, Quảng Bình... Bà kể: “Có lần, đoàn chúng tôi đến Quảng Bình để trao quà cho đồng bào chịu ảnh hưởng bởi bão lũ. Khi đến bờ sông, do lũ lên cao phải đi phà mới vào được bên trong làng. Nguy hiểm và đói đến mức ai trong đoàn cũng tưởng đó là chuyến đi cuối cùng của mình. Thế nhưng, chúng tôi vẫn kiên quyết không dùng hàng cứu trợ của bà con mà mua tạm cơm nguội để ăn mới có sức đi tiếp. Đó là kỷ niệm sâu sắc nhất trong hơn 20 năm đi làm thiện nguyện của tôi”.   Bà Phùng Thị Nhung (áo xanh, thứ ba từ phải sang) – Phó Chủ tịch Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam trao tặng xe đạp cho trẻ em Đặc biệt, trên cương vị là Phó Chủ tịch, Phó Trưởng ban Dự án, bà đã tích cực xây dựng và vận động tài trợ cho các dự án, đề án phát triển Hội. Chỉ trong 5 năm (2000 - 2005), bà đã xây dựng được 7 dự án lớn nhỏ, quyên góp được 6 tỷ đồng giúp trẻ em khuyết tật có cơ hội được phục hồi chức năng và học nghề tại các cơ sở của Hội. Cùng với đó, chính bà cũng là người vận động thành công 5 tỷ đồng và 10000 m2 gạch lát nền, ốp tường để xây dựng bệnh viện trẻ em khuyết tật tại Hải Dương cùng 10000 suất quà để ủng hộ trẻ em thiếu may mắn ở khắp các cơ sở của Hội. Với vai trò là điều phối viên của dự án “Nâng cao năng lực phục hồi” do một tổ chức của Mỹ tài trợ, bà Nhung đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và tích cực đào tạo được 30 kỹ thuật viên và trang bị được các thiết bị phục hồi chức năng trị giá 4 tỷ đồng để đáp ứng được nhu cầu của trẻ em khuyết tật ở cơ sở. Ngoài ra, bà Nhung còn phối hợp với đơn vị khác như Công ty sự kiện Hà Thành, Công ty cổ phần truyền thông VietSky tổ chức nhiều chương trình ý nghĩa: “Xuân ấm cho em”, “Thắp sáng niềm tin cho em”… để trao những phần quà cho gần 2000 trẻ em khuyết tật có nhiều cố gắng trong học tập và cuộc sống vào các dịp 1/6, tết Trung thu, tết Nguyên đán,… Vốn là một doanh nhân, lại dành rất nhiều thời gian và tâm huyết cho hoạt động thiện nguyện nên ngoài việc vận động tài trợ cho những chuyến đi thăm và trao quà, bà Nhung cũng luôn làm tốt nhiệm vụ đảm bảo tài chính cho công tác hoạt động Hội. Nhất là trong 6 tháng đầu năm 2010, tuy kinh tế bị suy thoái nặng nề nhưng bà vẫn kêu gọi được 500 triệu đồng ủng hộ cho quỹ Hội và giúp đỡ, cải thiện đời sống cho cán bộ, hội viên của mình. Đồng thời, bà cũng đều đặn mỗi năm tổ chức 3 lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ công tác xã hội và kỹ năng chuyên môn cho cán bộ công tác của Hội cùng hội thi “Tiếng hát cán bộ, hội viên Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam” nhằm động viên, khích lệ mỗi người cố gắng và có trách nhiệm với công việc mình đang làm. Bà Phùng Thị Nhung (bên trái) không quản mưa nắng, tìm đến tận các gia đình khó khăn để trao quà hỗ trợ Để có được nhiều đóng góp tích cực hơn nữa cho cộng đồng xã hội, bà Nhung đã lan tỏa tấm lòng nhân ái của mình tới mọi thành viên trong gia đình. Người con gái của bà đang sinh sống ở nước ngoài cũng thường xuyên đóng góp không nhỏ vào những chuyến đi của mẹ. Đó là nguồn động viên to lớn giúp bà tiếp tục chặng hành trình từ thiện không biết mệt mỏi của mình. Chỉ tính từ năm 2016 đến nay, gia đình bà đã ủng hộ tới hơn 1 tỷ đồng cho đồng bào vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thông qua những chuyến đi xa tới Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Quảng Bình… Gần đây nhất, cuối năm 2020, khi vừa mới bình phục sau điều trị bệnh đau lưng, nghe tin vùng lũ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đang gặp nhiều khó khăn, bà đã đến tận nơi, trao hàng trăm suất quà vô vùng ý nghĩa, bao gồm những nhu yếu phẩm cần thiết cho bà con và xe đạp cho học sinh đến trường. Từ những cống hiến cho hoạt động thiện nguyện ấy của bà nói riêng và hoạt động của Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam nói chung, bà Phùng Thị Nhung đã vinh dự nhận được các cấp lãnh đạo và các ban, ngành, đoàn thể tặng nhiều bằng khen và giấy khen như: Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Kỷ niệm chương   của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị, Bảng vàng vinh danh của Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam... Đặc biệt, năm 2020, bà vinh dự được tôn vinh là “Tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng”, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.  Thế nhưng, người phụ nữ thiện tâm ấy vẫn luôn khiêm tốn cho rằng, đó là đam mê của bản thân nên chẳng có gì đáng kể và cũng bởi chỉ có từ thiện mới có thể giúp bà sống vui khỏe mỗi ngày để góp phần nhỏ bé vào sự công bằng, tiến bộ của xã hội./. Hưng Vũ    

Người đàn ông 98 lần hiến máu cứu người: Tất cả vì cộng đồng

TĐKT - Với truyền thống “Thương người như thể thương thân”, hiến máu cứu người là một việc làm rất cụ thể, nhân đạo và đầy tính nhân văn, thể hiện lòng yêu thương con người của dân tộc Việt Nam. Chính vì nghĩa cử cao đẹp đó, mà trong 25 năm qua (từ năm 1996 - 2021), anh Ngô Văn Dư, sinh năm 1974 - số nhà 528/24 Điện Biên Phủ, phường 11, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là nhân viên bảo vệ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đã hiến 98 lần được 146 đơn vị máu và anh đã vận động mọi người cùng tham gia hiến máu cứu giúp người bệnh, góp một phần nhỏ của mình vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tại buổi Lễ tuyên dương “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng”, anh Dư chia sẻ: “Đây là niềm vinh dự lớn nhất trong cuộc đời tôi. Đặc biệt, đây là lần thứ hai tôi được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (lần đầu tiên năm 2014). Đối với tôi, hành trình hiến máu sẽ tiếp tục đến khi bản thân không còn đủ điều kiện thì sẽ dừng lại”. Anh Ngô Văn Dư được vinh danh trong “Top 100 người hiến máu tiêu biểu toàn quốc năm 2020” và được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về những hoạt động thiện nguyện của mình vào tháng 11 năm 2020 tại Hà Nội. Cơ duyên để anh Dư gắn bó với công tác hiến máu tình nguyện, đó là vào năm 1995 tình cờ vào thăm người bạn nằm chữa bệnh tại Bệnh viện Chợ Rẫy, anh chứng kiến một trường hợp có người nhà đang cấp cứu. Họ chạy đôn, chạy đáo tìm người cho máu. Ngay lúc đó, bản thân anh rất muốn tình nguyện cho máu. Nhưng tâm lý rất sợ nhìn thấy máu và nghĩ liệu có ảnh hưởng đến sức khỏe của mình hay không nên anh đã ra về. Những ngày sau đó, hình ảnh bệnh nhân ấy cứ ám ảnh; lương tâm anh thấy cắn rứt vì nghĩ đến người nhà bệnh nhân đó không tìm được người cho máu và nếu không mua máu để bác sĩ cấp cứu kịp thời thì tính mạng họ sẽ ra sao...  “Đến đầu năm 1996 khi tôi tham gia công tác Chi đoàn Dân quân tự vệ và biết đến phong trào vận động tham gia hiến máu nhân đạo do Hội Chữ thập đỏ Trung ương phát động… tôi đã đăng ký tham gia ngay. Cho đến nay là 25 năm, tôi đã hiến máu được 98 lần”, anh Dư cho biết. Sống tự lập từ nhỏ, đến khi trưởng thành, được huấn luyện trong môi trường quân đội, anh Dư luôn có lối sống lành mạnh, không rượu bia, thuốc lá và tinh thần lạc quan, tích cực chơi thể thao. Suốt 25 năm qua, mặc dù đã hiến máu 98 lần nhưng sức khỏe vẫn bình thường, anh duy trì thể lực tốt và ít bệnh tật... Khi được biết việc làm của anh, những người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn ủng hộ, động viên và chia sẻ. Dù vợ và con gái đang ở Mỹ nhưng khi biết tin về những hoạt động của ba mình, cô con gái nhỏ đáng yêu Ngô Đặng Phương Vy Cindy (13 tuổi) rất hãnh diện về người ba của mình. “Con gái rất thương và luôn tự hào về tôi, dù còn nhỏ nhưng con đã có ý thức về việc làm của ba nó. Mới đây, Cindy đăng ảnh hai cha con hồi bé lên mạng xã hội. Tôi rất xúc động và mong sớm được gặp vợ con”, anh Dư xúc động nói.  Ngân hàng SCB, nơi anh Dư đang làm công tác bảo vệ, ở đó anh được đồng nghiệp đánh giá là người hiền lành, chăm chỉ, luôn làm việc thiện vì cộng đồng. Anh Dư chính là điển hình trong hoạt động hiến máu nhân đạo và là tấm gương để toàn bộ cán bộ, nhân viên tham gia đóng góp hiến máu. Năm 2020, chương trình nhân đạo “Trái tim hồng” do Ngân hàng SCB tổ chức đã hiến được 820 đơn vị máu. Chị Trần Thị Mỹ Dung, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng SCB chia sẻ: “Tôi rất trân quý tấm lòng của anh Dư, một người đơn giản những lại không đơn giản, việc làm của anh không phải ai cũng làm được. Thay mặt anh, chị em cán bộ trong Ngân hàng SCB, tôi chúc anh Dư luôn khỏe mạnh để giúp được nhiều người hơn”. Lần hiến máu thứ 97 của anh Dư trong chương trình hiến máu nhân đạo “Trái tim hồng” do Ngân hàng SCB nơi anh công tác tổ chức năm 2020. Khi được hỏi dự định của anh khi sắp chạm mốc 100 lần hiến máu, anh có nghĩ đó sẽ là mốc lịch sử, kỷ lục của 1 người hiến máu không, Anh Dư trầm ngâm nói: “Bản thân tôi không ngờ thời gian đã 25 năm và được 98 lần. Tôi không đặt chỉ tiêu hay chạy theo thành tích. Con số 100 cũng là con số đáng nhớ và kỷ niệm trong cuộc đời tôi và tôi mong đó là động lực để các bạn trẻ phấn đấu tham gia hiến máu. Riêng bản thân tôi luôn nghĩ tham gia hiến máu cứu người mang tính nhân văn giữa con người với con người, là một công việc thiện nguyện liên quan đến mạng sống của con người. Nên ngày nào sức khỏe còn cho phép và còn trong tuổi được và đủ điều kiện tham gia hiến máu thì tôi vẫn tham gia cho đến ngày cuối cùng. Tôi có ước nguyện, nếu sau này có mất đi thì xin hiến xác cho Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh để nghiên cứu khoa học hay cứu người”. Theo anh Dư, bản thân anh hay một vài người hiến thì không thể đủ được. Việc này cần sự chung tay, góp sức của cả động đồng. Chính vì vậy, ngoài việc vận động anh em, bạn bè và các bạn trẻ tình nguyện, anh Dư còn vận động những người thân trong gia đình cùng tham gia, thuyết phục họ bằng chính kinh nghiệm, trải nghiệm của bản thân: “Hiến máu giúp sàng lọc máu cũ, sản sinh máu mới, giúp cơ thể khỏe mạnh và quan trọng, hiến máu là góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe cho mọi người, trong đó có cả những người thân yêu của mình. Đặc biệt, hiến máu là cơ hội để mình kiểm tra sức khỏe, được xét nghiệm xem có mắc các bệnh lây truyền như viêm gan A, B, C, ký sinh trùng sốt rét, HIV hay không…”, anh Dư nói. Trong mỗi chúng ta, dù ở trong hoàn cảnh thế nào, nếu có tấm lòng từ bi, dù công khai hay thầm lặng, đóng góp nhiều hay ít thì đều có điểm chung là mong muốn xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, bớt người nghèo khổ, khó khăn. Bản thân anh Dư cũng thế, mong muốn chung tay vì cộng đồng, tạo sức lan tỏa để mọi người cùng tham gia hiến máu nhân đạo cứu người. Đã từ lâu và đến bây giờ, nhu cầu cần máu cứu người rất cao và khan hiếm. Anh Dư mong muốn mọi người tham gia bởi vì: “Những giọt máu cho đi sẽ thêm những tính mạng con người cần máu được cứu sống và ở lại, và những người khó khăn do không có điều kiện tiếp máu không bị bỏ lại phía sau”. Tố Như

Trang