Điển hình tiên tiến

Sáng kiến, sáng tạo xuất phát từ thực tiễn

TĐKT – Nhờ có khoảng thời gian nhiều năm gắn bó với hiện trường, nắm bắt rõ những khó khăn thực tế, đào sâu suy nghĩ ngay trong quá trình làm việc hàng ngày... nên hàng loạt vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật trong quá trình vận hành máy móc tại Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu đã được anh Nguyễn Xuân Khang cùng đồng nghiệp tháo gỡ bằng những sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hữu hiệu. Hơn 20 năm làm việc tại Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu thuộc Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng cũng là từng ấy năm anh Nguyễn Xuân Khang, Trưởng kho Công cụ không ngừng tìm tòi, nghiên cứu các đề tài, sáng kiến mới để áp dụng vào thực tiễn nhằm tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động. Những sáng kiến của anh đều được các cấp lãnh đạo đánh giá cao và biểu dương, khen thưởng. Kho công cụ được giao nhiệm vụ quản lý, cấp phát và sửa chữa các công cụ xếp dỡ phục vụ khai thác cảng biển. Công cụ do đơn vị phụ trách rất đa dạng và phong phú. Trong những năm gần đây, đơn vị được công ty đầu tư nhiều thiết bị thế hệ mới như bộ cẩu, dây cẩu có sức cẩu lớn, cân treo điện tử đầu cần, các gầu ngoạm điều khiển từ xa... song trong thực tế còn nhiều công cụ thế hệ cũ vẫn đang sử dụng. Chính vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu, ngoài việc khai thác thiết bị mới, cũng cần chú trọng công tác sửa chữa, cải tiến công cụ hiện có để khai thác sử dụng có hiệu quả và đảm bảo an toàn nhất. Trước yêu cầu công việc, anh luôn đi đầu gương mẫu trong mọi mặt công tác, không ngại khó, ngại khổ, nỗ lực cùng toàn thể anh em công nhân trong tổ quản lý cấp phát bảo dưỡng, sửa chữa toàn bộ công cụ xếp dỡ hàng hóa của chi nhánh. Các loại công cụ xếp dỡ khi cấp ra đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng nhanh, đầy đủ cho khai thác hàng hóa, không để xảy ra tình trạng mất an toàn lao động.   Anh Nguyễn Xuân Khang đang trao đổi với đồng nghiệp Do gắn bó với hiện trường, nắm bắt những khó khăn thực tế, đào sâu suy nghĩ ngay trong quá trình làm việc hàng ngày. Nên hàng loạt vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật trong quá trình vận hành máy móc đã được tháo gỡ, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã được anh cùng các đồng nghiệp và công nhân áp dụng trực tiếp, mang lại hiệu quả kinh tế cao, an toàn, giảm bớt sức lao động mệt nhọc cho công nhân bốc xếp. Từ năm 2015 – 2020, anh đã lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn và có những sáng kiến đã được hội đồng sáng kiến Công ty TNHH MTV Cảng Hoàng Diệu phê chuẩn và đưa vào sản xuất. Cụ thể, năm 2015 là sáng kiến “Giải pháp đảo chiều các tay gầu ngoạm bị cong, giảm thiểu thời gian và chi phí sửa chữa”; năm 2016 với 4 sáng kiến: “Điều chuyển xe nâng hàng TCM FD100E59 về kho công cụ phục vụ chuyển công cụ cho các máng ngoài hiện trường phục vụ sản xuất”; “ Sửa chữa hệ thống điều khiển ngoạm thủy lực điều khiển từ xa tại cảng Hoàng Diệu”;  “Sử dụng bánh xe moóc cũ có dính lớp cao su chịu lực cắt thành hai nửa chế tạo bộ càng dùng cho xe nâng hàng để xếp dỡ hàng tôn cuộn” và “Chế tạo bộ giá đỡ con lăn cao su phục vụ sửa chữa piston ngoạm thủy lực”. Năm 2017, anh có 2 sáng kiến “Thiết kế chế tạo bộ đòn gánh cẩu ray loại ray có chiều dài 18 đến 25m” và “Thiết kế lắp thêm bánh xe di chuyển cho đòn gánh cẩu hàng thiết bị”. Năm 2018, anh tiếp tục có 2 sáng kiến “Thiết kế chế tạo bộ cẩu ống chống xước phục vụ khai thác mặt hàng ống đường kính lớn chất lượng cao tiết kiệm chi phí đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất” và “Thiết kế chế tạo bộ móc cẩu tôn tấm chất lượng cao”. Năm 2019, anh có 2 sáng kiến “Nghiên cứu chế tạo khung gá cáp để bện dây nilon tạo thành bộ cáp tổ hợp phục vụ cẩu tôn cuộn chất lượng cao” và “Chế tạo cáp tổ hợp để phục vụ cẩu tôn cuộn có trọng lượng lớn bằng phương pháp bện dây ni-lông (thải loại) liên kết hai sợi cáp F32 trên suốt chiều dài 5m”. Chia sẻ về sáng kiến “Chế tạo cáp tổ hợp để phục vụ cẩu tôn cuộn có trọng lượng lớn bằng phương pháp bện dây nilon (thải loại) liên kết hai sợi cáp F32  trên suốt chiều dài 5m”, anh Khang cho biết: 6 tháng đầu năm 2019, sản lượng hàng tôn cuộn thông qua cảng Hoàng Diệu đạt 680 nghìn tấn. Để thực hiện dịch vụ bốc xếp loại hàng tôn cuộn này, nhất là xếp dỡ hàng bằng cần trục bờ hoặc cần trục bánh lốp, đơn vị đã chế tạo và đưa vào sử dụng các loại công cụ mang hàng khác nhau như bộ ngáo cẩu chuyên dụng, cáp đan, bộ ngáng chữ C. Tuy nhiên, trong thực tế khai thác, các loại công cụ này đều có nhiều nhược điểm là khi nâng hạ hàng, các công cụ này sẽ cọ sát, va quệt làm quăn mép của các lớp tôn bên lõi trong cuộn tôn làm ảnh hưởng tới chất lượng và năng suất xếp dỡ. Vì vậy, các loại hàng tôn chất lượng cao theo yêu cầu của chủ hàng đơn vị vẫn phải sử dụng dây ni-lông dẹt mắc luồn qua lòng trong cuộn tôn để cẩu. Sau một thời gian sử dụng, các sợi dây này bị sờn, đứt dảnh nên phải thay mới tốn rất nhiều chi phí. Để đáp ứng yêu cầu công việc, sau khi nghiên cứu, tìm tòi thì sáng kiến được ra đời. Để thực hiện được ý tưởng, anh đã nghiên cứu, tận dụng các thiết bị sẵn có của đơn vị như sợi cáp F32 dài 5,5mm đã đấu hai đầu khuyết, dây ni-lông thải loại… Sợi cáp F32 dài 5,5mm đã đấu hai đầu khuyết được duỗi thẳng 2 sợi, đặt song song với nhau, sau đó dùng dây ni-lông thải loại, đan bện liên kết hai sợi cáp tạo thành sợi cáp tổ hợp. Sau khi chế tạo xong, quá trình xếp dỡ hàng tôn cuộn sử dụng các sợi cáp tổ hợp này đạt kết quả tốt, thuận tiện trong việc chuẩn bị công cụ cho khai thác đặc biệt là thích hợp cho mọi loại hàng tôn cuộn và giảm sức lao động. Tiết kiệm cho đơn vị 120 triệu đồng/năm. Là một trưởng kho kiêm Bí thư chi bộ của đơn vị, anh luôn rèn luyện bản thân, phấn đấu học hỏi nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi có sự nhanh nhạy và thông thoáng, giải quyết kịp thời, nhanh chóng cho chủ hàng, tạo niềm tin với chủ hàng. Vì vậy, anh đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Anh còn tích cực tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng những ngày lễ lớn. Xây dựng và củng cố đơn vị vững mạnh, động viên cán bộ, công nhân viên hăng hái thi đua lao động giỏi, các phong trào lao động sáng tạo, xây dựng những gương mặt điển hình tiên tiến, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đảm bảo thu nhập ổn định và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động. Anh thường xuyên động viên cán bộ, công nhân viên trong đơn vị không ngừng học tập, cập nhập các công nghệ thông tin mới để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trong công tác; duy trì và áp dụng thường xuyên quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO- 9001-2008.  Liên tiếp từ 2015-2019, anh đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, là đoàn viên công đoàn xuất sắc, nhiều Bằng khen, Giấy khen của Bộ Giao thông Vận tải, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Năm 2018, anh đạt danh hiệu Công nhân lao động tiêu biểu cảng Hải Phòng…. Thục Anh

Khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô không ngừng phát triển và đổi mới

TĐKT - Với những nỗ lực không ngừng, khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô đang không ngừng nỗ lực và phát triển từng ngày. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo cho biết, khoa được thành lập từ năm 1958, ban đầu chỉ mới có 20 giường bệnh. Đến năm 2020, tăng lên 67 giường, với đặc điểm tình hình bệnh nhân đông, để đáp ứng nhu cầu phục vụ người bệnh nên số giường thực kê tại khoa là 80 giường và 1 phòng khám chuyên khoa thần kinh phục vụ bệnh nhân ngoại trú. Đây là một trong những khoa được đầu tư các trang thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, cùng các giáo sư, bác sĩ đầu ngành chẩn đoán và điều trị... Với 35 cán bộ, nhân viên, khoa gồm 9 bác sĩ (1 tiến sĩ; 1 bác sĩ chuyên khoa 2; 2 thạc sĩ; 2 bác sĩ chuyên khoa 1; 1 bác sĩ chuyên khoa tâm thần, 2 bác sĩ đa khoa trong đó 1 bác sĩ đang học cao học), 25 điều dưỡng và 1 hộ lý đã luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc việc nhiệm vụ được giao như: Khám, điều trị, chăm sóc, theo dõi, quản lý và phục hồi chức năng cho người bệnh mắc bệnh thuộc chuyên khoa thần kinh như: Tai biến mạch máu não, các bệnh thoái hóa não và hệ thần kinh, bệnh thần kinh ngoại biên, bệnh động kinh, khối u hệ thần kinh, bệnh thần kinh do nhiễm độc, do rối loạn chuyển hóa, bệnh tâm thần như sa sút trí tuệ, rối loạn giấc ngủ, hoang tưởng… Trong số đó, khoảng 1/3 số bệnh nhân là bệnh nhân nặng, đòi hỏi phải hồi sức tích cực vì hôn mê, suy đa tạng, thông khí nhân tạo, sinh hoạt tại giường, phải chăm sóc toàn diện. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo thăm khám cho bệnh nhân Mặt khác, Khoa Nội Thần kinh cũng đảm nhận nhiệm vụ: Khám, hội chẩn chuyên khoa, khi được các khoa trong bệnh viện yêu cầu; ghi điện não và đọc kết quả cho các người bệnh được chỉ định trong toàn bệnh viện cả nội và ngoại trú, người bệnh khám, chữa bệnh theo yêu cầu; khám bệnh, theo dõi và điều trị ngoại trú cho người bệnh mắc bệnh chuyên khoa thần kinh; tham gia công tác chỉ đạo tuyến, khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ các tỉnh, thành phố khi được yêu cầu; thực hiện nghiên cứu khoa học, tham gia các buổi sinh hoạt khoa học của ngành, của bệnh viện. Cùng với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của tập thể lãnh đạo, bác sĩ và cán bộ, nhân viên trong khoa, khoa Nội Thần kinh đã làm tăng thêm bảng thành tích cao của Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô khi giành được Cờ thi đua của ngành Y tế tặng những năm 1976, 1977 và 1978 và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1986. Mục tiêu chung của bệnh viện là nỗ lực thực hiện: “Đổi mới phong cách, thái độ của nhân viên y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, đặc biệt thực hiện tốt “Quy tắc ứng xử” do Bộ Y tế ban hành: Quy tắc ứng xử tại khoa, phòng và trong bệnh viện. Nhân viên khoa luôn có thái độ phục vụ ân cần, lễ phép, niềm nở, tận tình để làm hài lòng người bệnh và người nhà người bệnh… Nhiều bệnh nhân sau khi đến khám, điều trị tại khoa đã có rất nhiều thư khen ngợi và đều có chung một nhận xét: Đội ngũ lãnh đạo, bác sĩ, điều dưỡng và nhân viên trong khoa luôn hết lòng chăm sóc, phục vụ bệnh nhân tận tình, chu đáo. Điều đó đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng mỗi bệnh nhân và người nhà đối với khoa nói riêng, đối với bệnh viện nói chung. Trưởng khoa Nội Thần kinh Mai Đức Thảo nhấn mạnh, mặc dù, năm 2020 là năm hết sức khó khăn với ngành y tế nói riêng, toàn đất nước nói chung, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu vì bệnh dịch COVID-19 nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, của Nhà nước, của Bộ Y tế, của bệnh viện, khoa đã tuân thủ nghiêm khắc và tích cực phòng, chống bệnh dịch, sẵn sàng tham gia tuyến đầu khi có yêu cầu. Bên cạnh đó, tập thể khoa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với nhiều kết quả nổi bật. Đặc biệt, công suất sử dụng giường đạt 109% kế hoạch, ngày điều trị trung bình giảm từ 14,1 (2019) xuống 13,5 ngày (2020), số thủ thuật loại đặc biệt và loại I tăng... Triển khai nhiều kỹ thuật mới như: Ghi điện cơ chẩn đoán các bệnh thần kinh cơ, tăng cường tiêm botox điều trị rối loạn trương lực cơ, siêu âm xuyên sọ trong chẩn đoán bệnh xuất huyết dưới nhện... Bên cạnh đó, vấn đề nghiên cứu khoa học và học tập để nâng cao trình độ chuyên môn luôn được chú trọng. Năm 2020 có 1 bác sĩ bảo vệ thành công tiến sĩ, 2 bác sĩ thi tốt nghiệp đạt loại giỏi bác sĩ chuyên khoa 1, 3 bác sĩ đã học chuyên sâu về siêu âm xuyên sọ, tiêm điều trị co cứng cơ giảm đau, 1 bác sĩ thi đỗ đầu vào cao học... Cán bộ, nhân viên khoa tham gia báo cáo sinh hoạt khoa học đã được hội đồng khoa học công nghệ công nhận và tập thể khoa công nhận. Hơn hết, tất cả cán bộ trong khoa đều thể hiện lập trường tư tưởng vững vàng, hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, cũng như sự phát triển của bệnh viện; thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nghị quyết của Đảng ủy, các quy chế, quy định của ngành, của bệnh viện và của khoa, giữ vững y đức. Không có cán bộ, nhân viên nào vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các quy chế, quy định của ngành, của bệnh viện và của khoa. Bằng những cố gắng, nỗ lực hàng ngày, hàng giờ, Chi bộ khoa Nội Thần kinh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tập thể khoa phòng đạt tập thể tiên tiến. 100% viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và đạt danh hiệu lao động tiên tiến... Hồng Thiết

Nỗ lực tạo việc làm cho đồng bào người dân tộc Ê đê

TĐKT - Năm 2011, chị Nguyễn Thị Ngọc Anh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nữ doanh nhân tỉnh Đắk Lắk đã thuyết phục, kêu gọi các nữ doanh nhân cùng hợp tác đầu tư xây dựng Khu du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng Kotam tại xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột. Điều đáng nói, không chỉ chú trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh, Câu lạc bộ Nữ doanh nhân tỉnh và Công ty Cổ phần Du lịch cộng đồng Kotam đã có nhiều hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho công tác an sinh xã hội. Công ty và câu lạc bộ đã tạo việc làm ổn định cho 79 lao động địa phương, trong đó có 75% là người đồng bào dân tộc thiểu số và tạo việc làm thời vụ cho khoảng 100 người. Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh Mang một nét đẹp đậm chất núi rừng Tây Nguyên, cùng với sự kết hợp hài hòa của cả một hệ sinh thái đa dạng giữa cỏ cây hoa lá và những bến nước nhân tạo trong vắt, khu du lịch Kotam nay đã trở thành một điểm đến thú vị, thu hút rất nhiều khách du lịch khi đặt chân đến mảnh đất đầy nắng gió này. Ít ai biết được, nhiều năm trước đây, khu vực này chỉ toàn là nương rẫy, triền đồi hoang vắng. Chủ rẫy là những hộ nông dân nghèo thuộc 3 buôn Kotam, Krông A, Krông B của đồng bào Ê Đê xã Ea Tu, đời sống còn nhiều khó khăn. Dự án xây dựng Trung tâm du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng Kotam ra đời từ tâm nguyện của Chủ tịch CLB Nữ doanh nghiệp Đắk Lắk Nguyễn Thị Ngọc Anh, với mong muốn tạo một mô hình kinh tế có thể giúp nhiều người xóa nghèo bền vững. Công ty cổ phần Du lịch cộng đồng Kotam được thành lập từ đó, do chính chị làm Chủ tịch Hội đồng quản trị. Từ chục tỷ đồng vốn góp đầu tiên, Hội đồng quản trị công ty tiến hành việc thỏa thuận mua lại một số nương rẫy của đồng bào với giá cao hơn giá chuyển nhượng đất trên thị trường. Nhận được chính sách ưu đãi đầu tư, cộng với hơn chục héc-ta đất tỉnh cho thuê dài hạn, Kotam nhanh chóng trở thành một quần thể du lịch cảnh quan tươi đẹp, có dịch vụ vui chơi, thể thao giải trí, quảng bá đặc sản. Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh cho biết: “Định hướng chung của Kotam là xây dựng một khu du lịch sinh thái - văn hóa - cộng đồng với các mục tiêu cụ thể: Giữ gìn môi trường, góp phần bảo vệ dòng suối đầu nguồn Kotam; góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Tây Nguyên; tạo việc làm cho người đồng bào thiểu số; nâng cao giá trị sản phẩm, đặc sản địa phương; nơi gắn kết giao lưu học hỏi giới nữ. Quá trình xây dựng, tổ chức hoạt động, du lịch Kotam luôn kiên định thực hiện 5 mục tiêu này, không vì lợi nhuận hay khó khăn trước mắt mà xem nhẹ mục tiêu nào. Bởi vậy, công ty luôn sử dụng lao động là người đồng bào dân tộc tại chỗ; kiến trúc, xây dựng của khu du lịch đều thân thiện phù hợp với môi trường, hài hòa với không gian sinh thái…” Kiên định với các mục tiêu này, khu du lịch Kotam ngày càng phát triển bền vững, được nhiều cá nhân, doanh nghiệp đến học hỏi, làm theo. Đến với Kotam, du khách có thể tham gia vào rất nhiều hoạt động vui chơi hấp dẫn như: Chèo thuyền thúng ở hồ cảnh quan, đua voi, xem người Ê Đê, Bana tạc tượng, thả mình trong không gian mộc mạc đậm chất núi rừng Tây Nguyên. Du khách còn được khám phá và tìm hiểu những nét văn hóa của người Ê Đê qua tiếng cồng, tiếng chiêng và những điệu múa truyền thống. Khu vực dãy nhà sàn cũng chính là nơi trưng bày các hình ảnh văn hóa người Ê Đê và là nơi diễn ra nhiều lễ hội đặc trưng như lễ cúng voi, lễ cúng bến nước... Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh (chính giữa) và nhân viên của công ty tại khu du lịch Kotam Giai đoạn từ năm 2015 - 2019, số khách tham quan du lịch tới Kotam là 1.355.000 lượt khách, riêng năm 2018 - 2019 là 675.000 lượt khách. Công ty đã nộp đầy đủ các loại thuế, không chậm trễ; trong quá trình xây dựng, Công ty không xin hoàn thuế. Tổng số thuế đã nộp trong 5 năm là hơn 4,4 tỷ đồng. Công ty tạo việc làm thường xuyên cho 79 người (trong đó 75% là con em đồng bào dân tộc thiểu số, 72% là nữ); lao động thời vụ từ 30 - 100 người tùy theo yêu cầu công việc. Lương bình quân cho người lao động là 5,8 triệu đồng/tháng, 100% công nhân được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; một năm được trang bị 4 bộ quần áo bảo hộ lao động; 100% công nhân được khám bệnh định kỳ và đi du lịch ngoài tỉnh từ 1 đến 2 lần/năm. Chị chia sẻ: “Mặc dù doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ (100% cổ đông là nữ), lao động nữ và người đồng bào thiểu số chiếm trên 70%, đối tượng được nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, nhưng tôi muốn phát huy khả năng, nội lực, để khẳng định vai trò người phụ nữ mới, người đồng bào thiểu số, nên trong quá trình hoạt động không vay, xin, hay hỗ trợ từ bất cứ tổ chức nào.” Trong 5 năm qua, chị không ngừng đổi mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động ở nông thôn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng dịch vụ. Môi trường xanh - sạch - sáng, cảnh quan đẹp, chất lượng sản phẩm dịch vụ đảm bảo là yếu tố quyết định sự phát triển của khu du lịch Kotam. Kiến trúc của khu du lịch đều thân thiện phù hợp với môi trường, hài hòa với không gian sinh thái Không chỉ giúp tạo công ăn việc làm, chị còn tích cực tham gia công tác xã hội, từ thiện, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn. Trong những năm qua, chị đã ủng hộ xây mái ấm tình thương, giúp đỡ những gia đình chính sách tại địa phương xây sửa nhà, nuôi 1 cụ già không có nơi nương tựa suốt đời, với tổng số tiền trên 1 tỷ đồng. Tham gia các tổ chức hội, chị đều ủng hộ nhiệt tình về cả tinh thần và vật chất trị giá hàng tỷ đồng. Đối với công nhân viên, chị xem người lao động như người nhà, giúp đỡ tận tình, từ việc dạy nghề cho đến việc gia đình, xã hội, đồng thời đã trích cổ phần của bản thân tặng cho cán bộ, nhân viên với giá trị trên 2 tỷ đồng.  Thời gian vừa qua, dù doanh thu của công ty giảm sút do ảnh hưởng của dịch Covid-19, song chị Ngọc Anh vẫn tích cực đóng góp cho công tác phòng, chống dịch tại địa phương. Chị không chỉ quyên góp hỗ trợ gạo cho người nghèo, tặng rau, trái cây sạch được trồng trong vườn của công ty cho lực lượng làm nhiệm vụ phòng, chống dịch mà còn tích cực vận động các thành viên trong Hiệp hội Du lịch Đắk Lắk cùng chung tay với công tác này. Chia sẻ về phương hướng phát triển trong thời gian tới, chị cho biết sẽ tiếp tục xây dựng, đào tạo, củng cố để thực hiện 5 mục tiêu công ty đã đề ra không vì lợi nhuận. Xây dựng phát triển du lịch cộng đồng cho dân cư quanh vùng để phát triển kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho người dân địa phương. Phương Thanh  

Trưởng bản gương mẫu mở đường làm kinh tế mới

TĐKT - Với suy nghĩ “Đảng viên không được nghèo, phải có kinh tế khá trở lên mới vận động được người dân tin tưởng làm theo”, những năm qua, ông Triệu Văn Lý, Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Vàng Ngần, xã Suối Quyền, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái không ngừng tìm kiếm hướng làm kinh tế mới. Đồng thời, ông luôn gương mẫu, tích cực vận động nhân dân trong bản phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, tham gia hiệu quả các phong trào của địa phương. Bản Vàng Ngần là nơi xa nhất của xã Suối Quyền, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Đường giao thông đi lại khó khăn, cách trung tâm xã hơn 20 km. Đến năm 2004 mới có đường xe máy đi đến điểm trung tâm. Giữa năm 2019 mới có điện lưới quốc gia. Cả bản hiện có 103 hộ, 530 khẩu, 100% là dân tộc Dao. Ông Triệu Văn Lý (thứ hai từ phải sang) tại Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Yên Bái Dù ở xa trung tâm xã nhưng bản luôn được Đảng ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể của xã và cấp trên quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ; liên tục trong nhiều năm trở thành thôn bản điển hình tiêu biểu nhất trong xã về nhiều mặt. Đời sống nhân dân bản Vàng Ngần nay đã khá hơn trước rất nhiều. Mỗi năm thôn bản giảm khoảng 15 đến 20% hộ nghèo. Mặc dù cuối năm 2019 ở đây mới có điện lưới quốc gia nhưng hiện nay đã có hơn 80% số hộ có ti vi, 30% có máy giặt, gần 100% có xe máy; có hộ mua được cả ô tô bán tải, ô tô tải, máy xúc… Những kết quả ấy có sự đóng góp không nhỏ của Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Vàng Ngần Triệu Văn Lý. “Để trở thành người được bà con trong bản tin tưởng phải mất nhiều thời gian, phải sống thật tốt, quý trọng bà con, làm những việc làm tốt; chỉ cần có một việc không tốt thì người dân không tin, không quý nữa. Nên tôi thấy bản thân mình phải thường xuyên gương mẫu học tập và làm theo Bác Hồ, xứng đáng là người đảng viên gương mẫu.” – Ông Triệu Văn Lý chia sẻ. Quyết tâm mở đường làm kinh tế mới, qua tìm hiểu, thấy cây quế có giá trị cao, ông tiên phong trồng quế thay cho cây nứa, cây lau lách. Từ năm 2006 đến nay, mỗi năm, gia đình ông đều trồng thêm và trồng thay thế khoảng 1 ha quế. Hiện nay, gia đình ông có hơn 10 ha quế, nếu bán hết cũng được khoảng 5 đến 7 tỷ đồng. Ông ươm quế giống để phát triển đồi quế của gia đình và hướng dẫn cho các hộ trong bản cùng làm. Đến nay cả bản có trên 350 ha quế, chủ yếu là quế hữu cơ, giá bán cao hơn. Từ cây quế đã có nhiều hộ thoát nghèo, nhiều hộ khá, hộ giàu. Ông cũng phát triển thêm chăn nuôi trâu, lợn, gà để phục vụ sinh hoạt và bán ra thị trường, tăng thêm thu nhập; đồng thời, khai hoang thêm ruộng nước để đảm bảo lương thực. Gia đình ông hiện có 6 nhân khẩu, thu nhập cả gia đình trên 300 triệu đồng/năm. Ông Triệu Văn Lý dọn cỏ cho vườn quế Không chỉ làm giàu cho bản thân và gia đình, ông còn chủ động đề xuất tiếp tục phát triển đồi quế chung của thôn, nâng tổng diện tích từ 15 ha năm 2016 lên 35 ha năm 2020. Ông đã phân công các hộ trong bản luân phiên chăm sóc, bảo vệ, khai thác khi cần thiết. Hằng năm, số tiền thu được từ thu hoạch cành, lá quế và một số sản phẩm khác trên 150 triệu đồng được sử dụng để chi cho hoạt động chung của bản, chủ yếu dùng để hỗ trợ các hộ có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, bệnh tật, làm nhà thiếu tiền, cho các hộ vay không tính lãi để phát triển kinh tế; mua vật liệu mở đường giao thông; khen thưởng các cháu học sinh khá, giỏi và các hộ, cá nhân tiêu biểu, gương mẫu... Cuối năm, trong ngày tổ chức liên hoan tổng kết vào dịp Tết Nguyên đán, bản thường hỗ trợ cho mỗi hộ khoảng 700 nghìn đến 1 triệu đồng để ăn Tết. Là trưởng bản, ông luôn đau đáu việc giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ông cho biết: “Người Dao chúng tôi rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, các lễ tục trong sinh hoạt, coi trọng người cao tuổi. Lo lắng sau này thế hệ trẻ quên dần, nên tôi quyết tâm đi học chữ viết, các lễ tục dân tộc, tôi được cấp sắc 12 đèn, là chức sắc cao nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc Dao.” Với vai trò trưởng bản, ông cùng bàn bạc với các cụ, các bác trong bản 2 năm mở một lớp dạy chữ viết, phong tục cho thanh niên và thiếu niên để tiếp nối truyền thống, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc mình. Nhờ ông kiên trì vận động, những tập tục lạc hậu như tục lệ thách cưới cao, hôn nhân cận huyết thống… dần được xóa bỏ. Từ sự gương mẫu, tích cực của trưởng bản Triệu Văn Lý, nhân dân trong bản Vàng Ngần luôn tin tưởng, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết, gắn bó giúp nhau xóa đói, giảm nghèo. Với những đóng góp tích cực, trưởng bản Triệu Văn Lý vinh dự được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái tặng bằng khen điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2018 - 2020, là một trong 10 đại biểu đại diện tỉnh Yên Bái dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Phương Thanh      

Mang cây gia vị hồi sinh “vùng đất khát” Hà Quảng

TĐKT - Những năm gần đây, nhờ khai thác tiềm năng kinh tế của vườn và rừng, đời sống của người dân huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là các nông hộ dân tộc thiểu số ngày càng khấm khá lên, không còn phải lo miếng ăn từng bữa… Đó là thành quả từ chương trình hợp tác với Công ty TNHH Phát triển Nông nghiệp và Tư vấn Môi trường (DACE) do anh Trần Văn Hiếu làm giám đốc. Thông qua liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm, tạo sinh kế bền vững, anh Hiếu đã mang chuỗi cây gia vị Việt về hồi sinh “vùng đất khát” này. Nhận thấy tiềm năng của Hà Quảng, anh Trần Văn Hiếu, Giám đốc Công ty DACE quyết định đầu tư vào vùng đất này Lục Khu là tên gọi chung của 12 xã đặc biệt khó khăn sát biên giới huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, là nơi sinh sống của các nhóm dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Dao… Nơi đây được mệnh danh là “vùng đất khát” do không có bất cứ con sông, dòng suối nào chảy qua. Bên cạnh đó, địa hình chia cắt bởi những dãy núi cao, nhiều hang động khiến cho phần lớn nước mưa bị trôi đi, không thể giữ lại phục vụ sinh hoạt và canh tác. Sản xuất nông nghiệp vì thế phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước mưa tự nhiên và sương sớm. Ngoài ra, điều kiện khí hậu và thời tiết khắc nghiệt, diễn biến bất thường quanh năm cũng khiến cho những loại cây hoa màu như ngô và lúa không thể phát triển được. Đời sống kinh tế của người dân vì thế rất bấp bênh. Từ năm 2015 trở lại đây, cuộc sống của đồng bào ở Hà Quảng đã có nhiều chuyển biến tích cực khi trên vùng đất sỏi đá này, những nương ngô đã dần được thay thế bằng nương gừng hữu cơ xanh tốt. Với mô hình liên kết sản xuất – đồng hành hỗ trợ kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm của nông hộ, DACE hiện đang được chính quyền địa phương và người dân Hà Quảng ngày càng tin tưởng. Bà con tại Hà Quảng thử nghiệm trồng gừng DACE là công ty chuyên sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu các nông sản chất lượng cao định hướng hữu cơ tập trung vào các sản phẩm từ gừng, nghệ, ớt. DACE xây dựng giá trị cốt lõi xoay quanh chuỗi giá trị trong nông nghiệp bằng cách: Phát triển các vùng nguyên liệu theo hướng hữu cơ; đầu tư vào nhà máy và xưởng sản xuất, sơ chế, chế biến; xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm theo nhiều kênh… Anh Trần Văn Hiếu, Giám đốc Công ty DACE cho biết: Đất Hà Quảng có lợi thế khí hậu, thổ nhưỡng cao 1.300m so với mặt nước biển nên gừng ở đây to và thơm ngon hơn các vùng khác. Sản phẩm gừng trồng ở khu vực này đã được gửi đến các chuyên gia của Pháp, họ đánh giá đây là khu vực rất phù hợp, củ gừng tạo nên gia vị và làm đồ uống rất ngon. Nhận thấy tiềm năng phát triển tại Hà Quảng, anh quyết định đầu tư vào vùng đất này. Không chỉ hỗ trợ gừng giống, công ty của anh còn tập huấn cho nông dân phương pháp canh tác theo hướng hữu cơ, từ làm đất, bổ luống, che phủ cây giống, ủ phân cung cấp dinh dưỡng cho cây đến cách xử lý cây bị sâu bệnh. Gừng giống công ty cung cấp có chất lượng tốt, 1 tấn giống có thể thu hoạch được 5 - 6 tấn gừng. Giống gừng trâu không chỉ sinh trưởng tốt mà còn đem lại chất lượng cao: Sợi gừng mềm, vỏ khô và chắc, màu vàng và mùi thơm đặc trưng, đặc biệt là hàm lượng tinh dầu cao. Một vụ gừng bội thu hứa hẹn mang lại đời sống ấm no cho bà con người dân tộc tại Hà Quảng Sản phẩm làm ra được DACE bao tiêu với giá cao, trung bình 13.000 đồng/kg. Bình quân mỗi héc ta gừng thu được 400 – 450 triệu đồng, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho bà con. Anh Trương Văn Lần, thôn Ngườm Vài, xã Cải Viên, huyện Hà Quảng cho biết gia đình anh chuyển đổi từ trồng cây ngô sang gừng hữu cơ đã được ba năm, mỗi năm thu về từ 30 – 50 triệu đồng. Với khoản tiền này, anh có thể trang trải cho hai con nhỏ ăn học đầy đủ. Sản phẩm từ gừng Hà Quảng được DACE chế biến và đưa đi xuất khẩu Không chỉ tạo sinh kế bền vững cho nông hộ dân tộc thiểu số nghèo tham gia trong chuỗi giá trị cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp, với sứ mệnh “mang gia vị Việt Nam chinh phục bàn ăn thế giới”, anh Hiếu đã đưa sản phẩm gừng Hà Quảng xuất khẩu tới các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ. Ngoài ra, nhận thấy điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của Lục Khu cũng thích hợp để trồng nghệ cho năng suất và hàm lượng curcumin cao, anh đã hợp tác với bà con nông dân nơi đây phát triển vùng trồng nghệ hữu cơ với diện tích hơn 50 ha. Sau hơn 5 năm hợp tác với nông dân, làm việc với các chuyên gia nông nghiệp và chính quyền địa phương, DACE hiện đã có vùng trồng 5 loại gia vị khác nhau trên địa bàn Cao Bằng: Gừng, nghệ, ớt, sả và tỏi với tổng diện tích canh tác 300 ha. Mục tiêu đến năm 2025, vùng nguyên liệu của công ty sẽ đạt tổng diện tích 500 ha. Để đạt được mục tiêu này, năm 2018, DACE đã ký kết Biên bản ghi nhớ với chính quyền huyện Hà Quảng để xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu trồng gia vị hữu cơ. Thông qua đó, góp phần tăng cường khả năng tham gia và hưởng lợi công bằng từ chuỗi giá trị trong nông nghiệp của các hộ nông dân sản xuất nhỏ và các nhóm yếu thế. Nguyệt Hà

Thuyền trưởng mẫu mực của Hải đội 2 Biên phòng

TĐKT - “Năng nổ, nhiệt tình, không quản ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”, đó là nhận xét chung của cấp ủy, chỉ huy đơn vị về Đại úy Nguyễn Văn Hiệu (sinh năm 1989), Thuyền trưởng, Hải đội 2, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Quảng Ninh trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh những năm qua, một tấm gương điển hình, có sức lan tỏa để cán bộ, đảng viên trong đơn vị học tập, noi theo. Nếu chọn lại, vẫn yêu màu áo biên phòng Thêm một cái Tết nữa Đại úy Hiệu vắng nhà, nhưng năm nay, do ảnh hưởng của dịch Covid – 19, vợ con anh đều phải cách ly tập trung theo quy định nên Tết của anh lại càng trở nên đặc biệt. Thế nhưng, qua giọng nói hào sảng của người chiến sĩ đã có tới 15 năm công tác trên biển, người ta vẫn cảm nhận được sự lạc quan, vui vẻ của anh Bộ đội Cụ Hồ.  Anh cho biết: “Nếu đón Tết trên biển, mọi người sẽ cùng trang trí tàu, gói bánh chưng và đón giao thừa. Nhớ nhà nên chúng tôi chỉ biết hướng vào đất liền, cứ nơi nào có ánh sáng là lại trao vào đó những nỗi nhớ và hy vọng cho một năm nhiều may mắn và thắng lợi. Hoặc nếu được về đơn vị, từ 27 âm lịch, chúng tôi sẽ vui xuân mới không quên nhiệm vụ cùng đồng đội và gia đình”. Đại úy Nguyễn Văn Hiệu, Thuyền trưởng, Hải đội 2, Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh Khác với đại đa số cán bộ, sĩ quan trong BĐBP tỉnh Quảng Ninh được đào tạo qua Học viện Biên phòng, Nguyễn Văn Hiệu vốn là học viên của Học viện Hải quân, sau đó được điều về Hải đội 2, BĐBP tỉnh Quảng Ninh giữ chức vụ Thuyền trưởng. Chứng kiến những diễn biến phức tạp, đầy nguy cơ, thách thức khi nước ngoài có ý đồ độc chiếm biển Đông của Việt Nam, anh đã luôn mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình cho sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đó vừa là vinh dự, trọng trách lớn khiến anh phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu không ngừng để giữ vững bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Ngay từ những ngày đầu được phân công về đơn vị, anh luôn chủ động dành thời gian nghiên cứu, nắm chắc đặc điểm vùng biển với những luồng lạch, cửa sông phức tạp trên địa bàn đơn vị hoạt động để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thuấn nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cộng với tinh thần đam mê học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đức tính khiêm nhường, Nguyễn Văn Hiệu đã khẳng định mình trên tất cả các lĩnh vực và luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Anh chia sẻ: Hải đội 2 là đơn vị cơ động chiến đấu có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, bảo vệ chủ quyền toàn bộ vùng biển đảo của tỉnh; đồng thời phối hợp với các lực lượng trong công tác tuyên truyền, vận động ngư dân nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển, đảo… Vì vậy, là một cán bộ của đơn vị, tôi luôn cố gắng không ngừng học tập, rèn luyện, học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đảng viên trẻ gương mẫu, sáng tạo Ngoài trọng trách là một thuyền trưởng điều hành con tàu đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới vùng biển đảo của Tổ quốc phải thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất trên biển của đơn vị, Nguyễn Văn Hiệu được biết đến là một Bí thư Chi bộ tận tụy, trách nhiệm, luôn trăn trở làm thế nào để cán bộ, chiến sĩ của mình có bản lĩnh vượt qua thử thách, hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện thời tiết trên biển diễn biến khó lường. Đại úy Nguyễn Văn Hiệu (đang giơ tay hướng dẫn) cùng đồng đội làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển Trong điều kiện đi biển dài ngày, anh đã vận dụng linh hoạt các hình thức sinh hoạt đảng và học tập chính trị. Theo đó, anh thường đọc, kể cho cán bộ, đảng viên trong chi bộ những mẩu chuyện về Bác và có cách hỏi đáp ngẫu nhiên đối với mọi người hoặc tổ chức buổi tọa đàm ngắn với bầu không khí sôi nổi, khiến cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn thật gần gũi và tự nhiên, từ đó giúp họ tự giác, tích cực thi đua phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng thời, anh cũng thường xuyên duy trì nghiêm các chế độ theo quy định, nhất là chế độ bảo dưỡng kỹ thuật, kiểm sửa định kỳ, kịp thời khắc phục các hỏng hóc thông thường, đảm bảo phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật luôn trong tình trạng kỹ thuật tốt đáp ứng yêu cầu thường trực, sẵn sàng chiến đấu cao. Cùng với Tổ kỹ thuật nghiên cứu, tham mưu cho đơn vị xây dựng ụ đà để đưa tàu, xuồng vào sửa chữa nhỏ, cạo hà sơn mới. Sáng kiến "Ụ đà anh Hiệu" này đã giúp tiết kiệm kinh phí sữa chữa cho Nhà nước hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Ngoài ra, anh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát khi chủ động trong tham mưu với cấp chỉ huy đơn vị đảm nhận chỉ huy cán bộ, chiến sĩ. Kết quả, từ năm 2016 đến nay đã tham gia 15 đợt tuần tra, kiểm soát dài ngày trên biển, xua đuổi 125 tàu thuyền, bè mảng nước ngoài vi phạm vùng biển khai thác thủy sản trái phép; tham gia bắt giữ trên 256 vụ/272 phương tiện/750 đối tượng vi phạm pháp luật, tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính và tiền bán phát mại tang vật sung quỹ Nhà nước trên 5 tỷ đồng về buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển hàng hóa trái phép, sử dụng công cụ cấm để khai thác thủy sản... Trong quá trình xử lý các tình huống, anh luôn bình tĩnh, khôn khéo, dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, từ đó góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động vi phạm pháp luật. Gắn bó mật thiết với nhân dân Bên cạnh đó, đồng chí Nguyễn Văn Hiệu luôn triển khai cho cán bộ, chiến sĩ trên tàu làm tốt công tác tuyên truyền, vận động ngư dân chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước, các hiệp định, hiệp nghị, công ước quốc tế; xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, luôn đồng hành và là điểm tựa cho bà con ngư dân yên tâm bám biển. Từ đó ngư dân trở thành tai mắt cung cấp cho đơn vị nhiều thông tin có giá trị, nhiều quần chúng tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới vùng biển, đảo. Hoạt động ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép, phòng, chống dich bệnh Covid xâm nhập vào vùng biển của cán bộ, chiến sĩ Hải đội 2, Biên phòng tỉnh Quảng Ninh. Trong công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, Nguyễn Văn Hiệu luôn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tránh trú bão đảm bảo an toàn. Đặc biệt, anh không quản ngại hi sinh, gian khổ vượt qua giông lốc giữa trùng khơi mênh mông, trực tiếp cùng đồng đội tham gia cứu nạn được 5 vụ/5 phương tiện/31 thuyền viên gặp nạn trên biển đảm bảo an toàn tuyệt đối về người và phương tiện. Trên cương vị là Bí thư Chi đoàn, anh luôn duy trì và thực hiện có hiệu quả Chương trình “Nâng bước em tới trường" thông qua việc thường xuyên tổ chức cho các đoàn viên đến giúp đỡ công việc gia đình và chỉ bảo các em học tập; thường xuyên thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các em nhân dịp các ngày lễ, Tết, trung thu, ngày khai giảng năm học; tích cực thực hiện Chiến dịch “Hãy làm sạch biển”, chủ động xây dựng kế hoạch của Chi đoàn phối hợp với doanh nghiệp và các tổ chức đoàn trên địa bàn 2 lần/tháng tiến hành thu gom rác thải và vận động quần chúng nhân dân không vứt rác thải ra biển để bảo vệ môi trường; đề xuất nhiều mô hình mới sáng tạo như: "Ụ đà thanh niên"; hoạt động “Ngày thứ bảy tình nguyện”, “Chủ nhật xanh”... làm thay đổi nhận thức cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn để thu gom rác thải trên bãi biển vịnh Hạ Long. Với những thành tích trong công tác cũng như việc học tập và làm theo Bác, Năm 2017, anh vinh dự được nhận Bằng khen của Ban Tuyên giáo Trung ương đã có thành tích xuất sắc trong học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Bằng khen của Bộ Tư lệnh BĐBP vì có thành tích xuất sắc 3 năm thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, nhiều năm liền từ năm (2015 - 2019) đạt Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở đồng thời được tặng Giấy khen Đảng viên hoàn hành xuất sắc nhiệm vụ. Đại úy Nguyễn Văn Hiệu là một điển hình mẫu mực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh những năm qua, một tấm gương có sức lan tỏa để cán bộ, đảng viên trong đơn vị học tập, noi theo./. Mai Thảo – Ngọc Huyền

Nữ quản giáo 15 năm tâm huyết với sự nghiệp gieo mầm thiện tại trại giam Xuân Nguyên

TĐKT - Khi không khí Tết đang dần len lỏi vào từng nhà cũng là lúc những cán bộ, chiến sĩ (CBCS) cảnh sát quản lý trại giam lại càng trở nên bận rộn khi phải chuẩn bị cho phạm nhân được đón Tết an toàn, vui tươi. 15 năm khoác trên mình bộ sắc phục màu xanh, Thiếu tá Mai Thị Thu Trang - cán bộ quản giáo trại giam Xuân Nguyên (C10, Bộ Công an) luôn coi việc quản lý, giáo dục phạm nhân để trả lại cho đời những con người lương thiện là mục tiêu lớn nhất, là động lực để chị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đã thành lệ, cứ mỗi sáng sớm, Thiếu tá Thu Trang đều có mặt tại các buồng giam thuộc Đội phạm nhân nữ số 11 do mình trực tiếp quản lý để điểm danh, kiểm diện từng người. Đây là công việc quen thuộc đã theo chị suốt 15 năm nay tại Trại giam Xuân Nguyên, nơi giam giữ những phạm nhân từng vướng vào vòng lao lý do vi phạm pháp luật. Tiếp bước cha là người đồng nghiệp đi trước, chị Trang chính thức trở thành nữ chiến sĩ CAND năm 2006 và gắn bó với trại giam Xuân Nguyên từ đó đến nay với phần lớn thời gian đảm nhiệm vị trí quản giáo. Bởi vậy, đây chính là nơi chứng kiến sự phấn đấu, trưởng thành trong sự nghiệp của chị khi có tới 5 năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và đạt giải cao trong Hội thi Cảnh sát trại giam giỏi cấp đơn vị và cấp cụm.   Thiếu tá Mai Thị Thu Trang đang hướng dẫn cho phạm nhân nghề may Với nhiệm vụ trực tiếp quản lý 38 phạm nhân có án phạt từ 15 năm tù trở xuống, Thiếu tá Trang cho rằng đây là công việc vô cùng quan trọng và đặc thù bởi các đối tượng chấp hành án phần lớn có quá khứ bất hảo, nhận thức về pháp luật còn hạn chế và nhiều đối tượng từng sử dụng ma túy đá gây ảo giác… khiến công việc quản lý, giáo dục gặp muôn vàn khó khăn. Để góp phần cải thiện đời sống và đào tạo nghề trước khi ra tù, các phạm nhân nữ đều được học may mặc trong thời gian ở trại. Do đó, chị đã tự học cắt, may như một người thợ thực thụ để mỗi phạm nhân ý thức, tự giác noi theo. Đồng thời, với những phạm nhân có tuổi đời còn trẻ, Thiếu tá Trang đã đặc biệt quan tâm giáo dục, uốn nắn từng lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc để trả lại cho xã hội những con người lương thiện và yêu lao động. 15 năm gắn bó với “nghề lái đò” chở các học sinh đặc biệt, những kỷ niệm trong Thiếu tá Thu Trang dường như không thể kể hết. Thế nhưng, ấn tượng sâu sắc nhất về nữ phạm nhân đặc biệt vẫn luôn hằn sâu trong trí nhớ và được chị xem đó chính là bài học kinh nghiệm về tình người cũng như cách quản lý những phạm nhân phức tạp. Ngày mới vào công tác, chị cũng như bao chiến sĩ khác đều khát khao muốn giúp đỡ những người từng phạm tội nhận thức được lỗi lầm của mình, cải tạo tốt để được trở về với xã hội. Tuy nhiên, chính trong thời gian này, nhiều phạm nhân đã tỏ rõ thái độ lỳ lợm, chống đối, khiến chị không ngừng trăn trở. Chị chia sẻ: “Biết tôi là chiến sĩ mới còn “non” kinh nghiệm, phạm nhân Thiều Thị Thu đã luôn có hành động thách thức cán bộ, làm việc chống đối, coi thường kỷ luật của trại giam. Với vai trò là người trực tiếp quản lý đội phạm nhân nữ, tôi đã chủ động tìm hiểu hoàn cảnh của phạm nhân này. Cả hai vợ chồng phạm nhân đều bị nhiễm HIV, do chồng đã mất, con gái ở với bà nội, không có người thăm nuôi, phạm nhân chán nản và sinh ra tâm lý chống đối cán bộ nên chỉ được xếp loại cải tạo trung bình.” Thiếu tá Trang đã đề xuất với cấp trên cho phạm nhân được gọi về trò chuyện với người thân, nhằm tác động trực tiếp vào tư tưởng, tình cảm của đối tượng. Sau đó, khi bị ốm nặng, phạm nhân Thu không thể lao động tiếp, Thiếu tá Trang đã kêu gọi mọi người quyên góp, ủng hộ nên đã khiến phạm nhân vô cùng xúc động, khỏi bệnh là lại tiếp tục cải tạo và lao động tốt. Bởi thế, phạm nhân đã được giảm án đợt cuối dịp 2/9 cùng năm và nhanh chóng được ra trại để trở về làm người lương thiện. Chia sẻ về mình, chị Trang cho biết: “Công việc tại trại giam chiếm nhiều thời gian của tôi. Tuy nhiên, tôi may mắn có chồng là đồng nghiệp nên luôn được thấu hiểu, sẻ chia và giúp đỡ việc nhà khi công việc tại đơn vị còn bộn bề”. Các con chị cũng hiểu và thông cảm cho bố mẹ nên 15 năm nay, chị luôn gắn bó với trại như nhà của mình. Có năm, khi thời khắc giao thừa đã điểm, nếu hai vợ chồng đều phải trực, chị chỉ kịp về vội thăm nhà, thắp hương cho tổ tiên và thăm nom các con rồi lại vội vã vào trại. Vất vả là vậy nhưng trong chị vẫn cháy mãi ngọn lửa của tình yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, quản lý phạm nhân. Một mùa xuân nữa đang đến gần, chị cùng các CBCS tại trại giam Xuân Nguyên lại tất bật với những công việc quen thuộc của mình bên cạnh việc chuẩn bị những trò chơi, hoạt động tết thật an toàn và ý nghĩa cho những người đang chấp hành án tại đây. Tin rằng, với sự nhiệt huyết và tận tâm của mình, chị sẽ tiếp tục có thêm những chuyến đò hoàn lương thành công để trao trả lại những con người lương thiện cho xã hội. Ngọc Huyền – Châu Giang

Gắn sản xuất, kinh doanh với phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Từ khi bắt đầu hoạt động trên địa bàn tỉnh Đắk Nông tới nay, Công ty Nhôm Đắk Nông - TKV (thuộc Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam) luôn đồng hành cùng địa phương trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Sự hỗ trợ của doanh nghiệp đã tạo động lực cho những hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên trong cuộc sống. Tạo việc làm ổn định cho hơn 1.100 lao động Công ty Nhôm Đắk Nông – TKV được thành lập ngày 1/10/2015 với nhiệm vụ trực tiếp quản lý và vận hành nhà máy Alumin Nhân Cơ, là một trong những đơn vị đầu tiên của Việt Nam tiếp cận, vận hành và làm chủ công nghệ ngành công nghiệp mới sản xuất Alumin. Với sự điều hành năng động, quyết liệt của Ban Giám đốc, cùng sự đồng tâm, thống nhất của toàn thể cán bộ, người lao động, công ty đã vượt qua chông gai, thách thức và áp lực về công tác bảo vệ môi trường, phấn đấu đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Than Việt Nam và kinh tế địa phương. Công ty tạo việc làm ổn định cho lao động tại địa phương Năm 2016, công ty đã cơ bản hoàn thiện xây dựng nhà máy sản xuất Alumin, dần đưa nhà máy đi vào hoạt động sản xuất và cho ra lò tấn sản phẩm đầu tiên. Đây là một dấu ấn quan trọng đối với ngành sản xuất Alumin tại Việt Nam nói chung và Công ty Nhôm Đắk Nông – TKV nói riêng. Cũng trong năm 2016, công ty đã tiến hành xuất bán tấn sản phẩm đầu tiên xuống tàu Hua Yun 12 của Công ty KC Corporation (Hàn Quốc). Sau 5 năm đi vào vận hành, nhà máy Alumin Nhân Cơ đã đóng góp hàng nghìn tỷ đồng đóng thuế cho ngân sách địa phương. Hoạt động khai thác bô xít, chế biến Alumin phục vụ xuất khẩu và quá trình luyện nhôm đang góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội Đắk Nông phát triển vượt trội. Công ty đã tạo công ăn, việc làm ổn định cho hơn 1.100 lao động với mức thu nhập cao hơn thu nhập bình quân tại địa phương, đồng thời tạo việc làm ổn định cho hàng chục ngàn lao động dịch vụ và phụ trợ, chuyển đổi cơ cấu lao động, nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân trong vùng. Tích cực tham gia các hoạt động an sinh, xã hội Từ khi đi vào hoạt động đến nay, công ty đã hỗ trợ địa phương hơn 100 tỷ đồng cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm, xóa nhà dột nát, hỗ trợ gia đình có hoàn cảnh khó khăn… Thuộc diện hộ nghèo nên xây được ngôi nhà kiên cố là ước mơ từ lâu của ông Dương Trí Tiến, trú tại thôn 6, xã Kiến Thành (huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông). Nhờ sự hỗ trợ của Công ty Nhôm Đắk Nông - TKV, đầu năm 2019, giấc mơ này đã thành hiện thực. Căn nhà cấp 4 có diện tích gần 100m2 đã được khởi công xây dựng với tổng chi phí khoảng 170 triệu đồng, trong đó công ty hỗ trợ 70 triệu đồng, phần còn lại do gia đình tự huy động. Ông Tiến cho biết: “Sự hỗ trợ của Công ty Nhôm Đắk Nông - TKV rất có ý nghĩa với hộ nghèo. Nếu không được hỗ trợ, việc xây dựng nhà ở sẽ gặp nhiều khó khăn và không biết bao giờ chúng tôi mới thực hiện được”. Ngoài gia đình ông Tiến, với nguồn kinh phí 3,5 tỷ đồng do công ty hỗ trợ, năm 2019, 49 hộ gia đình khác ở 2 huyện Đắk G’long và Đắk R’Lấp cũng có chung niềm vui khi được ở trong ngôi nhà mới. Với những ngôi nhà được trao tặng, công ty hi vọng sẽ phần nào giúp các hộ nghèo ổn định cuộc sống, yên tâm lao động sản xuất, vươn lên xóa đói giảm nghèo. Hỗ trợ các hộ nghèo huyện Đắk G’long xây dựng nhà Bên cạnh giúp người dân xây dựng nhà ở, công ty còn là điển hình tham gia các phong trào: Tết vì người nghèo, Vì nạn nhân chất độc da cam; ủng hộ các quỹ: Phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng trường học, trạm y tế, làm đường giao thông trên địa bàn. Trên địa bàn nơi Nhôm Đắk Nông đứng chân và các xã lân cận còn khó khăn, nhiều công trình trường học, đường giao thông đã được xây dựng với sự chung tay đóng góp của công ty. Công ty đã dành số tiền trên 48 tỷ đồng để xây trường mầm non Hoa Phượng Vàng thuộc phường Nghĩa Thành, TP Gia Nghĩa; trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân thuộc xã Nhân Cơ; trường THCS Nguyễn Văn Ninh xã Đắk Wer; trường THPT Tuy Đức tại huyện Tuy Đức…; dành gần 48 tỷ đồng để xây dựng hệ thống đường giao thông và lắp đặt hệ thống chiếu sáng từ ngã ba Nhân Cơ tới ngã ba Thùy Vân… Hàng năm, thông qua Hội Chữ thập đỏ địa phương, công ty hỗ trợ kinh phí thăm, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo dân tộc thiểu số nhân dịp Tết nguyên đán với khoảng 500 suất quà, tương đương 150 triệu đồng. Riêng dịp tết năm 2020, công ty hỗ trợ với tổng số tiền 3 tỷ đồng. Công ty đã hỗ trợ các sở, ban, ngành của tỉnh điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ như: Hỗ trợ lực lượng phòng cháy, chữa cháy tỉnh 2 xe chữa cháy trị giá 5,4 tỷ đồng; hỗ trợ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động với giá trị hơn 19 tỷ đồng. Ngoài ra, công ty còn hỗ trợ các trạm y tế, trung tâm y tế địa phương thực hiện phòng, chống dịch bệnh. Năm 2020 đã hỗ trợ tỉnh Đắk Nông 500 triệu đồng phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên công ty cũng tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện và hưởng ứng tham gia các hoạt động hiến máu tình nguyện. Bằng các việc làm ý nghĩa, Công ty Nhôm Đắk Nông - TKV đã tạo cơ hội “đổi đời” cho nhiều hộ dân và góp phần thiết thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nguyệt Hà

Thầy giáo của những sáng kiến, sáng tạo

TĐKT - Hơn 37 năm gắn bó với sự nghiệp trồng người, mỗi ngày lên lớp thầy Huỳnh Duy Thủy, Tổ trưởng tổ Toán – Tin, Trường THPT chuyên Chu Văn An (huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) luôn đem đến niềm hứng khởi cho học trò. Đem tình yêu với nghề, với trẻ của mình để làm động lực, thầy Thủy đã nghiên cứu nhiều giải pháp giúp “mềm hóa” môn toán cho học sinh tiếp thu bài dễ dàng và yêu thích môn toán hơn. Tìm được niềm yêu thích trong học toán, nhiều học sinh cùng đồng hành bên thầy Thủy sau những giờ học để nghiên cứu sâu hơn những điều đã tiếp thu “Dạy học là nghề không chỉ dạy tri thức và giáo dục đạo đức cho học sinh, hơn thế còn là nghề truyền cảm hứng để giúp các em tiếp thu được kiến thức và thấy được mỗi ngày đến trường là một niềm vui” - thầy Thủy chia sẻ. Quả thật làm nghề giáo không dễ, để làm tròn nhiệm vụ đã là một nỗ lực lớn, chưa mong đến việc các em học sinh yêu thích môn học của mình. Thầy Thủy những năm qua luôn tâm niệm không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tự rèn luyện và phấn đấu để nâng cao năng lực chuyên môn nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác giảng dạy trên lớp. Môn toán vốn khô khan, khó tiếp thu, nhưng thầy Thủy lại tìm thấy nhiều điều thú vị trong đó. Mong muốn không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh, thầy đã tìm ra những phương pháp mới, sáng tạo hơn trong giảng dạy, giúp các em thấy môn học gần gũi với cuộc sống. Những suy nghĩ không ngừng đổi mới đã thôi thúc thầy viết sáng kiến kinh nghiệm. “Tôi chọn những vấn đề từ thực tế để giải quyết và tham gia hội thi viết sáng kiến, hội thi giáo viên dạy giỏi, liên tiếp nhiều kỳ đều đạt giải cấp huyện. Sau khởi đầu này, tôi được chọn dự thi dạy học tích hợp và hàng năm đều có giải cấp tỉnh, quốc gia, đồng thời bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán, Violympic toán… cũng đạt được nhiều giải thưởng cao” - thầy Thủy chia sẻ. Mỗi tiết học của lớp thầy Thủy đều là những tiết học thú vị với học sinh Trong những sáng kiến của thầy Thủy, đáng kể đến là các đề tài: “Tìm tòi, phát hiện ý tưởng mới từ một bài thi như thế nào” và “Hành trình khám phá những con đường chinh phục bài toán Tìm giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất của một biểu thức đa biến” được Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định chứng nhận là đề tài có khả năng áp dụng trên phạm vi toàn quốc. Hay như đề tài “Cách tiếp cận, khám phá bài toán bất đẳng thức qua một số kỳ thi chọn học sinh giỏi” đạt giải trong cuộc thi viết chuyên đề toán mừng kỷ niệm 50 năm thành lập Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ. Đề tài “Luận bàn về cách tiếp cận, khai thác và đề xuất giải pháp mới cho một số bài toán IMO – VMO – OLYMPIC” của thầy Thủy được mời báo cáo tại Đại hội Toán học Việt Nam lần thứ IX tổ chức tại Nha Trang năm 2018. Tại Đại hội, đề tài được các chuyên gia đầu ngành phản biện và đánh giá là một hiện tượng “hiếm” của giáo dục phổ thông. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy, thầy Thủy còn cón hơn 40 đề tài khoa học. Nhiều bài báo được chọn đăng trên tạp chí chuyên ngành và đặc san Toán. Thầy còn xuất bản một số đầu sách chuyên khảo bồi dưỡng học sinh giỏi. Với những hiểu biết, tìm tòi, chắt lọc được, thầy Thủy còn được lựa chọn là giáo viên tham gia ra đề thi giải toán bằng tiếng Anh toàn quốc. Thầy còn tham gia trong ban biên soạn ngân hàng đề thi THPT quốc gia do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Với những nội dung nghiên cứu được, thầy Thủy được mời báo cáo tại nhiều hội nghị, hội thảo khoa học trong cả nước, tổ chức ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc... Tìm được niềm yêu thích trong học tập, rất nhiều học sinh cùng đồng hành bên thầy sau những giờ học để nghiên cứu sâu hơn những điều đã tiếp thu. Thầy còn trực tiếp hướng dẫn đội tuyển học sinh giỏi Toán của tỉnh Bình Định dự thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia. Kết quả có 25 học sinh tỉnh đạt giải học sinh giỏi toán cấp quốc gia và nhiều giải thưởng khác. Với vai trò là Tổ trưởng tổ Toán – Tin, thầy Thủy rất tích cực trao đổi kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy cùng đồng nghiệp để có những giải pháp tốt nhất giúp các em có thể tiếp thu tốt những kiến thức môn Toán. Không giỏi chuyên môn, thầy Thủy còn là người có lối sống giản dị, giàu lòng nhân ái, quan tâm chia sẻ. Thầy luôn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện như: Ủng hộ toàn bộ phần thưởng từ giải nhất Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật lần thứ X tỉnh Bình Định cho công tác khuyến học, với số tiền trị là 20 triệu đồng... Có thể khẳng định, với nhiệt huyết, trách nhiệm, thầy giáo Huỳnh Duy Thủy chắc chắn còn gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp trồng người, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục của Trường THPT chuyên Chu Văn An nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung ngày một phát triển. Tùng Chi

Người thầy thuốc của nhân dân

TĐKT - Hơn 20 năm gắn bó với ngành y tế, bác sĩ, Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Hưng Đạo, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Lãnh đạo một đơn vị y tế cấp huyện trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo đã cùng cán bộ, y, bác sĩ nơi đây nỗ lực đưa Trung tâm trở thành một trong những cơ sở y tế khám, chữa bệnh tuyến đầu trong các huyện, thành phố. Bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo – Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Y Thái Nguyên, bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo được phân công công tác tại Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa, sau đó được bổ nhiệm làm trưởng khoa ngoại tổng hợp của Bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang. Trung bình mỗi năm, anh trực tiếp tham gia phẫu thuật cho từ 300 đến 800 ca, trong đó có nhiều ca bệnh nặng hiểm nghèo như vết thương tim, vết thương mạch máu lớn và nhiều ca đa chấn thương phức tạp đã được cứu sống. Một trong những dấu ấn của bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo chính là việc tiên phong đi đầu trong lĩnh vực triển khai phẫu thuật nội soi của tỉnh Tuyên Quang. Năm 2006, anh là người đầu tiên và trực tiếp thực hiện phương pháp phẫu thuật mới như: Phẫu thuật nội soi trong các bệnh lý viêm ruột thừa cấp, phẫu thuật nội soi nang thận, sỏi niệu quản, sỏi thận, cắt thận đường sau phúc mạc, khâu lỗ thủng dạ dày tá tràng, cắt đại tràng nội soi… Đến nay, đa số các phương pháp phẫu thuật này đã được chuyển giao và phát triển mạnh mẽ, trở thành phẫu thuật thường quy trong các cơ sở y tế tỉnh Tuyên Quang. Anh chia sẻ: “Ngay từ khi lựa chọn theo học ngành y, tôi đã ý thức được vinh dự và trách nhiệm cao quý của nghề thầy thuốc là chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và trau dồi y đức, làm sao để người bệnh tin tưởng, đến cơ sở y tế công lập được phục vụ tận tình, chu đáo, được khám, chữa bệnh chất lượng chuyên môn cao nhất, đúng quy trình chuyên môn kỹ thuật của Bộ Y tế với mức chi phí thấp nhất, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh. Làm sao tạo được môi trường làm việc tốt nhất cả về vật chất và tinh thần, cho các đồng nghiệp để họ cùng hướng tới mục tiêu là phục vụ người bệnh một cách tốt nhất. Làm sao tranh thủ được sự phối hợp, quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ của các cấp, các ngành. Đảm bảo sử dụng nguồn quỹ bảo hiểm y tế có hiệu quả trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân....” Bởi vậy, khi được phân công nhiệm vụ Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa từ tháng 8/2014, điều đầu tiên mà bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo nghĩ đến đó là làm sao để người dân ở vùng sâu, vùng xa có thể yên tâm khám, chữa bệnh ngay tại địa phương, không vất vả, tốn kém khi phải chuyển tuyến. Dưới sự lãnh đạo của anh, Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa những năm qua đã không ngừng đổi mới tác phong, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đồng thời phát động phong trào thi đua thực hiện tốt 12 Điều Y đức, quy tắc ứng xử, gắn với cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và công tác dân vận khéo trong cán bộ, viên chức toàn ngành. Công khai các nội dung quy tắc ứng xử tại các khoa, phòng trong Trung tâm để người bệnh được biết và cùng phối hợp thực hiện. Hàng năm, Trung tâm đều hoàn thành và vượt các chỉ tiêu khám, chữa bệnh từ 130% đến 150% kế hoạch Sở Y tế đề ra. Triển khai nhiều kỹ thuật lâm sàng, cận lâm sàng mới. Hơn 40% danh mục kỹ thuật đang thực hiện tại Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa là danh mục kỹ thuật quy định thực hiện ở tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Nhiều chỉ tiêu chuyên môn hiện nay đã tăng gấp 2 đến 3 lần so với trước đây. Tỷ lệ người bệnh chuyển tuyến ngày càng giảm. Thực hiện tự chủ trong lĩnh vực khám, chữa bệnh là điểm sáng nổi bật của Trung tâm. Từ một đơn vị hàng năm nhận khoảng 10 tỷ từ ngân sách nhà nước để chi thường xuyên thì nay hàng năm Trung tâm không những không cần nhận nguồn kinh phí này nữa mà còn trích lập trên 20 tỷ vào các quỹ của đơn vị, trở thành đơn vị tuyến huyện đứng đầu trong tỉnh cũng như đứng trong tốp đầu các bệnh viện tuyến huyện của các tỉnh trong khu vực. Bởi rất hiếm đơn vị tuyến huyện có thể triển khai được nhiều kỹ thuật chuyên sâu và có nguồn thu viện phí trên 100 tỷ đồng mỗi năm. Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa đã làm chủ các phẫu thuật nội soi Cùng với việc đưa các kỹ thuật mới vào khám, điều trị bệnh, Trung tâm luôn quan tâm đến công tác cải cách thủ tục hành chính, tăng cường kỹ năng giao tiếp, ứng xử đối với bệnh nhân, đồng nghiệp để tạo sự hài lòng cho người bệnh. Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ người bệnh đã phát huy hiệu quả như: Hệ thống gọi số tự động; mở thêm buồng khám bệnh tại Khoa khám bệnh; ứng dụng linh hoạt phần mềm quản lý bệnh viện, kết nối liên thông giữa các khoa, phòng, phòng khám đa khoa khu vực và hệ thống giám định bảo hiểm y tế đảm bảo nhanh chóng, chính xác, rút ngắn quy trình khám bệnh và giảm thời gian chờ cho bệnh nhân... Từ đó, nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh, tạo được niềm tin của nhân dân. Dù ở cương vị lãnh đạo quản lý nhưng bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo vẫn thường xuyên và trực tiếp tham gia khám, chữa bệnh cho bệnh nhân. Là một phẫu thuật viên chính, trực tiếp thực hiện các phẫu thuật phức tạp, anh thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ, chuyển giao các kỹ thuật mới cho đội ngũ cán bộ y, bác sĩ tại các khoa phòng của Trung tâm. Đồng thời tích cực tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học. Đến nay, anh đã thực hiện 7 đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu ứng dụng quy trình chẩn đoán và điều trị một số bệnh ngoại khoa đường tiêu hóa thường gặp cho các tỉnh biên giới miền núi phía Bắc”. Tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết của người đứng đầu cùng với sự tận tình, chu đáo chăm sóc sức khỏe nhân dân của Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Chiêm Hóa chính là tấm gương để các đồng nghiệp của anh nỗ lực học tập, công tác, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân. Với những đóng góp và thành tích trong công tác, bác sĩ Nguyễn Hưng Đạo đã được nhận nhiều Bằng khen, Giấy khen của các cấp, các ngành. Năm 2016 anh được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2017, anh đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú. Anh là một trong những điển hình tiên tiến tiêu biểu của tỉnh Tuyên Quang dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X – năm 2020. Những thành tích đạt được chính là động lực để anh nỗ lực hơn và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Phương Thanh

Trang