TĐKT - Hơn 5 năm qua, với vai trò là người thành lập và chủ nhiệm câu lạc bộ (CLB) Chung một tấm lòng (thôn Chằm, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang), anh Trần Tuấn Hiệp cùng các thành viên của CLB không chỉ phát cơm miễn phí tại bệnh viện, tổ chức gây quỹ từ thiện, hoạt động kết hợp với Hội Bảo vệ quyền trẻ em tỉnh Bắc Giang mà còn tích cực tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa cho cộng đồng.
Anh Trần Tuấn Hiệp vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen tại Lễ tuyên dương “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng”
Sinh ra trong một gia đình không mấy khá giả, lại được đào tạo nghiệp vụ chính quy điều dưỡng viên, anh hiểu phần nào hoàn cảnh của những người không may mắn, nhất là người bệnh và trẻ em nghèo. Ngay từ những ngày còn ngồi ghế giảng đường tại Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ, anh Hiệp đã tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng. Ra trường, anh luôn trăn trở làm sao để đóng góp sức trẻ cho cộng đồng. Suy nghĩ ấy thôi thúc anh Hiệp thành lập CLB Chung một tấm lòng vào tháng 6/2015.
Chia sẻ về những khó khăn những ngày đầu thành lập, anh Hiệp cho biết: “Khi mới thành lập, kinh phí tổ chức hoạt động của CLB chưa có, nhân lực thiếu, các thành viên CLB lại chưa từng tham gia tình nguyện. Bởi vậy ,để duy trì nguồn kinh phí, chúng tôi nhận làm bánh mứt Tết, phát quà thuê trong dịp giáng sinh, làm bánh trung thu và thậm chí chia nhau đi phát tờ rơi. Dần dần, hoạt động của CLB được nhiều người dân địa phương và các nhà hảo tâm biết tới, giúp CLB có thêm nguồn hỗ trợ duy trì các chương trình tình nguyện.”
Hơn 5 năm qua, với vai trò là chủ nhiệm CLB, anh cùng các thành viên CLB đã duy trì hoạt động thường xuyên mô hình “Đồng hành cùng người bệnh”. Với mô hình này, cứ mỗi tháng 2 lần, CLB đều tổ chức phát cơm miễn phí cho bệnh nhân. Mỗi buổi phát được trung bình phát từ 170 - 250 suất cơm với kinh phí khoảng hơn 2 triệu đồng.
“Sức lan tỏa của mô hình rất mạnh mẽ, ngoài những bạn trẻ thì hoạt động còn hội tụ nhiều người lứa tuổi ngoài 50 - 70 tuổi ở nhiều thành phần tham gia. Phong trào đã nhận được sự ủng hộ tích cực của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên huyện”- anh Hiệp vui mừng chia sẻ.
Không chỉ vậy, với mong muốn giúp các em nhỏ ở bậc tiểu học có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn huyện Hiệp Hòa được tiếp cận gần hơn nữa với bộ môn tiếng Anh, trong dịp hè từ năm 2015 - 2018, anh Hiệp đã đề xuất với Huyện đoàn cho phép CLB cùng với các bạn tình nguyện viên tổ chức các lớp học tiếng Anh, vui chơi văn hóa - văn nghệ miễn phí cho các em nhỏ tại một số thôn thuộc xã Hợp Thịnh, Đông Lô, Mai Đình, Ngọc Sơn…
Anh Hiệp cho biết, lớp học này đã thu hút hơn 1000 em học sinh trong độ tuổi từ lớp 1 dến lớp 6 tham gia. Thông qua những buổi học, đã giúp các em có một sân chơi bổ ích. Đồng thời, giúp các em có thời gian ôn luyện và tiếp tục học tốt hơn với môn tiếng Anh.
Từ năm 2019 - 2020, CLB còn vận động ủng hộ và tặng quà cho 35 gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong huyện với mức từ 10 triệu cho đến hàng trăm triệu đồng. Hàng năm, anh cũng luôn chủ động quyên góp kinh phí để tặng quà các cháu thiếu nhi nhân dịp 1/6, tết trung thu và ngày khai giảng với tổng số suất quà đến nay là 230 suất, tổng trị giá khoảng 130 triệu đồng…
Anh Hiệp trao quà cho bệnh nhân tại Bệnh viện Ung bướu Bắc Giang
Bên cạnh đó, với mục đích từ thiện không chỉ trong địa bàn huyện, anh Hiệp đã kết nối với các trường học vùng sâu, vùng xa, tìm hiểu thông tin để tổ chức các hoạt động quyên góp ủng hộ các điểm trường khó khăn.
Trong 5 năm vừa qua, anh đã phối hợp với trang thông tin điện tử hiephoanet.vn và một số trường trên địa bàn huyện cùng các nhà hảo tâm, tổ chức các chuyến quà lên vùng núi đặc biệt khó khăn như: Xã Hữu Sản, xã An Lạc, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang; xã Mường Toong, huyện Mường Nhé, tinh Điện Biên; xã Mỏ Ba, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; xã Bán Nhùng, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang… Với nhiều hàng hóa, nhu yếu phẩm, văn phòng phẩm, tiền, gạo, quần áo, xe đạp... tổng trị giá mỗi chuyến đi từ 20 đến 80 triệu đồng.
Không chỉ vậy, thấu hiểu sự vất vả của các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhưng biết vượt lên số phận, luôn đạt thành tích cao trong học lập, từ ngày 12/5/2017, anh Hiệp đã xin phép Hội Liên hiệp Thanh niên huyện Hiệp Hòa, cho phép CLB được thành lập Quỹ học bổng “Chắp cánh ước mơ cho em”, tặng học bổng cho một số em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong huyện hàng tháng cho đến khi tốt nghiệp THPT.
“Từ khi thành lập đến nay, đã có 18 em học sinh được nhận học bổng hàng năm, có em được đến hết cấp 3. Tiêu biểu trong năm 2019, CLB đã vận động giúp đỡ được 5 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vươn lên trong học tập. Năm 2020, CLB tiếp tục vận động trao quà đầu năm học và trao riêng 3 suất học bổng, mỗi suất trị giá 2,4 triệu đồng và tặng 3 em học sinh có thành tích học tập giỏi, vươn lên trong cuộc sống mỗi em 1 chiếc xe đạp điện.”- anh Hiệp cho biết.
Đặc biệt trong đợt dịch Covid-19 vừa qua, anh đã vận động trao tặng 340 kg gạo, quà và tiền mặt cho 34 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng nhiều do đợt dịch.
Cũng trong đợt thiên tai lũ lụt miền Trung tháng 9 và tháng 10/2020, anh Hiệp đã vận động và tổ chức được 2 chuyến quà cứu trợ cho bà con vùng lũ, với hơn 450 triệu tiền mặt, cùng 15 tấn gạo, hơn 1600 thùng mì tôm, 1200 chiếc bánh chưng, 140 thùng sữa cùng rất nhiều loại nhu yếu phẩm khác để gửi tặng bà con Quảng Bình.
Tháng 1/2021 vừa qua, anh cùng CLB đã phối hợp một số đơn vị tổ chức chương trình giao lưu “Đồng hành cùng người bệnh đón Tết Tân Sửu 2021” tại Bệnh viện Ung bướu Bắc Giang. Trong chương trình, CLB đã trao 90 suất quà yêu thương gồm 5 kg gạo nếp cái hoa vàng, 1 hộp bánh, 1 chai dầu ăn 2l, 1 gói hạt nêm, 1 chai nước mắm, 1 gói trà, trong đó có 15 suất quà đặc biệt được nhận thêm 300 nghìn tiền mặt…
Với những đóng góp tích cực của mình, anh Trần Tuấn Hiệp vinh dự nhận được Giấy khen UBND huyện Hiệp Hòa; được trao giải thưởng “Thanh niên sống đẹp” năm 2020 do Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tổ chức. Đặc biệt, trong Lễ tuyên dương “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng”, anh Hiệp đã vinh dự là 1 trong 50 gương sáng tiêu biểu nhất được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Hà Nguyệt
Điển hình tiên tiến
Người phụ nữ vượt qua số phận mang hy vọng sống cho cộng đồng người HIV/AIDS
TĐKT - Mang trong mình căn bệnh bị xã hội kỳ thị - HIV từ người chồng khi mang bầu, gần 20 năm qua, chị Đoàn Thị Khuyên - Trưởng nhóm Sống tích cực Hải Phòng, thành viên Ban điều hành liên minh hỗ trợ tuân thủ điều trị HIV/AIDS (SATA+) không chỉ vượt qua số phận để ổn định cuộc sống mà còn thành lập xưởng may mang lại hy vọng sống cho gần 20 lao động, chủ yếu là những phụ nữ bị nhiễm HIV, có công ăn việc làm ổn định và duy trì cuộc sống bằng chính công việc của mình. Chị Đoàn Thị Khuyên - người mang hi vọng sống cho những người nhiễm HIV/AIDS Chị Đoàn Thị Khuyên sinh ra trong một gia đình nghèo khó làm nông nghiệp ở thôn Thúy Nẻo, xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng. Chị kết duyên với anh Phạm Hồng Ngọc và có một cậu con trai kháu khỉnh. Khi con trai được 4 tháng tuổi gia đình phát hiện chồng chị nhiễm HIV. Chị lấy hết can đảm đi xét nghiệm, bác sĩ cho biết chị và con trai cũng bị nhiễm HIV. Khi con 1 tuổi, chồng qua đời để lại cho chị nỗi cô đơn, cơ cực và đứa con thơ bệnh tật. Chị thầm nhủ phải gắng sống để nuôi con. Ban ngày, chị đưa con vào viện điều trị bệnh. Chiều tối, chị bế con đi bán vé số để kiếm sống qua ngày. May mắn đã đến khi chị được nhân viên y tế của phường Phù Liễn (Kiến An, Hải Phòng), mời tham gia vào CLB Hoa Hải Đường do Trung tâm Cohed hỗ trợ tại Hải Phòng để tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS. Cũng chính từ đây, cuộc đời chị tưởng chừng đã đi vào ngõ cụt thì lại nhìn thấy con đường phía trước tương lai đang rộng mở, đón chào. Chị Khuyên chia sẻ: “Mình bị nhiễm HIV là do chưa có kiến thức. Vì vậy mình cần là một nhân chứng sống để giúp người khác biết cách phòng tránh căn bệnh này và đặc biệt là biết cảm thông, chia sẻ với những người nhiễm HIV như mẹ con mình”. Chỉ sau vài tháng tham gia CLB, chị đã được tín nhiệm cử làm trưởng CLB Hoa Hải Đường. Như tìm thấy niềm vui trong cuộc sống, cộng với sức trẻ, chị rất hăng say với công tác tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS cho cộng đồng tại Hải Phòng và một số tỉnh lân cận. Sự cố gắng, nỗ lực vươn lên của chị gần 10 năm qua được các cơ quan, ban, ngành thành phố, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước biết đến và tạo điều kiện giúp đỡ để chị tham gia một cách tích cực, hiệu quả và chuyên sâu hơn. Chị Khuyên trong một buổi truyền thông nâng cao nhận thức cho giới trẻ về việc phòng, chống HIV/AIDS. Chị nhớ lại: “Trong những lần đầu tiên tham gia hoạt động truyền thông với Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe Hải Phòng dự án do Trung tâm COHED hỗ trợ Hải Phòng, khi đứng trước đám đông, phần nào tôi còn thiếu tự tin, rụt rè. Nhưng với sự động viên, khích lệ của Ban Quản lý dự án COHED và sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là sự động viên, chia sẻ của những người cùng cảnh ngộ trong Câu lạc bộ Hoa Hải Đường, tôi đã thấy mình tự tin hơn và tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, trong công việc mình đang và sẽ làm”. Từ những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, chị bắt đầu có được sự quan tâm của các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước. Chị được mời đi tuyên truyền về HIV/AIDS trên 40 tỉnh thành trong nước và được tham dự một số hội nghị châu Á - Thái Bình Dương. Trong quá trình làm việc với Dự án chị nghĩ một ngày nào đó những người nhiễm HIV phải tự lực trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS. Với suy nghĩ đó, chị quyết định thành lập nhóm tự lực mang tên: “Nhóm sống tích cực Hải Phòng”, do chị làm Trưởng nhóm vào năm 2009. Mới thành lập nên nhóm còn non trẻ, gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng với sự quyết tâm, đồng lòng của chị và các thành viên, nhóm vẫn duy trì các hoạt động hỗ trợ, chăm sóc, tư vấn, truyền thông tại cộng đồng. Năm 2010, nhóm đã được Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Hải Phòng khảo sát và lựa chọn là nhóm triển khai dự án: “Hỗ trợ, chăm sóc, tư vấn điều trị cho người nhiễm HIV tại Việt Nam” do Hội Chữ thập đỏ Mỹ tài trợ. Nhóm còn kết hợp với Tòa Giám mục Hải Phòng, Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS - Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng, Bệnh viện Việt - Tiệp, Hội Từ thiện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố làm công tác bác ái, tuyên truyền hỗ trợ cho người nhiễm và trẻ sống chung với HIV tại Hải Phòng. Xưởng may do chị Khuyên thành lập mang lại nguồn sống cho nhiều chị em cùng cảnh ngộ Đặc biệt, sau khi hoạt động, nhóm Sống Tích cực đã suy nghĩ đến việc duy trì phát triển bền vững đó là bên cạnh việc huy động nguồn lực từ các tổ chức, nhóm phải tự làm ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân. Từ một máy may, chị Khuyên vay vốn từ Trung tâm COHED và tự mua được 3 cái máy may. Ban đầu có 5 anh chị em đã cùng nhau đi nhận hàng về gia công, sau có nhiều anh chị em khác cũng muốn làm may tại nhóm. Chị Khuyên đã chủ động viết đề xuất dự án gửi về Hội Chữ thập đỏ và được hỗ trợ thêm 8 máy may và một số vật dụng khác. Như vậy, đã có 8 anh chị em khác có cơ hội làm việc tại nhóm, niềm vui là được làm việc cùng nhau nhưng đồng thời những khó khăn từ đó cũng ùa về. Các anh chị em làm việc tại xưởng tay nghề không đồng đều, thậm chí có bạn mới biết một chút, làm hàng kỹ thuật cao thì không có khả năng, làm hàng bình thường thì đơn giá quá thấp, lại ảnh hưởng của nền kinh tế suy thoái có những lúc tưởng chừng như đổ vỡ. Loay hoay, vất vả tìm kiếm nguồn hàng, sau đó nhóm đã nhận được hợp đồng may túi bảo vệ môi trường trên chất liệu PP. Hàng may có rồi mà máy may lại không tương thích vì những máy may trước đây chỉ một số cái dùng được cho loại chất liệu này, biết giữ ai bỏ ai đây. Với sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm, xưởng may đã tiếp tục hoạt động mạnh mẽ. Những máy may cũ nhóm đã cho các thành viên khác có tay nghề mượn về nhà để nhận sửa chữa quần áo và nhận hàng số sản phẩm quần áo để gia công. Đến nay, nhóm đã có 20 thành viên, ổn định đời sống từ chính công việc của mình. Chị Đoàn Thị Khuyên nhận Giải thưởng “Dải Băng Đỏ” do Mạng lưới người sống chung với HIV Việt Nam (VNP+) lần đầu tiên tổ chức với sự bảo trợ của Cục Phòng, Chống HIV/AIDS (VAAC) và được tài trợ chính bởi Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ về phòng, chống AIDS (PEPFAR). Chương trình này được VNP+ khởi xướng với mục tiêu truyền thông giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người sống với HIV, người đồng tính nhiễm HIV Thành quả đến ngày hôm nay, nhóm Sống Tích cực duy trì hơn 100 thành viên. Nhóm đã gây quỹ với số vốn trên 100 triệu đồng, hỗ trợ được 35 thành viên. Không dừng lại ở mô hình chăn nuôi, nhóm đang tiếp tục mở rộng mô hình như cơ sở may mặc, buôn bán nhỏ... phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cho từng thành viên. Chị Khuyên hi vọng rằng, trong thời gian tới, sẽ nhận được sự ủng hộ và quan tâm của các nhà hảo tâm để đảm bảo nguồn tài chính bền vững cho các hoạt động của nhóm cùng với việc tiếp tục duy trì các hoạt động tiếp cận, tư vấn, truyền thông, chăm sóc.... Tố NhưTĐKT - Thấu hiểu nỗi vất vả, khó khăn của những công nhân trên công trường, kỹ sư Trần Mạnh Hùng, Đội trưởng Đội công trình số 9 Công ty Cổ phần Lilama 18, Bộ Xây dựng, đã có nhiều sáng kiến giúp giảm tối đa sức người, tăng năng suất lao động của công nhân, đồng thời mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Kỹ sư Trần Mạnh Hùng, Đội trưởng Đội công trình số 9 Công ty Cổ phần Lilama 18, Bộ Xây dựng
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất hai vua, Trần Mạnh Hùng ý thức được rằng, mình phải cố gắng thật nhiều để xứng đáng là “con dân cháu làng” của vùng đất có tiếng là “địa linh nhân kiệt đó”. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh vào làm việc tại Tổng công ty Lilama 18 với vị trí kỹ sư chuyên về điện.
Anh chia sẻ, khi ra công trường làm việc, thấy được sự vất vả, khó khăn của những công nhân lao động trực tiếp tại công trường, anh luôn tâm niệm phải làm sao giảm tối đa sức người, tăng tự động hóa để tăng năng suất lao động, giảm sự vất vả, nguy hiểm cho công nhân, từ đó giúp Tổng công ty tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận.
Với suy nghĩ đó, cùng với kiến thức học trong nhà trường, kinh nghiệm sau nhiều năm làm việc cũng như óc sáng tạo của bản thân, anh đã có nhiều sáng kiến với những giá trị cả về mặt kinh tế lẫn nhân văn.
Phấn đấu và không ngừng phấn đấu, Trần Mạnh Hùng có tới 3 sáng kiến có giá trị làm lợi rất lớn: 2.600 triệu đồng, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Bằng Lao động sáng tạo năm 2016. Năm 2018, anh được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nguyễn Đức Cảnh. Năm 2019, anh vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Ba. Cũng trong năm 2019 anh vinh dự được tham gia Chương trình Thủ tướng Chính phủ gặp gỡ công nhân, lao động kỹ thuật cao do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức.
Anh Trần Mạnh Hùng được trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba
Được sự tin tưởng của lãnh đạo Công ty, trên cương vị Đội trưởng Đội công trình số 9, anh được giao nhiệm vụ cùng các đồng nghiệp thực hiện gói thầu lắp đặt toàn bộ hệ thống điện, điều khiển và đo lường Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình - dự án cấp quốc gia. Với yêu cầu của nhà thầu chính Nhật Bản Marubeni Corporation về an toàn, chất lượng cũng như tiến độ, trên cương vị là Đội trưởng, Hùng đã cùng anh em trong tổ nỗ lực hết mình để hoàn thành công việc sớm nhất có thể, đồng thời đảm bảo chất lượng.
Hùng chia sẻ: “Lắp đặt hệ thống điện, điều khiển đo lường là công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi cần một đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao và được tổ chức hoạt động thật khoa học. Để thực hiện, tôi đã chủ động sáng tạo nghiên cứu, đưa ra nhiều giải pháp đột phá nhằm mang lại hiệu quả cao, trong đó có giải sáng pháp gia công chế tạo bộ nâng thiết bị di động. Nhờ có thiết bị này mà đội của tôi đã rút ngắn tiến độ và giảm đáng kể nhân công lao động, góp phần vào hoàn thành chung Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình, với tổng giá trị hợp đồng 83 tỷ 300 triệu đồng. Có thể nói, đây là một thành công đáng nhớ trong đời làm thợ của tôi”.
Không chỉ thành công ở Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình, đội của Hùng còn được giao đảm nhận nhiều công trình quan trọng khác như Dự án Nhà máy bột mì Interflour Việt Nam với giá trị hợp đồng 26 tỷ đồng. Đây là một dự án trong lĩnh vực thực phẩm với chủ đầu tư và nhà thầu chính là châu Âu, nhà thầu có yêu cầu về chất lượng và tiến độ rất cao. Với việc sử dụng thiết bị di động trong lắp đặt một số hạng mục, đội của anh đã rút ngắn tiến độ lắp đặt 21 Roller Mill, mỗi Roller Mill trọng lượng 5 tấn theo yêu cầu của chủ đầu tư từ 40 ngày xuống còn 20 ngày, giảm số công lao động từ 400 công xuống còn 140 công, được chủ đầu tư đánh giá rất cao.
Đặc biệt, từ năm 2013 đến nay, Hùng được lãnh đạo công ty tín nhiệm giao đảm trách nhiệm vụ Chỉ huy trưởng Dự án Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 1 - gói thầu điều khiển và đo lường, với tổng giá trị hợp đồng 35 tỷ đồng. Ở dự án này, Hùng đã cùng anh em trong đơn vị đưa ra 3 giải pháp đột phá để rút ngắn tiến độ và giảm đáng kể nhân công lao động. Kết quả, đội của Hùng hoàn thành hệ thống xử lý nước (WWT) trước tiến độ 2 tháng, hệ thống lò hơi (Boiler) trước 12 ngày, hoàn thành hệ thống nhận đá vôi và hệ thống nhận than trước tiến độ 30 ngày theo yêu cầu tăng tốc của nhà thầu chính Hyundai. 3 giải pháp đột phá này đã giúp công ty giảm được 80 lao động trong 30 ngày, tiết kiệm được 1.600 triệu đồng. Công ty Cổ phần LiLama 18 được nhà thầu chính Hyundai thưởng tiền vượt tiến độ là 2,7 tỷ đồng.
Những sáng kiến tiêu biểu của Hùng phải kể đến, đó là: “Thiết kế bàn quay xả cáp sử dụng ổ trục bạc đạn phục vụ cho việc kéo cáp”. Sáng kiến này được áp dụng giúp công ty tiết kiệm nhân công, đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả làm lợi từ tháng 9/2015 đến nay lên tới 600 triệu đồng. Sáng kiến thứ hai là thiết kế bộ khung xả cáp. Sáng kiến được áp dụng đã giảm được tối đa số ca cẩu phục vụ cho việc nâng cáp lên khung, tránh được tình trạng phụ thuộc vào xe cẩu, giúp công ty tiết kiệm được 400 triệu đồng. Sáng kiến thứ ba: “Thiết kế hệ thống con lăn nhỏ sử dụng ổ trục bi sắt đặt trực tiếp lên máng cáp phục vụ cho việc kéo cáp”. Áp dụng sáng kiến này, đã giúp tiết kiệm 50% nhân công kéo cáp so với cách kéo cáp trước, làm lợi cho Công ty 1,6 tỷ đồng.
Với đặc thù công việc, 12 năm nay, anh thường xuyên phải xa nhà, 1 tháng, có khi 4 tháng mới về nhà một lần. Anh bảo, đối với công việc của anh, thì công trường không khác gì là nhà, còn nhà thì chính là... nơi trọ. Đó cũng là những thiệt thòi của anh trong cuộc sống riêng. Tuy vậy, anh luôn cố gắng vượt qua những khó khăn để cống hiến nhiều hơn cho công việc mà anh yêu thích.
Thanh Tâm
Thầy thuốc Nhân dân Lương Ngọc Cương: Người có tâm và có tầm
TĐKT - Gần 30 năm công tác trong cơ sở quản lý, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm thần - những người, yếu thế trong xã hội, Giám đốc Trung tâm điều dưỡng phục hồi chức năng tâm thần Việt Trì, Thầy thuốc Nhân dân Lương Ngọc Cương được biết đến là người có tâm và có tầm, luôn nhận thức sâu sắc trách nhiệm trong công việc, hết lòng chăm lo sức khỏe, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho những người kém may mắn. Giám đốc Trung tâm điều dưỡng phục hồi chức năng tâm thần Việt Trì, Lương Ngọc Cương cho biết, là người đứng đầu đơn vị, ông luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, gương mẫu thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của ngành và đơn vị. Bản thân tích cực học hỏi để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong công tác quản lý điều hành luôn sâu sát, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thầy thuốc Nhân dân Lương Ngọc Cương Trong công tác tổ chức cán bộ, ông luôn chú trọng phát huy năng lực, khả năng sáng tạo của từng cán bộ, bố trí đúng chuyên môn, sở trường, đảm bảo công việc được thực hiện có hiệu quả. Về việc đánh giá, sử dụng cán bộ, ông cũng luôn khách quan, công bằng, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong 5 năm, trung tâm đã cử 29 đồng chí đi học nâng cao trình độ, trong đó: Cao cấp lý luận chính trị 1 đồng chí; sau đại học 3 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí đi học chuyên khoa I chuyên ngành Tâm thần; 22 đồng chí đi học đại học, 2 đồng chí đi học quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên… Trong công tác quy hoạch cán bộ, ông luôn chú trọng đảm bảo tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, tạo điều kiện cho những cán bộ nguồn quy hoạch được rèn luyện, thử thách, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh. Thực hiện có hiệu quả công tác rà soát, đánh giá, kiên quyết đưa những người không đủ năng lực, trình độ, sức khỏe đảm nhận nhiệm vụ ra khỏi bộ máy, năm 2016, trung tâm đã thực hiện tinh giản biên chế đối với 4 trường hợp (2 nghỉ hưu trước tuổi, 2 thôi việc) đạt 66,7% chỉ tiêu tinh giản biên chế của đơn vị giai đoạn 2016 - 2021. Là một thầy thuốc, ông luôn tận tụy với công việc, khám, chữa bệnh kịp thời, chính xác, có hiệu quả. Gần 30 năm gắn bó với nghề y, ông luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, không ngại khó, ngại khổ, hết lòng chăm lo, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nói chung, người bệnh tâm thần nói riêng. “Bệnh nhân tâm thần thường phủ nhận bệnh tật, không hợp tác trong điều trị nhưng tôi luôn kiên trì, ân cần, động viên, đồng thời sử dụng phương pháp điều trị thích hợp giúp họ nhanh ổn định cả về sức khỏe và tâm thần. Bên cạnh công tác quản lý, tôi vẫn tích cực tham gia khám, điều trị cho các bệnh nhân ngoại trú, trực tiếp tham gia hội chẩn, cùng các bác sỹ xử trí các trường hợp bệnh nhân nặng, diễn biễn phức tạp”, ông chia sẻ. Giữ vai trò là cán bộ quản lý, ông luôn chỉ đạo và kiểm tra sâu sát mọi hoạt động từ tiếp nhận, quản lý, điều trị, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng, hạn chế tối đa các tai biến, rủi ro đáng tiếc trong quá trình điều trị. Đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động chuyên môn, thành lập tổ kiểm tra việc thực hiện hoạt động chuyên môn để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị. Bệnh nhân được điều trị kịp thời, chăm sóc chu đáo, được tham gia các loại hình phục hồi chức năng phù hợp. Đồng thời, đảm bảo đúng tiêu chuẩn, chế độ của người bệnh, bố trí nơi ăn chốn ở sạch sẽ, gọn gàng, hợp vệ sinh, đảm bảo mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Bởi vậy, người bệnh đến trung tâm sau một thời gian ngắn hầu hết đều ổn định, có thể tái hòa nhập với gia đình và cộng đồng. Ông luôn giữ gìn, thực hiện đúng y đức của người thầy thuốc, không có thái độ sách nhiễu, gây phiền hà, khó khăn cho gia đình người bệnh. Tích cực chỉ đạo phòng chuyên môn thực hiện cải cách hành chính, tạo điều kiện cho người bệnh và gia đình làm thủ tục ra, vào viện đơn giản, thuận lợi, dễ dàng. Thời gian trước trung tâm chỉ tiếp nhận bệnh nhân trong giờ hành chính nhưng hiện nay trung tâm luôn sẵn sàng tiếp nhận bệnh nhân bất cứ lúc nào, kể cả ngoài giờ hành chính, ngày lễ, tết, thứ bảy, chủ nhật. Các hình thức thanh toán cũng được cải tiến, đối với những gia đình ở xa hoặc không có thời gian đến trực tiếp, gia đình có thể chuyển khoản để nộp viện phí. Đối với cán bộ, ông luôn gần gũi, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những khúc mắc, khó khăn trong công việc và cuộc sống. Luôn trăn trở để xây dựng, đề ra những định hướng phát triển phù hợp với đơn vị để cải thiện đời sống cho cán bộ. Ngoài công tác chuyên môn, ông tích cực chỉ đạo việc tăng gia sản xuất, vừa tạo nguồn thực phẩm sạch, an toàn phục vụ người bệnh, vừa tạo thêm nguồn cho quỹ phúc lợi. Phát động và tổ chức tốt các phong trào thi đua, kịp thời khen thưởng, khích lệ những tập thể, cá nhân đạt được thành tích xuất sắc, tạo động lực để cán bộ hăng hái tham gia, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Là Bí thư Chi bộ, ông luôn thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, thường xuyên chỉ đạo, tạo điều kiện cho các tổ chức đoàn thể phát huy vai trò của mình, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được bộ giao. Song song với đó, ông đã chủ trì nghiên cứu 2 đề tài khoa học cấp bộ: CB2009-02-03 “Cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện quy trình điều trị, phục hồi chức năng và tái hòa nhập cộng đồng cho người tâm thần mạn tính tại các trung tâm”; CB2012-02-04 “Nghiên cứu đề xuất các tiêu chí để chuẩn hóa các trung tâm nuôi dưỡng phục hồi chức năng cho người tâm thần thuộc ngành quản lý” và có 5 sáng kiến được áp dụng ở cơ sở đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thứ nhất là sáng kiến năm 2015: “Đề xuất xây dựng mô hình trồng nấm tại trung tâm”. Sáng kiến đem lại hiệu quả tích cực trong công tác tăng gia sản xuất, vừa giúp chủ động nguồn cung cấp thực phẩm cho người bệnh, đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm, vừa giúp phát triển sản xuất, tạo nguồn thu cải thiện thu nhập cho cán bộ. Kết quả, đợt đầu thu được trên 800 kg nấm thành phẩm với trị giá 36.315.000 đ, lãi gấp đôi so với chi phí mua nguyên liệu ban đầu, tạo được nguồn cung cấp thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng phục vụ người bệnh. Những năm qua, thu từ làm nấm đạt 70 - 80 triệu đồng/năm. Thứ hai là, sáng kiến năm 2016: “Hoàn thiện mô hình điều trị luân phiên và quản lý tại cộng đồng cho bệnh nhân tâm thần”. Đây là sáng kiến đem lại hiệu quả tích cực cả trên lĩnh vực kinh tế và xã hội, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với chủ trương xã hội hóa của Đảng, Nhà nước và xu thế của thế giới. Thứ ba là, sáng kiến năm 2017: “Đề xuất mô hình chăn nuôi mới (nuôi vịt đẻ trứng) tạo việc làm cho người bệnh”. Hiện nay đàn vịt đã phát triển, cung cấp trên 100.000 quả trứng mỗi năm. Thứ tư là, sáng kiến năm 2018: “Đề xuất xây dựng mô hình nhà lưới trồng rau sạch tại trung tâm”. Chi phí đầu tư ban đầu để xây dựng không quá lớn, thời gian sử dụng được lâu dài từ 15 - 20 năm do đó có thể nhân rộng, phát triển mô hình này. Kết quả, từ cuối năm 2018 đến nay, trung tâm đã thu hoạch được 13,4 tấn rau quả, trị giá 150 triệu đồng. Thứ năm là sáng kiến năm 2019: “Đề xuất cải cách thủ tục hành chính trong tiếp nhận và thanh toán sinh hoạt phí cho người bệnh trung tâm”. Nhờ cải cách thủ tục hành chính, tạo cơ chế thông thoáng trong việc tiếp nhận bệnh nhân vào điều trị luân phiên nội trú, số lượng bệnh nhân đến điều trị tại trung tâm đã tăng 70 lượt so với năm trước, số ngày điều trị nội trú tăng 13.161 ngày và thu từ hoạt động sự nghiệp đạt 5.058 triệu đồng, tăng 31%, đã nộp thuế cho Nhà nước 102,1 triệu đồng tăng 34,2% so với năm 2018. Với sự cố gắng, nỗ lực không mệt mỏi, những năm qua, ông Cương luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đưa đơn vị ngày càng vững mạnh và phát triển, xứng đáng là lá cờ đầu trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Cá nhân ông 5 năm liền được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở; năm 2016 được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ; năm 2018 được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và được Bộ trưởng tặng Bằng khen. Mới đây, ông đã được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân. Ông cũng chính là 1 trong 50 "Gương sáng thầm lặng", nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2020. Hồng ThiếtTĐKT - Đã trải qua 70 năm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL, ngày 6/5/1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam ngày nay. Đây là một bước ngoặt lịch sử, là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Chặng đường 70 năm qua, ngành Ngân hàng luôn tự hào về những thành tích, đóng góp của ngành đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển, bảo vệ Tổ quốc và luôn không ngừng đổi mới, phát triển.
Ủy viên Trung ương Đảng, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng
Thi đua phát triển qua các thời kỳ
Trong kháng chiến chống Pháp, các hoạt động của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã góp phần rất quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh. Dấu ấn đặc biệt của hoạt động ngân hàng ở giai đoạn này đó là “ngân hàng không khóa” và những “kho tiền nằm trong nhân dân” nhằm huy động toàn bộ sức người, sức của cho kháng chiến.
Trong kháng chiến chống Mỹ, hoạt động của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tập trung vào việc góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Đã có 452 cán bộ ngành Ngân hàng B68 khi tuổi đời còn rất trẻ, hăng hái lên đường chi viện cho chiến trường Đông Nam Bộ, vừa tham gia đánh địch trên mặt trận kinh tế, tài chính tiền tệ, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các lực lượng vũ trang đấu tranh, giải phóng đất nước. Thời kỳ ấy, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cùng những chiến sĩ ngân hàng hoạt động bí mật đã lập nhiều chiến công, kỳ tích tuy thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng, tạo nên một con đường huyền thoại, đó là “Con đường tiền tệ” chi viện nguồn lực tài chính cho chiến trường miền Nam, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đã có hàng vạn tấm gương sáng về chủ nghĩa cách mạng trong phong trào thi đua yêu nước của ngành Ngân hàng. Hàng trăm cán bộ ngân hàng đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, NHNN Việt Nam đã thực hiện thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam; thu hồi tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc; phát hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất
Từ năm 1986, thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc kinh tế đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, ngành Ngân hàng đã từng bước đổi mới, hoàn thiện về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động cũng như công tác quản lý và điều hành. Sự chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống hai cấp và sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng là những dấu ấn quan trọng, để từ đó đến nay, NHNN đã khởi xướng, đề xuất nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng phù hợp với yêu cầu và thực tiễn phát triển của đất nước.
Từ đó, góp phần quan trọng đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước; phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng an toàn, lành mạnh, thực hiện tốt vai trò trung chuyển vốn trong nền kinh tế; ngày càng đa dạng các loại hình dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người dân. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngành Ngân hàng đã tăng cường mở rộng hợp tác song và đa phương trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, từ đó góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết: Ngành Ngân hàng đã hòa nhịp cùng với sự đi lên của đất nước, trong chiến tranh cũng như hòa bình, trong dựng xây cũng như đổi mới, phát triển và hội nhập. Có thể nói, dù ở giai đoạn nào, các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Ngân hàng Việt Nam cũng đã nỗ lực và cống hiến hết mình, góp phần quan trọng vào thành tựu đáng tự hào của ngành và đất nước nói chung.
Ghi nhận thành tựu và đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, NHNN đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng năm 2006; 3 lần trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1996, 2001, 2016); 3 đơn vị (B29, N2683, C32) được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; nhiều đơn vị trong ngành được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, hàng ngàn tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước ghi nhận những đóng góp bằng các phần thưởng cao quý. Nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập, Ngân hàng Nhà nước rất vinh dự khi được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2016 đến năm 2020.
Kết quả từ sự nỗ lực phấn đấu
Trong những năm tới đây là giai đoạn mà tình hình thế giới và trong nước đan xen nhiều thuận lợi, thời cơ, khó khăn và thách thức, nhất là khi đại dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục hoành hành trên phạm vi toàn thế giới, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn cho ngành Ngân hàng, đòi hỏi mỗi cán bộ Ngân hàng cần tiếp tục phát huy truyền thống đã được hun đúc, kết tinh qua 70 năm dựng xây, đổi mới và phát triển.
Trước tình hình đó, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo NHNN và toàn ngành Ngân hàng sẽ bám sát đường lối chủ trương của Đảng tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII để chỉ đạo, điều hành mọi mặt hoạt động ngân hàng, góp phần hiện thực hoá các mục tiêu mà Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021 - 2025) và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2021 - 2030) và tầm nhìn 2045. Trong đó, tập trung thực hiện ba nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, tăng khả năng thích ứng với những biến động của môi trường kinh tế thế giới và trong nước để kiên định mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
Thứ hai, thực hiện tái cơ cấu và củng cố hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và lành mạnh, hiệu quả, tiệm cận tới các chuẩn mực quốc tế, để thực hiện tốt hơn vai trò chu chuyển vốn và nâng cao tính minh bạch trong nền kinh tế;
Thứ ba, hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng phù hợp với bối cảnh mới; phát triển và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, tăng cường đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tiện ích cho doanh nghiệp và người dân, góp phần vào chủ trương thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số…
Với những thành tựu của ngành Ngân hàng trong suốt 70 năm qua, với thế và lực cũng như vị thế mới của Việt Nam, sự quan tâm sâu sắc và lãnh đạo toàn diện của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, ngành Ngân hàng vững tin sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đưa hệ thống ngân hàng phát triển nhanh, toàn diện, hiệu quả, an toàn, bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hồng Thiết
TĐKT - Với thâm niên 18 năm tham gia việc cai nghiện heroin - ma túy cho học viên từ giai đoạn tiếp nhận, phân loại, ông Bùi Văn Chư, Phó Bí thư Chi bộ Y tế, Phòng Y tế và điều trị Methadone Cơ sở cai nghiện Ma túy số I tỉnh Hòa Bình, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hòa Bình đã góp phần vào việc cắt cơn ma túy, chữa trị cho 4.600 lượt học viên từ năm 2010 - 2019, giúp họ thoát những “cơn say” ma túy trở lại với cuộc sống đời thường.
Ông Bùi Văn Chư là một trong những nhân vật điển hình được biểu dương trong Lễ tuyên dương những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng tại Hà Nội.
Tâm sự với chúng tôi về những ấn tượng đầu tiên của mình khi trực tiếp tham gia công tác chăm sóc học viên, ông Bùi Văn Chư cho rằng chính những gương mặt hoảng sợ, nép mình sau những bức tường kiên cố của các học viên cai nghiện ma túy vẫn từng ngày đấu tranh với bản thân để thoát khỏi sự hành hạ của cơn nghiện và cố gắng học nghề để sau này có thể trở thành người có ích cho xã hội đã khiến ông mỗi ngày thêm cố gắng giúp họ hoàn thành khóa điều trị.
Ông Bùi Văn Chư trong giờ thăm khám cho học viên cai nghiện.
Là người tâm huyết với nghề, bản thân ông luôn quan tâm lắng nghe tâm tư học viên và gia đình, nắm rõ bệnh án và tư vấn dùng thuốc Naltrexone chống tái nghiện và thuốc Heantos 4 hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy cho học viên tự nguyện, thuốc có tác dụng cắt cơn êm dịu, học viên đỡ mệt mỏi, tin tưởng và yên tâm chữa trị cai nghiện.
“Việc giáo dục truyền thông về bình đẳng giới cho học viên, để họ nâng cao nhận thức và tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân là rất quan trọng. Hơn nữa tôi còn hỗ trợ tư vấn phòng, chống các bệnh lây truyền theo nhóm, tập trung cho học viên phòng tránh và hạn chế bệnh lây truyền như: Lao, viêm gan, nhiễm HIV/AIDS…”, ông Bùi Văn Chư chia sẻ.
Hiện nay, bệnh nhân nghiện ma túy tổng hợp như ma túy đá, phiến hồng, cần sa… có hiện tượng ảo giác là rất nhiều. Họ có những hành động ảnh hưởng bản thân và tính mạng của cán bộ điều trị trực tiếp cho họ, những biểu hiện anh chị cũng hay xảy ra, từ lời nói đến hành động đều mang tính tiêu cực, cộc cằn, thiếu tôn trọng người khác. Học viên nghiện heroin lâu năm, mắc nhiều bệnh lây truyền, bệnh nan y, sức khỏe yếu, tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ 60 - 70% không phối hợp chữa bệnh, liều lĩnh và lười lao động.
“Khi điều trị cắt cơn tạm ổn định, họ có thể nhận biết thì lại phát sinh tâm lý chán chường. Không ít học viên lúc này sẽ nảy sinh suy nghĩ tiêu cực, tìm đến cái chết. Do đó, chỉ cần cán bộ trực lơ là thì không biết hậu quả sẽ như thế nào. Nhưng không vì những khó khăn kể trên mà làm cho tôi chùn bước, buông xuôi, mặc kệ. Tôi luôn mềm mỏng động viên họ kịp thời và tự tìm các biện pháp hợp lý, để bảo vệ cho bản thân khỏi các nguy cơ phơi nhiễm HIV và không bị hành hung. Từ đó, đội ngũ y bác sĩ sẽ đem lại cách chăm sóc điều trị hợp lý cho bệnh nhân”, ông Bùi Văn Chư tâm sự.
Chia sẻ với chúng tôi, ông nói: “Học viên trước đây, quen sống tự do, giờ phải ở trong phòng khiến họ vốn đã bứt rứt vì thiếu thuốc, đôi khi trở nên hung hãn, ảo tưởng. Họ dùng tất cả những thứ trong tầm tay mình để tấn công y, bác sĩ chăm sóc. Với một học viên có độ tuổi trung bình từ 20 - 30, sức khỏe bình thường, tay chân lành lặn thì phải có 3 - 4 cán bộ cùng nhân viên y tế mới giữ chặt được tay chân khi họ lên cơn thèm thuốc. Chỉ sau 7 - 10 ngày tỉnh táo lại, họ lại hối hận, tìm gặp bác sĩ để nói lời xin lỗi. Bởi thế, chúng tôi luôn tin bản tính lương thiện vẫn còn tồn tại trong mỗi con người, chỉ là nhất thời họ bị “nàng tiên nâu” chi phối mà thôi”.
Điều khó nhất hiện nay khi chữa bệnh cho người nghiện chính là việc một người có thể sử dụng nhiều loại ma túy từ heroin, ma túy tổng hợp, cỏ Mỹ, bóng cười thậm chí là những chất ma túy tự chế rất độc hại như keo “con chó”... Việc điều trị vì thế phức tạp và mất nhiều thời gian hơn. “Trước khi chữa bệnh, chúng tôi thường phải kiểm tra rất kỹ người bệnh sử dụng những loại ma túy nào để có phác đồ điều trị phù hợp. Có nhiều học viên thường nói dối, đòi hỏi chúng tôi phải thật gần gũi, tâm sự, họ mới nói thật, nếu không điều trị sẽ không hiệu quả”, ông Chư chia sẻ.
Những học viên rất cần sự chia sẻ, đồng cảm của gia đình và các y, bác sĩ.
Ngoài công tác chuyên môn, ông Chư và các y, bác sĩ nơi đây còn đồng cảm, chia sẻ với học viên, bởi chữa bệnh cho học viên cai nghiện là chữa bệnh ở tâm. “Đối mặt với khó khăn, tôi vẫn tự nhủ làm điều dưỡng chăm sóc sức khỏe cho học viên cai nghiện không chỉ đơn thuần là khám bệnh, kê thuốc làm theo y lệnh của bác sĩ mà phải quan tâm cả về môi trường sinh hoạt, ăn uống, vật chất, tinh thần, động viên, giải thích những vấn đề họ chưa hiểu. Có sự quan tâm toàn diện như vậy, họ mới mau hồi phục. Bên cạnh đó là tinh thần, trách nhiệm của người bác sĩ đối với bệnh nhân, chúng tôi xem họ như người thân của mình. Bởi “cắt cơn” nghiện là giai đoạn khó khăn nhất đối với học viên về cả thể xác lẫn tinh thần”, ông Chư nói.
Không chỉ vậy, nhiều học viên khi vào cơ sở không nhận được sự quan tâm của gia đình hoặc bị gia đình bắt đi cai nghiện... nên thường rất bức xúc về tâm lý, thậm chí là có tư tưởng bỏ trốn, tự hủy hoại bản thân hoặc có các hành vi tiêu cực khác. “Tôi và những y, bác sĩ sẽ là người đầu tiên tiếp xúc, kiểm tra sức khỏe, phân loại đối tượng, xác định bệnh lý... để có hướng điều trị cho mỗi học viên. Rồi cũng chính những thầy thuốc từ từ tư vấn, cảm hóa, giúp học viên qua “cơn đau” của quá trình cắt cơn và tiếp tục theo dõi sức khỏe của họ suốt quá trình ở cơ sở” - ông Chư nhấn mạnh.
Với những thành tích đạt được trong giai đoạn 2010 - 2020, ông Bùi Văn Chư nhiều năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở và Giấy khen của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hòa Bình, được cấp trên tín nhiệm, nhân dân trong và ngoài tỉnh tin tưởng.
Tố Như
TĐKT - Suốt gần 5 năm qua, chị Trương Thị Thanh Tâm, Chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) Chuyên biệt Thiện Tâm (xã Đắk Lao, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) vẫn miệt mài với công tác thiện nguyện, kết nối nhiều hoàn cảnh đặc biệt, gặp hoạn nạn, khó khăn trong cuộc sống. Chị là minh chứng cho bông hoa sống đẹp, sống có ích giữa đời thường.
Dành trọn yêu thương cho trẻ chuyên biệt
Chị Tâm tốt nghiệp chuyên ngành chuyên biệt của trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh và từng có gần 10 năm giảng dạy tại các trường học của huyện Đắk Mil.
Cái duyên đến với công việc thiện nguyện bắt đầu từ năm 2015 khi chị nhận can thiệp miễn phí cho một trường hợp trẻ chuyên biệt ở huyện Đắk Nông. Tiếng lành đồn xa, ngày càng có nhiều phụ huynh biết đến và đưa trẻ đến xin học. “Khi số trẻ nhiều hơn, mình và một số bạn tình nguyện viên đã đứng ra thành lập CLB chuyên biệt Thiện Tâm để thu hút nhiều người cùng chung tay giúp đỡ những em không may mắn. Lớp học hoàn toàn miễn phí nên nhiều người nghĩ mình không bình thường, thậm chí, cho rằng tôi bị điên” – Chị chia sẻ.
Cô giáo Tâm luôn dành trọn tình yêu thương cho những trẻ em chuyên biệt
Vậy là cứ mỗi tuần vào thứ 7, chủ nhật và 3 tháng hè, CLB chuyên biệt Thiện Tâm tư vấn, can thiệp sớm, trị liệu và phục hồi chức năng miễn phí cho trẻ tự kỷ, chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý, khiếm thính… Đồng thời, giúp trẻ tự tin hòa nhập với cộng đồng xã hội, được sống và làm việc độc lập. Phụ huynh có trẻ khuyết tật cũng sẽ được trang bị kiến thức về giáo dục tật học để có thể phối hợp tốt với nhà trường trong công tác giáo dục trẻ.
Khi thành lập, CLB chuyên biệt Thiện Tâm có 29 học sinh, ở các độ tuổi khác nhau từ 2,5 tuổi đến 15 tuổi. Hiện tại, CLB có 39 học sinh, với nhiều dạng khuyết tật khác nhau.
Từ tháng 2/2020, chị Tâm thành lập Không gian đọc Minh Anh, là điểm đến miễn phí cho các bé khuyết tật kém may mắn và các bạn thích đọc sách, tìm hiểu, khám phá thế giới sách. Không gian đọc có hơn 2.000 đầu sách với đủ thể loại, trong đó chủ yếu vẫn là sách dành cho trẻ đặc biệt và đã thu hút được hơn 500 lượt bạn đọc.
Hết lòng vì cộng đồng
Cùng với duy trì lớp học, từ năm 2018 đến nay, chị Tâm đã cùng các thành viên CLB tổ chức nhiều chương trình thiện nguyện, kêu gọi ủng hộ giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn hoạn nạn, thăm hỏi, tặng quà cho người dân vùng khó nhân các dịp lễ, tết với tổng trị giá trên 2 tỷ đồng.
“Công tác thiện nguyện mới nghĩ chỉ đơn giản là trao tặng quà, giúp đỡ ai đó nhưng kỳ thực khi bắt tay vào việc mới thấy nhiều khó khăn. Nhưng có làm mới biết, việc từ thiện nhiều khi rất nhạy cảm, nếu không cẩn thận sẽ hỗ trợ nhầm đối tượng hoặc làm giảm ý nghĩa của công việc đang làm.” - Chị Tâm chia sẻ.
Thêm vào đó là áp lực từ dư luận, nếu ai không hiểu sẽ nghĩ mình kêu gọi từ thiện để làm lợi riêng hoặc những người ủng hộ vật chất không tin tưởng vào công việc mình đang làm. Thế nên, khi bắt đầu vào công việc, tiêu chí chị đặt ra là phải trung thực, công khai. Trước mỗi chuyến đi, chị đều tìm hiểu kỹ các nguồn tin về đối tượng cần hỗ trợ.
May mắn, trên hành trình ấy, chị nhận được sự ủng hộ rất nhiều từ gia đình, bạn bè và các cộng tác viên tích cực. Có nhiều người cũng muốn làm từ thiện nhưng không có điều kiện để đi, thấy chị làm hiệu quả nên đã gửi gắm vật chất, kinh phí theo mỗi hành trình.
Bởi vậy, mỗi chương trình do CLB của chị tổ chức luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều mạnh thường quân, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh.
Chị Tâm (thứ 7 từ trái sang) trao quà trong Chương trình Tiếp bước đến trường
Bà H’Jớt ở bon Bu Đắk, xã Thuận An (Đắk Mil), một trong những người được chị Tâm cùng CLB hỗ trợ, xúc động cho biết: “Hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, tôi thì sức khỏe yếu không thể lao động. Tôi hiện đang sống cùng gia đình con gái và 9 đứa cháu đang tuổi ăn tuổi học. Con rể tôi, Y Bi Al lại bị tai nạn lao động gãy cột sống nằm liệt giường nhiều tháng nay. Trước hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chị Tâm đã đứng ra kêu gọi, hỗ trợ chi phí điều trị bước đầu cho Y Bi Al và giúp đỡ nhu yếu phẩm cho tôi. Gia đình tôi thực sự biết ơn chị Tâm.”
Các chương trình từ thiện đều được chị tổ chức theo đợt, vào dịp khai trường tặng sách vở, áo ấm mùa đông, quà Tết Trung thu, Tết Nguyên đán.. Những nơi chị hướng đến là trẻ em ở vùng cao, điều kiện sinh hoạt, học tập còn nhiều khó khăn. Mỗi tập sách, bộ quần áo giúp các em thêm vững bước đến trường. Có những đợt đồng bào vùng cao gặp khó khăn vì sạt lở do mưa lũ, chị đã nhanh chóng kêu gọi mọi người ủng hộ, chỉ sau vài ngày là có thể lên đường ngay được.
Những hoạt động như thiện nguyện: Lễ hội mùa xuân, Hè yêu thương, Tết Trung thu cho em, Ấm áp mùa đng, Đổi rác lấy cây, Chợ nhân đạo… do chị và CLB tổ chức đều thu hút được sự ủng hộ của các mạnh thường quân.
Đặc biệt trong đợt dịch Covid-19, chị cùng các thành viên CLB đã tổ chức tặng khẩu trang, nước rửa tay cho một số nơi như Đà Nẵng, Quảng Nam, xã Long Sơn, Huyện đoàn Đắk Mil, Bệnh viện Đắk Mil…
Chia sẻ về những việc làm ý nghĩa của mình, chị Tâm cho biết: “Khi mình trao chọn những món quà cho những hoàn cảnh khó khăn, điều mình đón nhận lại chính là nụ cười, niềm vui, niềm hạnh phúc là sự hân hoan của tất cả mọi người. Do đó sau mỗi một chuyến đi về tôi đều tự nhủ mình cần phải cố gắng hơn nữa, mình sẽ phải giúp đỡ nhiều hoàn cảnh hơn nữa.”
Với tâm niệm cho đi là hạnh phúc, suốt hành trình thiện nguyện của mình, chị Tâm luôn nỗ lực để mỗi ngày lại có thêm nhiều mảnh đời kém may mắn được sẻ chia, giúp đỡ và từ đó nhân lên lòng tốt trong cộng đồng.
Chị đã được tặng thưởng nhiều Bằng khen, Giấy khen của Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các cấp, các ngành, địa phương. Năm 2020, chị vinh dự là 1 trong 50 gương sáng thầm lặng vì cộng đồng được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Hà Nguyệt
TĐKT - Tiến sĩ y khoa, GS. BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin TP Hồ Chí Minh là một trong những cá nhân vinh dự được tôn vinh là Tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Xuất thân là một bác sĩ sản phụ khoa, nên ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, bà đã từng phải chứng kiến nhiều trường hợp trẻ sơ sinh Việt Nam bị dị dạng nhưng chưa rõ nguyên do. Mang trong lòng nỗi niềm thương xót trước những sinh linh bé bỏng, bà đã cất công tìm đọc rất nhiều tài liệu y khoa để mong tìm hiểu nguyên do về hiện tượng lạ này. Trong một lần như vậy, bà đã tình cờ đọc được một bản báo cáo khoa học về chủ đề này do Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ công bố vào năm 1974. Sau khi đọc xong, bà bắt đầu nghi ngờ rằng, dường như những trường hợp quái thai ở Việt Nam có liên quan đến hóa chất độc hại do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.
Để lý giải cho sự nghi ngờ này, năm 1982, bà đã thực hiện một nghiên cứu trên 1000 hộ gia đình ở xã Thanh Phong, huyện Thanh Phú, tỉnh Bến Tre. Kết quả cho thấy, những người sống trong vùng bị rải chất độc da cam sinh ra con dị tật cao gấp 3-4 lần. Năm 1983, bà đã cho công bố báo cáo này trên một tạp chí khoa học của Anh. Từ đó, bà bắt đầu quyết tâm theo đuổi việc nghiên cứu về sự ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin đối với người Việt Nam.
GS. TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đưa kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm về Việt Nam giúp điều trị vô sinh hiếm muộn
Sau này, trên cương vị Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin của TP Hồ Chí Minh và Việt Nam, bà đã đấu tranh không ngừng trong việc đưa tiếng nói của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam ra thế giới, cũng như nỗ lực đấu tranh đòi công lý và lẽ phải cho họ.
Ngày 15/5/2008, Hạ viện Mỹ đã phải mở phiên điều trần với chủ đề “Trách nhiệm bị lãng quên! Chúng ta phải làm gì cho các nạn nhân da cam”. Tại phiên điều trần này, bà là nhà khoa học đầu tiên của Việt Nam được vào Hạ viện Mỹ để trình bày về vấn đề này. Sau đó, bà còn tham gia 2 phiên điều trần nữa tại Hạ viện Mỹ. Tại phiên điều trần lần thứ ba, đại diện chính quyền Mỹ cho biết sẽ sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong việc cải tạo môi trường, khắc phục hậu quả do chất độc da cam/dioxin gây ra. Trước mắt, chương trình hành động giai đoạn 2010 - 2019 do Nhóm Đối thoại Việt - Mỹ về da cam/dioxin sẽ hỗ trợ 300 triệu USD (30 triệu USD/năm) để Việt Nam cải tạo những vùng đất bị ô nhiễm và tái phục hồi môi sinh bị hủy hoại, mở rộng dịch vụ giúp đỡ nạn nhân...
Bên cạnh đó, đi đến nước nào bà cũng kêu gọi hỗ trợ từ các tổ chức, các nước cho nạn nhân chất độc da cam. Bà đã kêu gọi xây dựng được 13 làng Hòa Bình trên cả nước, đây là nơi chăm sóc và nuôi dạy cho các cháu bị chất độc da cam.
Ngoài các hoạt động về chất độc da cam/dioxin, trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn của đất nước, bà đã cùng tập thể tìm ra biện pháp để tiến hành được nhiều nghiên cứu khoa học có giá trị, phục vụ thiết thực cho sức khỏe phụ nữ, sức khỏe bà mẹ và sơ sinh ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Bà còn tham gia phối hợp với các tổ chức ban, ngành, đoàn thể và các cơ quan bộ, ngành khi có tổ chức các cuộc truyền thông, cũng như triển khai các nội dung hoạt động thực hiện chiến lược Quốc gia về sức khỏe sinh sản, trong giai đoạn 2001 - 2010, nhất là tư vấn sinh sản cho nạn nhân để không sinh ra những các trẻ em bị di chứng da cam.
Từ khi nghi hưu đến nay, bà vẫn tham gia công tác đấu tranh, vận động các nước về đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam, tham gia các công việc giảng dạy, viết và sửa tài liệu đào tạo, tham gia giám sát, đánh giá cho các dự án của Bộ Y tế cũng như các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Hàng năm, bà đã khám bệnh và tặng quà cho đồng bào dân tộc, phụ nữ nghèo, trẻ em mồ côi, khuyết tật với hơn 3.000 lượt phụ nữ và trẻ em.
Bà Phượng đi bộ đồng hành cũng bệnh nhân chất độc màu da cam
Từ năm 2005 – 2009, bà thường tổ chức nhiều đoàn y, bác sĩ khám chữa bệnh cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên. Từ năm 2005 đến nay, bà đã trợ cấp thường xuyên cho nạn nhân chất độc da cam xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi và phụng dưỡng 6 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, đến nay chỉ còn hai bà mẹ còn sống. Hàng năm, bà đến khám bệnh, tặng quà trong các dịp lễ, Tết, ngày 27/7...
Từ năm 2011 đến nay, bà tài trợ cho 40 nạn nhân chất độc da cam ở 2 xã Nhuận Đức và An Nhơn Tây, huyện Củ Chi cùng với 10 nạn nhân ở huyện Cần Giờ, 5 nạn nhân ở Đồng Nai, mỗi tháng mỗi người 200 nghìn đồng cùng với quà Tết.
Năm 2008 và 2010, bà được đề cử một mình đi điều trần tại Hạ viện Hoa Kỳ, Ủy ban Đối ngoại Hoa Kỳ về “Trách nhiệm của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các nạn nhân chất độc da cam/dioxin”. Năm 2009, bà phát biểu tại Tòa án Lương tâm Thế giới, vạch rõ và tố cáo tội ác đối với nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam tại Paris cùng với các đồng chí lãnh đạo Hội Trung ương.
Năm 2009, bà cùng nhóm đối thoại Việt - Mỹ tổ chức một Gala văn nghệ ở TP Hồ Chí Minh quyên góp được tiền, xây dựng được hệ thống cung cấp nước sạch đến tận nhà cho đồng bào Raglai ở A Sầu, A Lưới – Thừa Thiên Huế, rồi một hệ thống nước sạch cũng đến tận nhà cho đồng bào dân tộc thiểu số làng Ka Du, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Ngoài ra, còn cấp cho 6 tỉnh, thành phố mỗi nơi 100 triệu đồng, trong đó có TP Hồ Chí Minh. Năm 2010, bà được Trung ương Hội cử đi điều trần tại Hạ viện Hoa Kỳ cùng với cháu Trần Thị Hoan, yêu cầu họ phải nhanh chóng bồi thường nạn nhân chứ không chỉ rót tiền vào việc tẩy sạch môi trường ở các sân bay Đà Nẵng, Biên Hòa và Phù Cát.
Với những nỗ lực đó, năm 2020, bà vinh dự được tôn vinh là Tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Mai Thảo
Góp phần tạo dựng tương lai tươi sáng của người khuyết tật Việt Nam
TĐKT - Là một người khuyết tật không chịu đầu hàng số phận, không khuất phục trước những khó khăn do cuộc sống mang lại, những năm qua, ông Đặng Văn Thanh (sinh năm 1958), Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam đã làm được nhiều điều ý nghĩa, góp phần thay đổi cuộc sống, tạo dựng tương lai tươi sáng của người khuyết tật Việt nam. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học và truyền thống cách mạng ở Thủ đô, lúc mới ra đời, cậu bé Thanh cũng khôi ngô, khỏe mạnh, lanh lợi như các anh chị em của mình, cho đến khi cậu lên hai tuổi. Sau một lần tắm mưa, cậu bị một trận sốt bại liệt không thể đi lại được nữa, muốn di chuyển phải lê, bò do một chân bị liệt, teo tóp. Dù đã được gia đình quan tâm, chạy chữa, nhưng do chiến tranh xảy ra, những ca phẫu thuật không trọn vẹn đã đưa cậu bé Thanh gắn bó với dáng đi cà nhắc suốt đời. Nhớ lại, ông Thanh cho biết: "Thời gian đất nước chiến tranh, gia đình phải đi sơ tán là thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời, bởi lúc đó nhận thức về người khuyết tật còn nhiều hạn chế, đi học thì bị bạn bè trêu chọc nên hay tủi thân, mặc cảm. Thế nhưng, bù lại, gia đình thì lại hết mực yêu thương, nên thay vì suy nghĩ mặc cảm, tôi luôn nỗ lực làm sao phải cố gắng học, tích lũy kiến thức để chứng minh cho mọi người thấy khả năng của mình." Ông Đặng Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam thường xuyên phát biểu tại các Hội nghị Sau khi học xong phổ thông, ông cùng một số anh em đã thành lập hợp tác xã cơ khí sản xuất ốc phanh xe đạp, cồn bát phuốc trục giữa xe đạp, sau đó sản xuất kẹo dân tộc (kẹo vừng, kẹo lạc)... Đến năm 1987, ông vào làm nhân viên Phòng Tổng hợp Xí nghiệp 202 của người tàn tật quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Với khả năng và nỗ lực vượt bậc, ông lần lượt trải qua nhiều vị trí lãnh đạo của xí nghiệp, như: Quản đốc Phân xưởng bao bì năm 1990, phụ trách 120 người khuyết tật và thương binh; Trưởng phòng Kinh doanh năm 1992; Trợ lý Giám đốc năm 1994 và chính thức làm Giám đốc Xí nghiệp từ năm 1997 đến năm 2008. Trong suốt quá trình công tác, từ khi làm cán bộ phòng đến Giám đốc Xí nghiệp, ông đã tạo công ăn việc làm với mức thu nhập thuộc loại khá vào thời điểm bấy giờ cho hàng trăm công nhân đều là thương binh, người khuyết tật; học sinh khuyết tật học nghề được cấp sổ gạo 17,5kg/tháng; học sinh ngoại tỉnh được nhập hộ khẩu Hà Nội; kết nối, giúp hàng chục cặp đôi người khuyết tật đến với nhau xây dựng bến bờ hạnh phúc; cấp hơn 20 căn nhà cho anh chị em công nhân.... Đặc biệt, với quan niệm “không ai có thể làm cho người khuyết tật tốt hơn là tổ chức của chính những người khuyết tật”, ông đã tạo điều kiện để nhóm Vì tương lai tươi sáng - tiền thân của Hội Người khuyết tật thành phố Hà Nội - có trụ sở làm việc. Với mong muốn có nhiều cơ hội trợ giúp người khuyết tật hơn, trợ giúp được nhiều người khuyết tật hơn, trong đó phải kể đến việc thay đổi tư duy, nhận thức về người khuyết tật của chính bản thân người khuyết tật và gia đình cùng cộng đồng xã hội, các cơ quan chức năng... ông nghĩ, cần phải có một tổ chức hội chuyên về sản xuất, kinh doanh của người khuyết tật. Nên năm 2003, ông đã cùng một số cộng sự, với sự trợ giúp của ông Nghiêm Xuân Tuệ khi đó là Phó Vụ trưởng Vụ quan hệ quốc tế Bộ LĐTB&XH, thành lập Ban Vận động Hiệp hội Sản xuất Kinh doanh của người khuyết tật Việt Nam, nay là Hiệp hội Doanh nghiệp của Thương binh và Người khuyết tật Việt Nam, ông được bầu là Trưởng ban. Ban đầu, Hiệp hội được thành lập, với 113 tổ chức hội thành viên. Đến nay, sau hơn 20 năm, Hiệp hội đã thực sự trở thành mái nhà chung của các doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật, với trên 700 tổ chức hội thành viên. Những cơ sở này đã dạy nghề cho hàng nghìn người và tạo công ăn việc làm cho trên 20.000 người là thương binh và người khuyết tật không những sản xuất đa dạng các mặt hàng phục vụ xã hội mà hàng năm còn nộp ngân sách hàng trăm tỷ đồng. Năm 2008, ông từ bỏ vị trí Giám đốc Xí nghiệp 202 với hàng trăm công nhân, có mức thu nhập ổn định để tham gia các hoạt động xã hội phi lợi nhuận, không có lương, không có trợ cấp, tự chủ kinh tế. Ông tâm sự: “Nếu vẫn làm giám đốc, tôi chỉ có thể giúp được một vài trăm thương binh và người khuyết tật, trong khi đó Việt Nam là một quốc gia có nhiều người khuyết tật (theo số liệu chính thức hiện nay là 6,2 triệu người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, chiếm khoảng 7,06% dân số). Với vai trò, cương vị mới là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội, được tham gia nhiều hội nghị quốc tế và học hỏi tại nhiều quốc gia như: Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, Đan Mạch, Hàn Quốc..., cùng với những kinh nghiệm rút ra trong quá trình hoạt động, ông Thanh nhận ra rằng, chỉ dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật là chưa đủ, mà người khuyết tật còn nhiều quyền khác như giáo dục, y tế, tiếp cận giao thông, công trình xây dựng.... cũng cần được đảm bảo. Ông Thanh khẳng định: Quyền của người khuyết tật chỉ được hiện thực hóa, người khuyết tật chỉ được hòa nhập vào cộng đồng xã hội bình đẳng và đầy đủ khi bản thân người khuyết tật cùng gia đình, cộng đồng xã hội nhận thức đúng đắn hơn về lĩnh vực khuyết tật và các chính sách được thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả. Trải qua quá trình hoạt động, học hỏi từ nhiều quốc gia, ông cùng các cộng sự đã đưa ra ý tưởng thành lập Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (tổ chức của và vì người khuyết tật ở cấp quốc gia, là đại diện tham gia các hoạt động quốc tế cũng như đầu mối điều hòa, phối hợp các tổ chức hội của và vì người khuyết tật từ trung ương đến địa phương). Ban Sáng lập để thành lập Liên hiệp hội được thành lập năm 2009 và đến tháng 4/2010 Bộ Nội vụ chính thức có quyết định thành lập Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam. Năm 2011, Đại hội lần thứ nhất Liên hiệp hội, nhiệm kỳ đầu tiên, ông giữ vai trò là Phó Tổng Thư ký, rồi Quyền Tổng Thư ký và đến nay là Phó Chủ tịch Thường trực của Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam nhiệm kỳ II, 2017 - 2022. Ông Đặng Văn Thanh, chụp ảnh lưu niệm cùng Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội Người khuyết tật TP Hà Nội nhân kỷ niệm Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 Với vai trò và trách nhiệm của mình, trong nhiều năm qua, cùng với Ban lãnh đạo Liên hiệp hội ông Thanh đã tích cực thúc đẩy việc thành lập các tổ chức của và vì người khuyết tật các tỉnh, thành trong cả nước (ban đầu, cả nước có 7 tổ chức hội thành viên ở cấp trung ương; 11 tổ chức hội thành viên là hội người khuyết tật các tỉnh/thành phố. Đến nay, sau hơn 10 năm hoạt động Liên hiệp hội đã phát triển thêm 14 tổ chức hội của người khuyết tật tại các tỉnh, thành phố trên cả nước, nâng tổng số hội của người khuyết tật lên 25 tổ chức cùng 12 trung tâm, 2 mạng lưới và hàng trăm câu lạc bộ của người khuyết tật); phối hợp cùng nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, các tổ chức của và vì người khuyết tật tổ chức, điều hành các cuộc tập huấn nâng cao năng lực cho người khuyết tật, thực hiện nhiều dự án liên quan đến người khuyết tật như dạy nghề tạo việc làm, phổ biến chính sách...; tổ chức, tham gia nhiều hội thảo thúc đẩy, giám sát thực hiện, phản biện chính sách pháp luật liên quan đến người khuyết tật; khảo sát thực trạng, nhu cầu, mong muốn của người khuyết tật... Hiện nay ông Đặng Văn Thanh còn là thành viên Tổ Tư vấn của Ủy ban Quốc gia về người khuyết tật (NCD), thường xuyên được NCD, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, các tổ chức quốc tế như Unicef mời tham gia đoàn công tác kiểm tra, giám sát, thúc đẩy việc thực thi luật và các chính sách liên quan đến người khuyết tật... Ông cũng là một trong số những cá nhân có nhiều tâm huyết trong việc đấu tranh, bảo vệ quyền cho phụ nữ và trẻ em khuyết tật. Ông Thanh cũng được mời tham gia là ủy viên, thành viên của nhiều hoạt động, dự án, chương trình nghiên cứu, hoạch định kế hoạch của các cơ quan nhà nước.... Hơn 30 năm hoạt động trong lĩnh vực khuyết tật, ông Đặng Văn Thanh là một trong những chuyên gia giàu kinh nghiệm có nhiều đóng góp thiết thực, cụ thể cho người khuyết tật, cho lĩnh vực khuyết tật. Ông luôn được sự tin tưởng của các cơ quan, ban, ngành cũng như các tổ chức quốc tế, phi chính phủ, các tổ chức của và vì người khuyết tật khi cần những bài tham luận chia sẻ liên quan đến lĩnh vực này. Có thể nói, dù ở cương vị nào, Giám đốc Xí nghiệp 202, hay lãnh đạo một tổ chức cấp quốc gia về người khuyết tật, ông Thanh cũng làm việc hết mình, bền bỉ, kiên trì để đạt mục tiêu và cũng là ước nguyện của riêng mình: Góp phần thay đổi cuộc sống, tạo dựng tương lai tươi sáng của người khuyết tật Việt nam. Mai ThảoTĐKT - Cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Tiến Chức, sinh năm 1938 trong một gia đình có truyền thống cách mạng, bố là đảng viên, Đội trưởng Đội tự vệ của xã. Từ nhỏ, ông Chức sớm chứng kiến những tội ác của thực dân Pháp và nung nấu lòng căm thù giặc, 15 tuổi đã dũng cảm dẫn đường cho bộ đội đánh chiếm 2 đồn bốt của địch ở huyện Thanh Liêm. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ông Chức tích cực lao động sản xuất và hăng hái tham gia phong trào thanh niên của địa phương, được bầu làm Bí thư đoàn xã.
Tháng 1/1965, ông Nguyễn Tiến Chức vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng, chưa đầy một tháng sau thì lên đường nhập ngũ. Sau khi trải qua khóa huấn luyện sĩ quan cơ yếu, ông được điều vào mặt trận Tây Nguyên. Trong lần nhận nhiệm vụ đi giao hồ sơ, tài liệu cho đơn vị, ông và một đồng đội gặp trận bom B52 của đế quốc Mỹ, đồng đội hy sinh, ông bị thủng màng nhĩ cả hai bên và tổn thương vùng thận do bị hầm sập đè lên.
Rời quân ngũ trở về quê hương năm 1973, là thương binh hạng 4/4, bệnh binh 81%, là anh cả trong gia đình có 6 anh em nên cuộc sống của cựu chiến binh Nguyễn Tiến Chức gặp muôn vàn khó khăn. Nhưng với người lính, không có khó khăn nào không thể vượt qua, ông luôn trăn trở suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để đưa gia đình thoát khỏi đói nghèo. Ông trải qua nhiều công việc để mưu sinh, nuôi vợ con và xây dựng kinh tế gia đình như làm ruộng, thợ xây, công nhân may…
Năm 2000, ông nghỉ việc ở xí nghiệp may, đồng thời mạnh dạn thành lập Công ty TNHH Xây dựng Đồng Tiến với số vốn vẻn vẹn 50 triệu đồng. Lúc đầu, công ty có 20 cán bộ, công nhân lao động chuyên trách và huy động 200 lao động hợp đồng theo mùa vụ (chủ yếu là lao động nông nhàn) tiềm lực còn mỏng nên chỉ nhận thầu và thi công các công trình vừa và nhỏ tại địa phương. Với ý chí tự lực, tự cường và phương châm lấy chất lượng, hiệu quả, đúng tiến độ là mục tiêu cao nhất, công ty đã từng bước nhận được sự tin tưởng, tín nhiệm của chính quyền, nhân dân trong tỉnh.
Năm 2010, trước sự phát triển lớn mạnh và yêu cầu mở rộng tổ chức sản xuất - kinh doanh theo chuyên ngành, Tổng Công ty TNHH Xây dựng Đồng Tiến được thành lập với 5 công ty con. Trải qua 4 năm hoạt động, công ty đã không ngừng phát triển, hoạt động đúng hướng, đúng pháp luật. Đến nay, tổng nguồn vốn tự có của công ty trên 180 tỷ đồng, với gần 200 cán bộ, công nhân viên chuyên trách, tạo việc làm thường xuyên cho 400 lao động theo mùa vụ. Tổng doanh thu bình quân 1 năm khoảng 100 tỷ đồng. Nộp thuế cho nhà nước trên 3 tỷ đồng/năm.
Trong 10 năm, công ty đã làm nhiều công trình có chất lượng, trong đó làm 2.500 phòng học cho trường phổ thông, hiện đang làm 2 nhà máy nước sạch trị giá 100 tỷ đồng để phục vụ cho 10.000 hộ dân. Có 20 cán bộ, công nhân viên trong công ty đang đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Năm 2010, công ty được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Trong công việc, ông Chức là vị Tổng Giám đốc luôn phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, dám nghĩ, dám làm, có biện pháp, có kế hoạch giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế, vận dụng và sáng tạo trong lao động, sản xuất, vươn lên làm giàu cho tập thể, cá nhân, cán bộ công, nhân viên có cuộc sống ổn định.
Mặc dù ở tuổi 83 nhưng ông vẫn phát huy tài năng, trí tuệ, cải tiến công nghệ trong phương án xây dựng nhà máy nước sạch. Dự án được thiết kế dự toán trị giá 55 đến 60 tỷ đồng. Bản thân ông sau khi nghiên cứu đã cải tiến thiết bị và công nghệ, giá trị đầu tư còn 18 tỷ đồng. Với tinh thần dám nghĩ, dám làm ấy, ông đã giảm cho nhà nước 48 tỷ đồng, phục vụ nước sạch cho 5.000 hộ dân.
Tiếp đó là dự án nước sạch giai đoạn 2 tại xã Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, phục vụ 1.000 hộ dân và các cơ quan trong vùng miền núi. Dự án được phê duyệt, tổng mức kinh phí đầu tư 11,5 tỷ đồng. Ông đã đi kiểm tra hiện trường và tuyến đường trên 10 km dốc đồi, nghiên cứu kỹ đặc tính kỹ thuật của thiết bị, công nghệ. Để có kết quả cao, ông mạnh dạn bỏ qua trạm tăng áp mà tăng cường thiết bị tại nhà máy để đưa nước vào cho gần 1.000 hộ trong khu vực và một số hộ ngoài khu vực, giảm cho ngân sách nhà nước 4,5 tỷ đồng. Hai dự án nước sạch của ông đã giảm cho nguồn ngân sách nhà nước tổng 52 tỷ đồng.
Hơn hết, luôn nên cao trách nhiệm là Tổng Giám đốc, Bí thư Chi bộ công ty, ông mang hết khả năng, trí tuệ để điều hành công ty với phương châm uy tín, chất lượng, hiệu quả. Để thực hiện phương châm đó, ông luôn xác định bản thân phải gương mẫu, chấp hành tốt tổ chức, kỷ luật, đồng thời động viên, yêu cầu mọi người cùng nghiêm chỉnh thực hiện. Phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên, ông động viên cán bộ, công nhân viên, thúc đẩy các phong trào thi đua trong công ty. Tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến lề lối, phương thức làm việc, nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Đối với hoạt động của công ty, ông luôn duy trì tốt quy chế hoạt động giao ban, nghe báo cáo giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn, giao nhiệm vụ cho các công ty “con”, thường xuyên xuống hiện trường kiểm tra công việc...
Nêu cao trách nhiệm, tình cảm của người lính “Bộ đội Cụ Hồ” và ý thức “Uống nước nhớ nguồn”, “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Lá lành đùm lá rách”, ông cùng gia đình thường xuyên tham gia đóng góp cho công tác tình nghĩa, từ thiện, nhân đạo. Trong 10 năm qua, ông và công ty đã tặng sổ tiết kiệm cho gia đình có công với cách mạng số tiền 80 triệu đồng, số tiền ủng hộ, làm công tác xã hội lên tới 2,3 tỷ đồng.
Những nỗ lực của ông đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận với nhiều phần thường cao quý: Huân chương Dũng sĩ diệt Mỹ; Huân chương Lao động hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Nhì, danh hiệu hội viên Cựu chiến binh sản xuất và kinh doanh giỏi cấp trung ương; Chiến sĩ thi đua cấp bộ; nhiều Bằng khen của tỉnh, Hội Cựu chiến binh. Ông cũng là doanh nhân tiêu biểu và 1 trong 50 gương sáng thầm lặng vì cộng đồng được tôn vinh và nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Hồng Thiết
Trang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- …
- sau ›
- cuối cùng »