Xây dựng nông thôn mới

Xã Nhơn Lộc “tăng tốc” để đạt xã nông thôn mới kiểu mẫu

TĐKT - Năm 2014 xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới, đạt 19/19 tiêu chí. Bên cạnh việc duy trì các tiêu chí nông thôn mới đã đạt được, từ năm 2015 đến nay xã Nhơn Lộc tiếp tục từng bước nâng cao chất lượng các tiêu chí có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân và thay đổi bộ mặt nông thôn của xã theo hướng đô thị hóa. Phấn đấu xây dựng xã Nhơn Lộc sớm trở thành xã nông thôn mới kiểu mẫu của tỉnh. Nhơn Lộc là một trong 15 đơn vị hành chính cấp xã, nằm về phía Tây của thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Toàn xã có 1.228ha diện tích đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp trên 865ha, đất phi nông nghiệp 288ha; xã có 6 thôn, với 2.607 hộ và 9.944 nhân khẩu. Từ một xã thuần nông, đến nay, bộ mặt nông thôn của Nhơn Lộc đã đổi thay đáng kể. Bên cạnh những con đường mới được nâng cấp, mở rộng, nhiều ngôi nhà cao tầng đã mọc lên, tô thêm mảng màu tươi sáng của địa phương. Mô hình thắp sáng làng quê được thực hiện và duy trì, giúp sinh hoạt của người dân thuận lợi. Mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm ngày càng được thắt chặt hơn, không còn tình trạng gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản như trước. Bộ máy chính quyền ngày càng vững mạnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Công cuộc xây dựng nông thôn mới dường như đã thổi luồng sinh khí mới, mang lại niềm vui cho người dân khi đời sống được cải thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Xây dựng đường giao thông ngõ xóm tại thôn Đông Lâm, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, Bình Định. Từ năm 2015 đến nay xã Nhơn Lộc tiếp tục từng bước nâng cao chất lượng các tiêu chí có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân và thay đổi bộ mặt nông thôn của xã theo hướng đô thị hóa; phấn đấu xây dựng xã Nhơn Lộc trở thành xã nông thôn mới kiểu mẫu của tỉnh. Các lĩnh vực mà xã đang tập trung đầu tư, xây dựng: giao thông, thủy lợi, chỉnh trang bộ mặt nông thôn, nâng cao thu nhập của người dân... Tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng trong giai đoạn 2015 - 2017 thực hiện 24,117 tỷ đồng, trong đó: ngân sách tỉnh hỗ trợ 3,905 tỷ đồng, ngân sách thị xã hỗ trợ 1,089 tỷ đồng, ngân sách xã đầu tư 18,141 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 981 triệu đồng. Trên lĩnh vực giao thông, từ năm 2015 đến năm 2017, xã Nhơn Lộc đã tiếp tục đầu tư kinh phí để bê tông hóa 52 tuyến đường ngõ hẻm, nội xóm, nội đồng với chiều dài trên 12 km, nâng tổng số được bê tông hóa lên 22,5 km. Ngoài ra, tiếp tục cứng hóa các tuyến đường còn lại để đủ điều kiện bê tông hóa cho những năm tiếp theo. Đáng chú ý trên lĩnh vực này có 144 hộ dân tự nguyện hiến đất mở đường, với diện tích 3.626 m2 (trong đó đất vườn nhà 1.626 m2, đất ruộng giao quyền 2.000 m2), tương đương với số tiền nhân dân tự nguyện đóng góp là 127 triệu đồng. Trên lĩnh vực thủy lợi, xã tiếp tục thực hiện kiên cố hóa kênh nội đồng do xã quản lý. Do đó, từ năm 2015 đến nay, toàn xã đã thực hiện bê tông kênh mương với chiều dài trên 2km, nâng tổng số kênh mương được kiên cố hóa từ khi thực hiện chương trình nông thôn mới đến nay 18/18km, đạt 100%. Tổng kinh phí thực hiện ở giai đoạn này là 1,4 tỷ đồng, trong đó ngân sách địa phương đảm bảo 924 triệu đồng, đạt 65,53%. Ngoài ra, xã tập trung mọi nguồn lực để tiếp tục cải thiện hơn nữa bộ mặt nông thôn với tổng nguồn vốn đầu tư giai đoạn này trên 16,4 tỷ đồng. Từ năm 2015 đến nay, bằng nguồn vốn ngân sách của địa phương, các công trình được xây dựng hoàn thành: Nhà làm việc Ban Chỉ huy Quân sự xã, kinh phí đầu tư 2,430 triệu đồng; Công viên trung tâm xã, kinh phí đầu tư 4,2 tỷ đồng; nâng cấp các hạng mục của Nghĩa trang Liệt sĩ xã, kinh phí đầu tư 1,2 tỷ đồng. Bên cạnh đó, xã tiếp tục mở rộng nền đường, xây dựng hệ thống thoát nước thải và bó vỉa 4 tuyến đường trung tâm xã, với chiều dài gần 3,1 km. Để nâng cao thu nhập cho người dân, xã tiếp tục thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn xã. Tổng diện tích sản xuất nông nghiệp 865 ha, trong đó diện tích sản xuất lúa là 660 ha, số diện tích còn lại dùng để trồng các loại rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày và cỏ chăn nuôi. Hai hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn xã đã duy trì, mở rộng có hiệu quả 5 cánh đồng mẫu lớn, với diện tích 370 ha để chuyên sản xuất lúa giống, kết hợp với Tổ Hợp tác sản xuất lúa giống thôn Đông Lâm. Do đó năng suất, sản lượng lúa giống ở các mô hình này tăng đột biến, tăng trung bình từ 7 – 10 tạ/ha so với ruộng ngoài mô hình. Lượng giống xuất bán trung bình gần 1.500 tấn/năm, nông dân thu lợi nhuận gần 3,5 tỷ đồng. Trong chăn nuôi, xã chú trọng duy trì và phát triển mạnh về số lượng và chất lượng sản phẩm đầu ra ở đàn gia súc và gia cầm. UBND xã đã đứng ra bảo lãnh, hỗ trợ lãi suất và tín chấp từ Quỹ Tín dụng nhân dân Nhơn Lộc để nhân dân được vay vốn phát triển sản xuất, tái đàn hoặc nuôi mới. Tổng nguồn vốn nhân dân được vay trên 10 tỷ đồng, trong đó xã đã hỗ trợ 250 triệu đồng lãi suất cho nông dân. Duy trì 4 nhóm chăn nuôi bò cùng sở thích, thu hút gần 100 hộ dân tham gia. Sản phẩm thịt xuất bán cao, nhân dân thu được lợi nhuận đáng kể. Việc phát triển 3 làng nghề truyền thống trên địa bàn xã là rượu Bàu Đá (Cù Lâm), tráng bánh (Trường Cửu), đan nát (Đông Lâm) cũng được địa phương hết sức quan tâm. Bằng hình thức tín chấp, hỗ trợ lãi suất để nhân dân được vay vốn, nhân dân các làng nghề có điều kiện để đầu tư, sửa chữa, nâng cấp nhà chế biến sản phẩm đảm bảo đạt chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm, sản phẩm đạt chất lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Thương hiệu sản phẩm từng bước được khẳng định. Có thể nói, với sự đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và kịp thời của địa phương, do đó đời sống của người dân được cải thiện đáng kể, thu nhập bình quân đầu người đến nay đạt gần 35 triệu đồng/người/năm, tăng so với thời điểm cuối năm 2014 là 8,7 triệu đồng/người/năm. Giá trị sản xuất hàng năm tăng trung bình 12,7%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành nông nghiệp tăng bình quân 7,95%, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 15,8%,  thương mại – dịch vụ tăng bình quân 17,5%. Đời sống của người dân có sự thay đổi đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức 4,5%. Các thiết chế văn hóa tiếp tục được đầu tư xây dựng, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao đã đáp ứng tốt nhu cầu đời sống tinh thần nhân dân. Sự nghiệp giáo dục được quan tâm, cơ sở vật chất được đầu tư và đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục; giữ vững phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp hàng năm đạt 100%; 4/4 trường học tiếp tục duy trì chuẩn Quốc gia. Công tác y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng được quan tâm đúng mức… Đến nay, xã tiếp tục duy trì đạt chuẩn quốc gia về y tế, phục vụ tốt nhu cầu khám, chữa bệnh ban đầu cho nhân dân; tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt trên 85%; tỷ suất sinh giảm còn 0,4%o/năm; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 11,4%. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo người có công, các đối tượng chính sách và giải quyết việc làm... nhất là tạo điều kiện để các hộ nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực… Với những thành tích đạt được trong thời gian qua, xã Nhơn Lộc vinh dự được Trung ương khen thưởng xứng đáng: Cờ thi đua của Chính phủ các năm 2012, 2013, 2016; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2015 về chuyên đề xây dựng nông thôn mới; Huân chương Lao động Hạng Nhất giai đoạn 2010 – 2014. Hưng Vũ  

Trung Thành: Dồn sức để cán đích nông thôn mới

TĐKT - Là một xã nghèo của thị xã Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên) với xuất phát điểm thấp, nhưng với sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân cùng hướng chỉ đạo đúng đắn của lãnh đạo xã, sau 5 năm triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới (NTM), Trung Thành đã đạt 16/19 tiêu chí.  Xã quyết tâm cuối năm 2017 sẽ hoàn thành 3 tiêu chí còn lại. Triển khai chương trình xây dựng NTM trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Trung Thành tập trung theo hướng phát triển bền vững, có trọng điểm, trong đó lấy phát triển sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm, đầu tư xây dựng hạ tầng là động lực cho phát triển. Xã đã huy động lồng ghép các nguồn vốn, tập trung phát triển sản xuất và đầu tư cơ sở hạ tầng, từng bước nâng cao mức sống, thu nhập cho nông dân; chỉ đạo xây dựng và thực hiện các mô hình sản xuất gắn với hiệu quả và nguồn vốn của người sản xuất. Cùng với đó, xã chú trọng thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất. Ông Đàm Xuân Thao, Chủ tịch UBND xã Trung Thành cho biết: các giải pháp trong xây dựng NTM được Trung Thành chú trọng là đẩy mạnh tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của người dân về xây dựng NTM; thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua “Nông dân tự lực sáng tạo trong xây dựng NTM”, “Doanh nghiệp đồng hành xây dựng NTM”, “Thắp sáng đường quê”, “5 không, 3 sạch”, “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi”... Đồng thời, Ban chỉ đạo xây dựng NTM xã cũng đẩy mạnh việc huy động nhiều nguồn vốn đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, phát triển sản xuất. Trong 5 năm, xã đã huy động được trên 35 tỷ đồng từ các nguồn vốn để tham gia thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM, trong đó, nhân dân đóng góp trên 29,6 tỷ đồng. Xác định phát triển kinh tế là “đòn bẩy” trong thực hiện phong trào xây dựng NTM, chính quyền xã luôn quan tâm đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và tiến tới thoát nghèo bền vững. Xã đã tranh thủ các nguồn vốn lãi suất thấp để hộ nghèo phát triển mô hình kinh tế phù hợp, hướng dẫn cách làm ăn thông qua các lớp dạy nghề ngắn hạn, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Đồng thời, đẩy mạnh vận động nhân dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất: mở rộng diện tích lúa lai, lúa cao sản, lúa thuần chất lượng cao; hình thành và phát triển vùng trồng hoa chất lượng cao tại xóm Thanh Hoa; hỗ trợ xây dựng các mô hình chăn nuôi lợn thịt, gà sinh sản… Nhờ chính sách hỗ trợ, đời sống của nhân dân trong xã đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân xã năm 2016 đạt 33 triệu đồng/người/năm (tăng 45,4% so với năm 2011); tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,2%... Người dân Trung Thành tham gia làm giao thông nội đồng Bên cạnh đó, nhận thức giao thông đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết với các vùng, khai thác tiềm năng, thế mạnh, tạo đà thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương, Trung Thành đã huy động nguồn lực, sức dân từng bước bê tông hoá đường làng, ngõ xóm. Xã đã xây dựng đề án, kế hoạch cụ thể về phát triển giao thông nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Trung Thành đã xây dựng quỹ giao thông, huy động sức dân tham gia xây dựng giao thông nông thôn bằng nhiều hình thức phong phú. Sau hơn 5 năm, người dân trong xã tham gia hiến trên 11.800 m2 đất, tháo dỡ gần 4.500 m tường rào và công trình phụ, huy động hơn 2.000 ngày công để mở rộng, kiên cố hóa các tuyến đường giao thông. Tính riêng từ đầu năm 2017 đến nay, người dân trong xã đã chủ động giải phóng hành lang trên 6.000 m đường, hiến trên 3.500 m2 đất các loại. Toàn bộ các xóm có kế hoạch làm mới hoặc mở rộng đường giao thông nông thôn, người dân đã hoàn thành việc đóng góp đối ứng. Với 16 tiêu chí đã hoàn thành, hiện tại, Đảng bộ và nhân dân xã Trung Thành đang dốc sức hoàn thành 3 tiêu chí còn lại: giao thông, cơ sơ vật chất văn hóa và môi trường. Đối với tiêu chí giao thông, xã đang tiến hành thi công 4 km trục đường liên xã, 6,56 km đường trục xóm và 4,9 km đường ngõ xóm. Dự kiến các tuyến đường sẽ hoàn thành trong tháng 9/2017. Với tiêu chí cơ sở vật chất văn hoá, tính đến cuối năm 2016, xã Trung Thành mới có 3/14 nhà văn hoá xóm đạt chuẩn. Tuy nhiên, nhờ có sự quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền địa phương, sự đồng thuận của người dân, hiện xã đã hoàn thành xây mới 3 nhà văn hoá và sửa chữa 2 nhà văn hóa. Từ nay đến cuối năm, xã sẽ tiếp tục sửa chữa và xây mới 6 nhà văn hóa xóm còn lại và hoàn thành việc thi công Trung tâm Văn hóa Thể thao của xã. Về tiêu chí môi trường, ông Thao cho biết: hiện nay xã có 92,2% hộ dân được sử dụng nước hợp vệ sinh. Những hộ chăn nuôi đều xây dựng hầm Bioga để bảo vệ môi trường. Công tác thu gom và xử lý rác thải trong sinh hoạt và rác thải chăn nuôi được chỉ đạo thực hiện thường xuyên. Xã cũng đã thành lập hợp tác xã thu gom rác thải Trung Thành và đang hoạt động hiệu quả. Để hoàn thiện tiêu chí môi trường, xã đang chỉ đạo xây dựng 28 điểm thu gom rác thải đặt tại các xóm. Với sự nhất trí, đồng lòng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân, tin rằng cuối năm 2017 Trung Thành sẽ hoàn thành 19/19 tiêu chí NTM. Bảo Linh

Kinh Môn – huyện đầu tiên của tỉnh Hải Dương đạt chuẩn nông thôn mới

TĐKT - Ngày 7/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, Trưởng Ban chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia đã ký Quyết định công nhận huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương đạt chuẩn huyện nông thôn mới (NTM) năm 2017. Nhà văn hóa xã NTM Thái Thịnh (huyện Kinh Môn) Trong 6 năm (2011 - 2017), huyện đã đầu tư hơn 2.800 tỷ đồng thực hiện các tiêu chí NTM, trong đó có gần 700 tỷ đồng từ vốn ngân sách Nhà nước, còn lại chủ yếu là vốn tín dụng và nhân dân tự đầu tư phát triển sản xuất. Toàn bộ nguồn vốn huy động đều được huyện quản lý sử dụng đúng nguyên tắc, mục đích, không xảy ra thắc mắc, khiếu kiện. Theo đó, tính tới giữa năm 2017, tất cả các xã thuộc huyện Kinh Môn đã hoàn thành 19/19 tiêu chí quốc gia NTM. Đối với huyện Kinh Môn cũng hoàn thành 9/9 tiêu chí nông thôn mới cấp huyện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Điểm nhấn của huyện là 25/25 xã, thị trấn được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn đến năm 2020. Trung tâm Y tế huyện và Bệnh viện đa khoa Nhị Chiểu (khu vực) được xếp hạng III. Công tác bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho người dân được quan tâm kịp thời. Kinh Môn đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, kết nối với doanh nghiệp đảm bảo bao tiêu ổn định từ 10% sản lượng nông sản trở lên. Trong đó, có những vùng nuôi, trồng cây con đặc sản đạt hiệu quả kinh tế rất cao như, vùng thâm canh cây tỏi 3.500ha, giá trị sản lượng đạt 180 triệu đồng/ha/vụ, vùng trồng sắn dây 350ha, vùng lúa nếp cái hoa vàng 300ha, và các vùng nuôi ba ba, đà điểu, cá chép giòn... Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 32 triệu đồng/năm. Với những thành tích trên, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia đã ký Quyết định công nhận huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương đạt chuẩn huyện nông thôn mới năm 2017. Minh Phương

Trà Vinh hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn

TĐKT - UBND tỉnh Trà Vinh vừa quyết định dành gần 1,8 tỷ đồng từ nguồn vốn sự nghiệp thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của năm 2016 và năm 2017 để đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh từ nay đến cuối năm. Nghề sản xuất bánh, hủ tiếu ở Trà Vinh thu hút nhiều lao động nữ nông thôn theo học để tự tạo việc làm tại gia. Theo đó, 755 lao động nông thôn sẽ được trang bị những kiến thức nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi để tăng năng suất, chất lượng trong sản xuất, từ đó nâng cao thu nhập, góp phần thực hiện hiệu quả tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Học viên tham gia chương trình được hỗ trợ chi phí đào tạo, mua tài liệu, nguyên vật liệu học nghề và được hỗ trợ tiền ăn. Giai đoạn 2015 - 2017, Trà Vinh đặt mục tiêu hỗ trợ đào tạo cho gần 45.000 lao động; trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ đào tạo hơn 9.400 lao động, số còn lại được đào tạo từ nguồn xã hội hóa thông qua doanh nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất… Thực hiện Đề án 1956 của tỉnh về hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, từ năm 2015 đến nay, các cơ sở trong tỉnh đã đào tạo kiến thức về lĩnh vực nông nghiệp cho hơn 8.000 lao động và hỗ trợ đào tạo nghề phi nông nghiệp cho gần 3.000 lao động. Trong số này, 76% học viên học nghề nông nghiệp được đánh giá đạt hiệu quả sau đào tạo, các kiến thức được áp dụng vào sản xuất giúp cải thiện năng suất, tăng thu nhập đáng kể và hơn 74% lao động học nghề phi nông nghiệp có việc làm ổn định sau đào tạo. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất đã truyền nghề cho hơn 37.000 lượt lao động. Nhiều mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn mang lại hiệu quả cao, nổi bật là các mô hình dạy nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm tại huyện Cầu Ngang, Cầu Kè; mô hình dạy nghề trồng rau màu dưới đồng ruộng tại xã Hòa Lợi, huyện Châu Thành; mô hình dạy nghề xây dựng và mô hình doanh nghiệp tổ chức tuyển dụng, kèm cặp nghề, tập nghề cho lao động. Trà Vinh hiện có 19 cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập; trong đó 12 cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đăng ký tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 của tỉnh. Phương Linh

Ông Hai Thành tình nguyện xây cầu dân sinh

TĐKT – Ông Hai Thành tình nguyện bỏ ra cả trăm triệu đồng để xây cầu cho thôn xóm trong khi thu nhập hàng ngày của gia đình chỉ tính từng cân gạo, ký sắn… Đó là câu chuyện mà nhiều người vẫn luôn nhắc đến khi đi qua cây cầu Vườn Bộng bắc qua địa phận 2 xóm Thọ Phú Nam và Thọ Phước, xã Nhơn Thọ, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Xã Nhơn Thọ vào thời điểm học sinh tan học trở nên nhộn nhịp hẳn lên bởi những tiếng cười nói vui vẻ của các cô cậu học sinh sau giờ tan trường. Chúng đang vừa đạp xe băng băng qua cây cầu Vườn Bồng, vừa tán chuyện với nhau rất sôi nổi. Cảnh tượng đó có lẽ đối với mọi người sẽ chẳng có gì đặc biệt, nhưng với ông Lê Văn Thành lại là niềm vui sướng, hạnh phúc trong tâm. Ông bảo, kể từ khi cầu Vườn Bồng được dựng nên, ông đi làm ruộng không phải chứng kiến và lo lắng cảnh bọn trẻ đi học cực khổ qua cây cầu tre lắc lẻo; có đứa không may trượt chân rơi tõm xuống suối nước, nguy hiểm lắm. Ông Thành bên cây cầu do mình tích góp tiền bạc cả đời để xây dựng Trước đây, giữa xóm Thọ Phú Nam và xóm Thọ Phước thuộc thôn Thọ Lộc 1 có một con kênh chia cắt (chiều rộng khoảng 7 mét và chiều sâu gần 2 mét). Từ bao đời nay, nhân dân 2 xóm đều góp tiền và công sức để xây dựng cầu tre tạm bợ. Tuy vậy, hàng ngày, nông dân chăn thả gia súc, vận chuyển nông sản đi lại rất khó khăn. Nhất là vào mùa thu hoạch không thể vận chuyển lúa qua cây cầu tre này bằng xe cơ giới, phải gánh từng gánh lúa rất cực khổ. Vào mùa mưa, nước chảy xiết khiến việc đi qua cầu tre rất nguy hiểm. Các cháu nhỏ đi học phải có người lớn cõng qua; nếu không thường sẽ bị rớt xuống suối, gây nguy hiểm đến tính mạng. Mỗi lần lũ về thường cuốn trôi luôn chiếc cầu tre ấy, bà con đành phải chờ lũ rút mới làm lại cầu để đi.   Do đó, nhân dân nơi đây luôn khát khao, mong mỏi xây dựng được cầu kiên cố tạo điều kiện để phát triển hàng hóa giữa 2 xóm nói riêng và nhân dân trong xã nói chung được thuận lợi; con em được đi học bình thường như bao trẻ khác. Tuy nhiên, ngân sách của địa phương còn gặp nhiều khó khăn nên mong ước đó vẫn chỉ dừng lại ở cây cầu tre lắc lẻo. Dù là một người nông dân chân lấm tay bùn, nhưng hằng ngày ông Lê Văn Thành làm ruộng ở khu vực gần cầu, phải liên tục chứng kiến cảnh bất tiện đó nên cảm thấy không an tâm. Ông nghĩ, mình cần phải có trách nhiệm với vấn đề này. Tuy nhiên, cuộc sống của gia đình ông cũng còn nhiều mối lo toan. Ngôi nhà đang ở của gia đình ông  được xây từ năm 1998, hiện đã xuống cấp trầm trọng. Ông bảo, phải xây dựng 3 lần mới nên căn nhà rộng 90 m2 ấy, nhưng ngôi nhà chỉ được làm từ 120 bao xi măng, còn lại toàn vôi, vữa. Nhà xây xong, 3 năm sau mới trát được tường vì hết kinh phí. Khi ấy, chất lượng gạch dùng xây nhà cũng kém, nên bây giờ mảng tường bên trái đã bóc lớp vữa, lớp gạch bên trong lộ ra ngoài, gạch cũng không còn nguyên vẹn, đã bục, chỉ cần lấy ngón tay chọc vào là thủng, vỡ. Sau hơn 30 năm vừa làm thợ nề, vừa làm nông, chăn nuôi, ông Thành đã tích lũy được gần 110 triệu đồng, nhiều đêm ông nghĩ sẽ dùng số tiền trên để sửa sang lại nhà cửa. Nhưng chứng kiến cảnh bất tiện của nhân dân, ông đã bàn bạc với gia đình và quyết định xin phép chính quyền cho xây cầu bê tông bắc qua hai xóm, còn nhà xuống cấp sau này tích góp được sẽ tính sau. Nghĩ là làm, ông Thành đã gặp gỡ chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và các hộ dân trong thôn để bàn bạc, quyết tâm xây dựng cầu. Ông đến các gia đình 2 xóm gặp gỡ, trao đổi, vận động người dân trong thôn góp tiền, công sức để xây dựng. Khi nhân dân đã đồng thuận cao, ông cùng Ban điều hành thôn trực tiếp báo cáo và xin ý kiến chính quyền địa phương để xây dựng cây cầu Vườn Bộng nối liền giữa xóm Thọ Phú Nam và xóm Thọ Phước. Sau khi được sự cho phép của chính quyền địa phương ông và Ban thôn đã tham mưu UBND xã nhờ đơn vị có tư cách pháp nhân là Công ty TNHH tư vấn xây dựng Thiên Phát lập giúp thiết kế không thu tiền, dự toán với tổng kinh phí 157.646.000 đồng. Sau khi có dự toán thiết kế ông cùng với thôn, xóm đã vận động nhân dân hai xóm đóng góp tiền và ngày công. Nhân dân 2 xóm đóng góp được 1.550.000 đồng, hơn 150 ngày công lao động cùng các dụng cụ thi công, 110 gốc tre, UBND xã đã đầu tư 4 dầm sắt chữ I mỗi cây dài 6 mét, số tiền còn lại 90 triệu đồng do chính gia đình ông tự nguyện đóng góp. Trong quá trình thi công, ông đề nghị thành lập ban giám sát công trình, huy động con em hai xóm có chuyên môn, nghiệp vụ về kỹ thuật xây dựng tham gia và nhờ UBND xã phân công cán bộ giám sát thi công theo dõi theo đúng thiết kế, bản vẽ. Đến năm 2016 cây cầu đã hoàn thành đưa vào sử dụng, chịu lực theo đường bê tông tải trọng 10 tấn, chiều dài cầu 6 mét, chiều rộng 3,5 mét để giúp bà con hai xóm đi lại chăn thả gia súc, vận chuyển nông sản góp phần phát triển kinh tế của địa phương. Cầu Vườn Bộng hoàn thành, bà con 2 xóm và cả thôn Lộc Thọ 1 cũng như nhân dân xã Nhơn Thọ vui mừng, hạnh phúc. Học sinh trong làng vừa đạp xe đạp qua cầu vừa kêu “cầu ông Hai Thành”. Việc làm, hành động của ông Thành và gia đình đã được cán bộ và nhân dân thôn, xã ghi nhận. Ông được bình bầu là cá nhân xuất sắc tiêu biểu đi đầu trong thôn về tích cực tuyên truyền, hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới. Gia đình ông hàng năm liên tục được công nhận gia đình văn hóa xuất sắc. Năm 2016, ông được UBND xã Nhơn Thọ và UBND thị xã An Nhơn tặng Giấy khen về phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, được Thị ủy An Nhơn tặng Giấy khen về Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; năm 2017 được Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định tặng Bằng khen vì có nhiều thành tích trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới. Từ những điển hình tiên tiến như ông Thành mà phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới ở xã Nhơn Thọ và thị xã An Nhơn đã đạt được những kết quả cao, nhân dân trong xã tích cực hưởng ứng, làm theo. Bộ mặt nông thôn quê hương ông đã thay đổi, từ những con đường chưa được bê tông hóa đến nay đã được bê tông hóa, đường làng, ngõ xóm trong thôn không còn đường đất, đặc biệt là chiếc cầu Vườn Bộng nối liền giữa xóm Thọ Phú Nam và xóm Thọ Phước đã được kiên cố hóa tạo điều kiện để phục vụ dân sinh. Đến cuối năm 2016 xã Nhơn Thọ vinh dự được UBND tỉnh Bình Định công nhận về đích xây dựng nông thôn mới. Mai Thảo  

Nữ cán bộ nhiệt huyết với phong trào xây dựng nông thôn mới

TĐKT – Công tác tại Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình từ năm 2002, từ một cán bộ hội cho đến khi làm công tác quản lý, đến nay chị Võ Thị Thanh Thủy (sinh năm 1978), Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Lệ Thuỷ  đã 15 năm gắn bó và có nhiều đóng góp tích cực cho phong trào thi đua và công tác Hội Phụ nữ. Đặc biệt, chị là một trong những hạt nhân quan trọng góp phần đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM) ở địa phương nhanh chóng “cán đích”. Là cán bộ trẻ, được đào tạo bài bản, chị luôn năng động nhiệt tình trong công tác. Năm 2011, chị được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ huyện. Đây cũng là thời điểm Thủ tướng phát động phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.  Với vai trò là người trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về phong trào hoạt động của Hội Phụ nữ trong toàn huyện, chị nhận thức sâu sắc rằng: xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, vai trò của các đoàn thể là rất lớn, phụ nữ chiếm hơn 60% lao động ở nông thôn, do đó sự đóng góp của các tầng lớp phụ nữ có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện chương trình NTM.  Vì vậy, chị đã chủ động tham mưu cho Ban thường vụ Hội xây dựng, triển khai chương trình xây dựng NTM đến toàn thể hội viên thông qua nhiều hoạt động thiết thực gắn với các phong trào thi đua của Hội phụ nữ. Xác định được việc tổ chức triển khai thực hiện sâu rộng cuộc vận động “5 không, 3 sạch” sẽ góp phần thực hiện 9/19 tiêu chí NTM (cụ thể là các tiêu chí 2, 9,10,11,14,15,16,17,19), trong những năm qua, chị cùng với tập thể Ban thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ huyện đã triển khai các hoạt động thiết thực, thu hút sự tham gia tích cực của các tầng lớp phụ nữ, tạo động lực cho chị em cống hiến và phát huy năng lực tổ chức của tổ chức Hội cơ sở. Tiêu biểu: tổ chức hội thi “Phụ nữ Lệ Thủy chung tay xây dựng nông thôn mới” cho đội ngũ cán bộ Hội; chú trọng tuyên truyền trong các buổi sinh hoạt chi, tổ phụ nữ, xây dựng chuyên mục phụ nữ Lệ Thủy phát sóng định kỳ hàng tháng, biểu dương các mô hình dân vận khéo tại cơ sở… Thông qua công tác tuyên truyền vận động, cán bộ, hội viên đã tích cực tham gia phong trào xây dựng NTM với những việc làm thiết thực, hiệu quả gắn với xây dựng các mô hình dân vận khéo của Hội.  Bên cạnh đó, trên cơ sở nhận thức sâu sắc việc phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo vừa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội nhằm cải thiện và nâng cao đời sống cho phụ nữ, vừa là việc làm có tác động lớn đến các tiêu chí 10 về thu nhập, tiêu chí 11 về hộ nghèo và tiêu chí 12 về lao động có việc làm, chị Thủy đã tham mưu cho Hội Phụ nữ huyện chỉ đạo, gắn việc hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế với thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm của huyện. Chủ động phối hợp với Phòng nông nghiệp, trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật, tranh thủ các chương trình dự án… tổ chức được các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng chế biến thủy hải sản….; các lớp đào tạo nghề cho hội viên phụ nữ. Mặt khác, chị Thủy chủ động triển khai đa dạng các hình thức tuyên truyền khác nhau: phổ biến kinh nghiệm thông qua hình thức tổ chức Hội nghị biểu dương các điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi, động viên chị em ứng dụng khoa học kỹ thuật, mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, phát triển ngành nghề, khôi phục nghề truyền thống; thành lập các tổ hợp sản xuất kinh doanh như  khoai gieo, chế biến thủy sản… . Để góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của toàn huyện, chị trực tiếp chỉ đạo các cấp Hội vận động cán bộ, hội viên xây dựng các mô hình sản xuất mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm khai thác hết tiềm năng của từng vùng miền. Cùng với đó, các cấp Hội  hỗ trợ vốn, tư vấn kiến thức, kỹ thuật... tạo điều kiện cho chị em mạnh dạn đầu tư sản xuất. Đến nay tổng số mô hình toàn huyện là 1.518 mô hình sản xuất giỏi, trong đó có 763 mô hình có thu nhập từ 100 triệu đồng trở lên. Đáng quý ở chị Thủy là luôn chủ động tranh thủ nguồn hỗ trợ từ các chương trình dự án của UBND huyện để thúc đẩy vai trò của Hội phụ nữ các cấp trong xây dựng NTM. Điển hình, trong thực hiện tiêu chí về môi trường, cán bộ, hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ huyện đã tích cực vận động các hộ gia đình xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh của chương trình dự án Choba tại 15 xã, tập trung ưu tiên cho các xã thực hiện nông thôn mới. Kết quả, đến nay, trên địa bàn huyện đã hoàn thành và phát thưởng 5.282 công trình, với số tiền 3,5 tỷ đồng, nâng tỷ lệ hộ dân có nhà vệ sinh tự hủy toàn huyện lên 68%. Năm 2017, sau khi được UBND huyện mời tham quan phong trào NTM kiểu mẫu tại Hà Tĩnh, chị Thủy cùng với Ban thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện xây dựng kế hoạch và trình UBND huyện xin chủ trương và kinh phí thực hiện các đoạn đường nông thôn mới kiểu mẫu. Kết quả trong dịp kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội phụ nữ đã tổ chức phát động 3 đoạn đường nông thôn mới kiểu mẫu tại xã Phú Thủy, Mai Thủy và Mỹ Thủy, với chiều dài 3,5 km (vượt 0,5 km theo kế hoạch). Các công trình ý nghĩa này đã tạo không khí thi đua sôi nổi trong các tầng lớp phụ nữ và cộng đồng dân cư, góp phần thay đổi ý thức trong việc xây dựng vườn kiểu mẫu, khu dân cư kiểu mẫu. Nhìn vào khối lượng công việc mà chị Thủy đã nỗ lực thực hiện trong suốt thời gian qua, nhiều người tỏ ra ngưỡng mộ và đánh giá cao. Tuy nhiên chị luôn khiêm tốn: “Là cán bộ trẻ, tuy năng động, nhiệt tình nhưng kinh nghiệm của tôi về việc chỉ đạo các hoạt động trong phong trào xây dựng NTM chưa nhiều, chỉ với tinh thần vừa làm, vừa rút kinh nghiệm” – chị bộc bạch. Còn trong con mắt của các đồng nghiệp và những hội viên phụ nữ huyện Lệ Thủy, chị Thủy là con người nhiệt huyết, sáng tạo, luôn chủ động trong công tác, sống vui vẻ, chan hòa. Nhiều năm qua, chị được tập thể cơ quan và Khối Mặt trận xếp loại công chức xuất sắc, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;  đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở năm 2012, 2013, 2014, Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh năm 2015 và được nhiều giấy khen, bằng khen của các cấp, ngành. Hưng Vũ  

Xây dựng nông thôn mới ở xã San Thàng (Lai Châu)

TĐKT - Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), bộ mặt nông thôn xã San Thàng, TP Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã có nhiều đổi thay, tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức, ý thức của người dân trong việc thực hiện tiêu chí xây dựng NTM, vai trò chủ thể của cộng đồng cư dân nông thôn đã được nâng lên, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội của xã. Đến San Thàng hôm nay, được đặt chân đi trên những con đường bê tông rộng rãi, sạch sẽ, hai bên nhà cửa mọc lên san sát sẽ cảm nhận rõ hơn những đổi thay đó. Với 11 bản, 5 dân tộc, trên 1.200 hộ sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, trình độ dân trí không đồng đều; đến cuối năm 2016 thu nhập bình quân của mỗi người dân trên địa bàn xã đã đạt 27 triệu đồng/người/năm. Tuy thu nhập chưa phải là cao nhưng đối với một xã vùng cao, còn gặp khó khăn trong lao động sản xuất thì đây là một sự nỗ lực rất lớn của chính quyền địa phương và người dân xã San Thàng. Ông Hoàng Chí Tình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã San Thàng, TP Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho biết: được công nhận danh hiệu xã đạt chuẩn nông thôn mới là cả một quá trình nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã San Thàng. Tuyên truyền vận động luôn song hành Triển khai chương trình nông thôn mới từ năm 2011, xác định công tác tuyên truyền, vận động là bước đi đầu tiên, quan trọng, xã thường xuyên tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung, về chương trình xây dựng nông thôn mới nói riêng, nhằm quán triệt tới toàn thể nhân dân nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa của chương trình. Đồng thời phổ biến tới nhân dân nắm được 19 tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, nêu rõ những việc Nhà nước đầu tư hỗ trợ và những nội dung công việc bản và nhân dân thực hiện, những tiêu chí còn thấp; triển khai công bố Quy hoạch và Đề án xây dựng nông thôn mới đã được UBND thành phố phê duyệt để nhân dân biết, thực hiện; triển khai và huy động nhân dân tham gia thực hiện các nội dung công việc theo đề án đã được phê duyệt. Nhân dân xã San Thàng, Lai Châu góp công làm đường giao thông nông thôn   Từ năm 2011 đến nay, toàn xã đã tổ chức được gần 10 lớp tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực cho hơn 600 lượt cán bộ làm công tác xây dựng NTM từ cấp xã và các thôn, bản. Tổ chức các hội thi, hội thảo chủ đề về xây dựng NTM với nhiều nội dung phong phú; cấp phát 300 cuốn thông tin Nông dân Lai Châu, “ Sổ tay tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới”; 3000 tờ rơi, 200 pa nô, áp phích và các băng rôn khẩu hiệu trên địa bàn tuyên truyền trên các tuyến đường, trung tâm thôn, xã. Thông qua phong trào thi đua, xã đã vận động các tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm ủng hộ được gần 1 tỷ đồng và 3 phòng học; nhân dân đã hiến 2000 m2 đất và 1500 ngày công lao động, 200 m3 cát, đá, sỏi ... góp phần đưa cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã đi vào hoàn thiện. Đáng chú ý, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, mạng lưới giao thông nông thôn của San Thàng nhanh chóng được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân sinh hoạt và lao động sản xuất. Hiện xã có trên 15 km đường giao thông nội đồng mở mới do nhân dân hiến đất; trên 45 km đường nội bản được cứng hóa bê tông do nhà nước và nhân dân cùng làm; kiên cố trên 12 km kênh mương thủy lợi. Xã đầu tư lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng dọc trục đường quốc lộ 4D – khu vực bản mới, bản Trung Tâm và dọc trục đường đi ngã ba Duy Phong đến bản Tả Xin Chải I; bản Lò Suối Tủng; Chin Chu Chải, San Thàng 1. Bên cạnh đó, San Thàng xác định rõ tầm quan trọng của việc phát triển y tế, văn hóa, giáo dục trên địa bàn. Bên cạnh đầu tư xây dựng mới 1 nhà hiệu bộ, 14 phòng học, 19 phòng chức năng, sửa chữa nâng cấp 6 phòng học cũ; mở rộng khuân viên bãi tập, công trình phụ trợ, đầu tư trang thiết bị dạy và học tại các trường đảm bảo có 4/6 trường đạt trường chuẩn quốc gia mức độ 1..., xã còn tích cực tuyên truyền vận động nhân dân đưa con em đến trường, duy trì phổ cập trung học sơ sở, tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. Đến nay, xã có 6/6 trường đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất trường học và có 4 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, thông qua đó đã hoàn thành tiêu chí số 5 về trường học. Ngoài ra, xã triển khai xây dựng 4 nhà văn hóa bản, sửa chữa, nâng cấp 6 nhà văn hóa. Đến hết năm 2017, toàn xã có 11/11 bản có nhà văn hóa; đầu tư nâng cấp thêm 3 đường nước sinh hoạt với tổng chiều dài gần 7000 m. Đến nay có 100% hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân Bên cạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, San Thàng xác định việc phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân là yếu tố then chốt để xây dựng nông thôn mới thành công. Thông qua nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, bước đầu trên địa bàn xã đã từng bước hình thành các vùng sản xuất tập trung: vùng sản xuất rau xanh tập trung tại bản khu vực Duy Phong gồm bản Séo Xin Chải, Thành Công, San Thàng 2 với quy mô trên 15 ha; vùng sản xuất hoa tại bản San Thàng 2; vùng cây ăn quả có múi bản Lò Suối Tủng trên 30 ha; vùng nuôi trồng thủy sản, trang trại chăn nuôi gia súc gia cầm tại bản Lò Suối Tủng, Phan Lìn và khu vực Bãi Đông; vùng nguyên liệu chè trên 200 ha... Hiện nay, xã đang triển khai mô hình thâm canh lúa Tẻ dâu tại cánh đồng Can Hồ, Lùng Than với quy mô 60 ha. Cùng với đó, San Thàng tích cực huy động nhân dân đẩy mạnh sản xuất thâm canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất. Nhờ đó, đến nay diện tích sản xuất tăng vụ trên địa bàn xã tăng từ 50 ha (năm 2010) lên trên 300 ha. Đồng thời, cơ bản phương thức sản xuất của nhân dân trong xã đã thay đổi, góp phần tăng thu nhập cho người dân từ 9,5 triệu đồng/người/năm vào năm 2010 tăng lên 27 triệu đồng/người/năm vào cuối năm 2016; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm rõ rệt. San Thàng vinh dự trở thành địa phương đầu tiên của tỉnh Lai Châu cán đích xây dựng nông thôn mới năm 2014, được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen và Cờ thi đua. Năm 2015 xã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen vì có thành tích tiêu biểu trong phong trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới".  Ông Hoàng Chí Tình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã San Thàng khẳng định: thành quả hôm nay của San Thàng được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Đó là động lực để chính quyền và nhân dân chúng tôi tiếp tục phấn đấu duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí trong thời gian tới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Mai Thảo

Hiệu quả xây dựng nông thôn mới thành công từ xã Tân Sơn

TĐKT - Sau hơn 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), xã Tân Sơn (TP Pleiku, tỉnh Gia Lai) đã “thay da, đổi thịt” hàng ngày và vinh dự đón bằng công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Xã Tân Sơn nằm về phía Bắc của TP Pleiku, có diện tích tự nhiên 864,633 ha. Toàn xã có 1.350 hộ gia đình với 5.269 nhân khẩu; gồm có 7 thôn, làng (4 thôn, 3 làng). Ngay khi bắt tay thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Đảng ủy xã Tân Sơn đã thành lập Ban Chỉ đạo do Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban. Đồng thời, UBND xã Tân Sơn cũng thành lập Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới, Ban Giám sát xây dựng nông thôn mới của xã. Hàng năm, Đảng ủy, UBND xã thường xuyên củng cố, kiện toàn nhân sự Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý, Ban Giám sát xây dựng nông thôn mới của xã nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, căn cứ các văn bản hướng dẫn của cấp trên và thực trạng các tiêu chí của địa phương, hàng năm, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới xã Tân Sơn đều xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện, xác định rõ những việc làm cụ thể trong năm. Từ đó, huy động sự hưởng ứng của nhân dân địa phương và các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn cùng chung tay, góp sức xây dựng Tân Sơn trở thành xã nông thôn mới. Bộ mặt xã Tân Sơn ngày một đổi thay Kết quả, trong 5 năm (2011 - 2016), xã Tân Sơn đã tổ chức 43 đợt tuyên truyền về các tiêu chí xây dựng nông thôn mới cho 3.250 lượt người dân trên địa bàn; triển khai đề án và lộ trình xây dựng nông thôn mới hàng năm; các kế hoạch giảm nghèo, vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế, vận động nhân dân làm đường giao thông nông thôn và các công trình phúc lợi xã hội. Vận động nhân dân phát triển trồng trọt, chăn nuôi, tập trung vào các cây trồng dài ngày có hiệu quả kinh tế cao: cà phê, hồ tiêu… Huy động mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng như làm nhà ở kiên cố, tường rào, công trình phụ khép kín đảm bảo hợp vệ sinh; phát quang đường làng, ngõ xóm … Tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới ở xã Tân Sơn trên 104,5 tỷ đồng. Trong đó, vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là hơn 19,4 tỷ đồng; vốn nhân dân đóng góp trên 77,6 tỷ đồng;  vốn tín dụng, doanh nghiệp là hơn 7 tỷ đồng; vốn từ các nguồn tài trợ khác là 407 triệu đồng. Hiện nay, 100% các đường trục xã, liên xã đã được nhựa hóa; 79% các đường trục thôn, xóm đã được cứng hóa; 67,8% đường ngõ, hẻm đã được cứng hóa; 100% hộ sử dụng điện thường xuyên từ lưới điện quốc gia; 88,1% hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng (1.190/1.350 nhà), không có nhà tạm, nhà dột nát… Theo thống kê năm 2016 thu nhập bình quân đầu người của xã là 29,7 triệu đồng/năm. Mức thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn xã đã vượt so với quy định. Hiện nay trên địa bàn xã có 85 hộ nghèo, chiếm 6,3% tổng số hộ; người làm việc trong độ tuổi lao động là 96%; người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 74,02%; các hộ trên địa bàn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia là 100%. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ ấy, hiện nay, đời sống của nhân dân ổn định và từng bước phát triển, thu nhập của nhân dân tăng lên hàng năm. Bộ mặt của xã có những thay đổi rõ rệt khi các chính sách xã hội được quan tâm giải quyết. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Chia sẻ kinh nghiệm thành công từ phong trào xây dựng nông thôn mới, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Sơn Ksor Nam cho biết: ngay khi bước vào chương trình xây dựng nông thôn mới, toàn hệ thống chính trị cùng bắt tay vào cuộc và tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển trồng trọt, chăn nuôi, đầu tư vào cây trồng dài ngày có hiệu quả kinh tế cao; huy động mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng như làm nhà ở kiên cố, xây dựng tường rào, công trình phụ khép kín đảm bảo hợp vệ sinh. Đồng thời, phát triển sâu rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được nhân dân đồng lòng hưởng ứng. Các phong trào hành động diễn ra sôi nổi. Đây chính là những tiền đề quan trọng, là cơ sở để địa phương đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, từng bước đưa xã nhà ngày càng phát triển. Nhờ sự đồng lòng, quyết tâm cao của cán bộ, nhân dân trong xã, Tân Sơn ngày một đổi mới và tiếp tục phấn đấu, nỗ lực vượt qua những khó khăn phía trước để phát triển giàu mạnh hơn nữa. La Giang

Hành trình đạt chuẩn nông thôn mới tại xã Gio Hòa

TĐKT - Gio Hòa là một xã thuộc vùng kinh tế mới miền Tây của huyện Gio Linh, có xuất phát điểm thấp, khi mới xây dựng nông thôn mới (NTM) xã chỉ đạt 5/19 tiêu chí. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn xã, đến nay Gio Hòa đã trở thành một trong những điển hình xây dựng NTM, đạt 19/19 tiêu chí (năm 2016) và đã được UBND tỉnh Quảng Trị công nhận là xã đạt chuẩn NTM. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân Mặc dù không phải là xã điểm về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM của huyện, nhưng xã Gio Hòa luôn tự lực, tự cường, sáng tạo tìm hướng đi riêng phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương để quyết tâm về đích 19 tiêu chí xây dựng NTM giai đoạn 2011 - 2016. Mô hình trồng cây tiêu ở xã Gio Hòa Xác định phát triển sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao thu nhập cho người dân, xã Gio Hòa đã tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi, cải tạo vườn tạp, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào nông nghiệp; đẩy mạnh hoạt động thương mại, dịch vụ, góp phần nâng cao thu nhập, đời sống của người dân. Vốn là một xã trung du gò đồi đất đỏ bazan nằm ở miền tây của huyện Gio Linh, Gio Hòa rất thuận tiện cho việc phát triển các loại cây công nghiệp như hồ tiêu, cao su, cây ăn quả. Nắm bắt được những thuận lợi mà tạo hóa ban tặng cho vùng đất và con người nơi đây, chính quyền xã tích cực phối hợp với các đơn vị thường xuyên mở các lớp đào tạo nghề cho lao động tại địa phương; mở các lớp tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc cây hồ tiêu, cao su, phòng bệnh cho gia súc gia cầm, sử dụng thuốc thú y, kỹ thuật chăn nuôi lợn, kỹ thuật nuôi cá nước ngọt… nhằm trang bị cho bà con kiến thức để mạnh dạn phát triển các mô hình kinh tế phù hợp, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho lao động địa phương. Nhờ đó, hiện nay trên địa bàn toàn xã có trên 90% lao động có việc làm thường xuyên. Song song với đó, xã Gio Hòa tập trung lựa chọn phát triển các loại cây, con phù hợp. Trong trồng trọt, Gio Hòa thực hiện chương trình cải tạo vườn tạp thành những vùng trồng cây tập trung. Từ 6,5 ha diện tích trồng hồ tiêu năm 2011, đến năm 2016 diện tích tiêu toàn xã đã tăng lên 15,5 ha;  13 ha trồng cây bơ (năm 2011) đã mở rộng gần 27 ha (năm 2015);  80 ha cao su (năm 2011) đã mở rộng thành gần 126 ha (năm 2016)… Ngoài ra, 6 năm qua xã quy hoạch vùng trồng tre măng bát độ và một số loại cây ăn quả mang lại thu nhập lớn cho nhiều gia đình với mức thu nhập hàng năm đạt 90 - 100 triệu đồng/mô hình. Cùng với quy hoạch trồng cây, Gio Hòa phát triển các mô hình chăn nuôi phù hợp: duy trì mô hình nuôi bồ câu pháp, nhím, chồn hương mang lại thu nhập bình quân khoảng 100 - 120 triệu đồng/ mô hình. Ngoài ra, phát triển thêm các mô hình nuôi cá chình lồng, mô hình laisin, zebu hóa đàn bò, mô hình nuôi bò nhốt gia trại, nuôi lợn bán công nghiệp, mô hình nuôi cá nước ngọt trên lòng hồ Hà Thượng… Kết quả, nhờ chọn và phát triển phù hợp các mô hình kinh tế, đời sống của nhân dân trong xã ngày càng nâng cao.  Tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm rõ rệt, từ 28,3 %  (năm 2011 ) giảm xuống còn 4,3% (năm 2016). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 9,1 triệu đồng/người/năm (năm 2011)  lên  26 triệu đồng năm 2016. Khẳng định sức mạnh từ phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” Về  xã Gio Hòa hôm nay, người ta không khỏi ngỡ ngàng bởi nó như khoác lên mình chiếc áo mới. Từ một địa phương gặp nhiều khó khăn, hôm nay hệ thống điện, đường, trường, trạm được quy hoạch, xây dựng một cách đồng bộ. Những ngôi nhà tạm bợ năm nào đều đã được làm mới, khang trang, sạch sẽ. Người dân phấn khởi, thi đua lao động, sản xuất, xây dựng quê hương. Nhân dân xã Gio Hòa tích cực tham gia bảo vệ môi trường Ông Lê Thanh Quý, Chủ tịch UBND xã Gio Hòa cho biết: có được thành quả đó là nhờ sự đồng thuận, hưởng ứng tích cực của cả hệ thống chính trị và người dân. Là một đơn vị cấp xã tuy còn nhiều khó khăn nhưng Gio Hòa lại triển khai rất tốt việc huy động nguồn lực xây dựng NTM. Hơn 5 tỷ đồng do nhân dân đóng góp, cộng với 600 ngày công lao động phục vụ công tác chỉnh trang nông thôn, vệ sinh đường làng ngõ xóm; gần 3500 m2 đất hiến để làm đường giao thông nông thôn và sân tập thể thôn; hàng trăm cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao trị giá gần 300 triệu đồng chặt bỏ, di dời phục vụ cho nông thôn mới… Đó là những con số biết nói, cho thấy công cuộc xây dựng NTM được nhân dân đồng thuận và ủng hộ nhiệt tình. Tất cả các công trình, cơ sở hạ tầng xây dựng và sửa chữa trên địa bàn xã đều thấm đẫm những giọt mồ hôi của từng người dân, cán bộ, đảng viên trong xã. Từ nâng cấp hồ chứa Bàu Đưng, đến bê tông hóa kênh mương, xây dựng, chỉnh trang hệ thống các trường học, trạm y tế, nhà văn hóa;  xây dựng tuyến đường điện thắp sáng đường quê dài 4,5 km….đều có sự vào cuộc của chính quyền và nhân dân. Trên địa bàn, 5/5 thôn được công nhận danh hiệu làng văn hóa cấp huyện, trong đó 1 thôn được công nhận làng văn hóa xuất sắc cấp tỉnh. Số hộ gia đình văn hóa đạt tỷ lệ 88%. Các thôn đều đã phát động ra mắt khu dân cư an toàn về an ninh, trật tự… Tuy thời gian triển khai chương trình NTM trên địa bàn xã Gio Hòa chưa dài nhưng kết quả đạt được thực sự đáng ghi nhận. Năm 2016, xã đạt 19/19 tiêu chí. Mới đây, chính quyền và nhân dân xã Gio Hòa vinh dự đón nhận xã đạt chuẩn NTM. Đây là niềm tự hào đồng thời là động lực để chính quyền và nhân dân tiếp tục nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết, phát huy tốt những thế mạnh, tiềm năng, nguồn lực của địa phương để phấn đấu xây dựng NTM kiểu mẫu. Hưng Vũ  

Nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới ở Thanh Trì (Hà Nội)

TĐKT - Sau Đan Phượng và Đông Anh, mới đây, Thanh Trì là huyện thứ ba của TP Hà Nội vinh dự được Thủ tướng Chính phủ công nhận là huyện nông thôn mới. Chính quyền và nhân dân nơi đây đang nô nức, phấn khởi như bước sang một trang mới trong tiến trình phát triển, tiến tới xây dựng Thanh Trì trở thành 1 trong những quận tiêu biểu của TP Hà Nội đến năm 2020. Huyện nông thôn mới thứ 3 của TP Hà Nội Vốn là huyện ngoại thành nằm trong quy hoạch đô thị trung tâm mở rộng của Thủ đô Hà Nội, có 15 xã, 1 thị trấn, huyện Thanh Trì bắt tay vào xây dựng nông thôn mới từ năm 2012. Đến nay, huyện đã có 15/15 xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt tỷ lệ 100%. Tổng vốn đã bố trí thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2016 của huyện là 2.360 tỷ đồng. Về phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, hàng năm, huyện đã chủ động bố trí kinh phí hỗ trợ phát triển kinh tế với tổng số tiền trong 5 năm là 23,61 tỷ đồng. Hỗ trợ đầu tư 92 máy phục vụ cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Xây dựng, phát huy hiệu quả vùng trồng rau an toàn với diện tích 140 ha tại Yên Mỹ, Duyên Hà. Xây dựng thành công chuỗi liên kết thực phẩm rau – thịt trên địa bàn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thanh Trì vừa được trao Bằng đạt chuẩn huyện nông thôn mới Bên cạnh đó, huyện cũng đã thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa gần 817 ha đất nông nghiệp, đạt 100% kế hoạch. Hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng được ưu tiên đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất. Vùng sản xuất tập trung đã bước đầu được hình thành, đem lại hiệu quả cao: vùng cây ăn quả tập trung (các xã: Vạn Phúc, Yên Mỹ); lúa tập trung (các xã: Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng); rau an toàn (các xã: Yên Mỹ, Duyên Hà); vùng nuôi trồng thủy sản (các xã: Đông Mỹ, Tứ Hiệp, Đại Áng)... 38 trang trại trên địa bàn huyện hoạt động hiệu quả, trong đó có 12 trang trại tổng hợp. Trung tâm phát triển cụm công nghiệp huyện hoạt động khá hiệu quả với 33 doanh nghiệp, thu hút trên 4.000 lao động. Huyện đang từng bước đưa Cụm công nghiệp Tân Triều vào hoạt động. 3 làng nghề truyền thống là dệt Triều Khúc (Tân Triều); bánh chưng, bánh dày Tranh Khúc (Duyên Hà); miến bánh đa Phú Diễn (Hữu Hòa) được thành phố công nhận, bước đầu đã khẳng định được thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 35 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 2 lần so với năm 2010. Phấn đấu hết năm 2017 là 38 triệu đồng/người/năm và đến năm 2020 đạt 50 triệu đồng/người/năm. Các hộ nghèo trên địa bàn huyện đều được quan tâm hỗ trợ để ổn định cuộc sống đào tạo nghề, giới thiệu việc làm để từng bước thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo hiện giảm còn dưới 2%. Tiếp tục phấn đấu nâng cao các tiêu chí nông thôn mới Ngay từ khi mới bắt đầu, huyện Thanh Trì xác định nông thôn mới là chương trình trọng điểm của huyện nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn theo hướng đô thị. Được công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới là niềm tự hào to lớn, tuy nhiên chính quyền và nhân dân huyện Thanh Trì xác định đây chỉ là thành công bước đầu, bởi phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, lâu dài. Thanh Trì sẽ quyết liệt duy trì, cải thiện điều kiện môi trường nông thôn Thời gian tới, huyện Thanh Trì sẽ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xây dựng nông thôn mới; huy động tối đa các nguồn lực, nâng cao chất lượng các tiêu chí nhằm giữ vững danh hiệu huyện, xã đạt chuẩn nông thôn mới; đồng thời phấn đấu xây dựng xã, huyện nông thôn mới kiểu mẫu gắn với phát triển huyện đồng bộ theo hướng đô thị. Bên cạnh đó, huyện tiếp tục chỉ đạo, khuyến khích, ưu tiên hỗ trợ từ ngân sách cho các dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo quy mô tập trung và vận dụng linh hoạt chính sách hỗ trợ của Trung ương và thành phố để phát triển sản xuất nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập cho người dân. Đặc biệt, huyện sẽ quyết liệt chỉ đạo duy trì, cải thiện điều kiện môi trường nông thôn. Đối với môi trường trong khu dân cư, huyện sẽ quy hoạch và xây dựng đồng bộ các điểm tập kết rác, quy định giờ vận chuyển không để rác tồn đọng qua ngày; chỉ đạo các xã xây dựng kế hoạch tổng thể chỉnh trang, trồng hoa, cây xanh trên toàn hệ thống giao thông nông thôn. Mỗi năm, lựa chọn ít nhất một ao, hồ trong khu dân cư để kêu gọi xã hội hóa cải tạo môi trường, nạo vét, kè bờ, làm lan can, đường dạo và trồng hoa, cây xanh chống lấn chiếm, tạo khu vui chơi cho cộng đồng. Đối với môi trường các dòng sông, huyện duy trì ra quân tổng vệ sinh môi trường các tuyến sông Nhuệ, sông Tô Lịch. Đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các hộ gia đình dọc hai bên bờ sông cam kết không xây dựng các công trình vi phạm, tập kết vật tư, vật liệu; cắm cọc tiêu, làm đường gom, tăng cường kiểm tra xử lý vi phạm, tổng vệ sinh, trồng hoa cây xanh dọc tuyến kênh trên địa bàn huyện. Ngoài ra, môi trường tại khu công nghiệp, làng nghề sẽ được quan tâm sâu sắc hơn. Huyện sẽ chỉ đạo các đơn vị quản lý rà soát nâng cấp các trạm xử lý nước thải tập trung, chấp hành nghiêm quy chế vận hành; phối hợp tốt với các sở, ngành của thành phố đẩy nhanh tiến độ thi công nhà máy xử lý nước thải Yên Xá và di dời các nhà máy, cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường như Nhà máy Pin, Phân lân Văn Điển.... Thục Anh

Trang