Điển hình tiên tiến

Phát huy truyền thống Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào nhiệm vụ xây dựng Binh đoàn 12 phát triển vững mạnh

TĐKT - Suốt 16 năm đương đầu với cuộc chiến tranh ngăn chặn vô cùng ác liệt với hy sinh gian khổ không sao kể xiết, Bộ đội Trường Sơn đã trở thành “Một lực lượng gang thép, một tập thể anh hùng, hoàn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc sứ mệnh mà Đảng và nhân dân đã giao phó; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam - một nhân tố quyết định để đưa sức mạnh cả nước vào cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược đi đến thắng lợi hoàn toàn”. Công cuộc mở đường, chiến đấu, chi viện chiến lược của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh là một kỳ tích của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX; một điểm sáng, một dấu son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Thời gian sẽ lùi sâu về quá khứ nhưng huyền thoại về đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẫn mãi mãi ngời sáng trong trang sử oanh liệt của dân tộc ta như một thiên anh hùng ca bất tử, tô thắm truyền thống đánh giặc, giữ nước của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, của dân tộc Việt Nam anh hùng; tiếp thêm sức mạnh cho mọi thế hệ trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và quá trình xây dựng, trưởng thành của Binh đoàn 12 - Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn nói riêng. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thăm Bộ đội Trường Sơn (ảnh tư liệu) Sau khi đất nước thống nhất, tháng 7 năm 1975, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn chuyển sang làm kinh tế. Đầu năm 1976, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất Bộ đội Trường Sơn và Bộ Tư lệnh Công binh thành Bộ Tư lệnh Công trình. Đến tháng 3 năm 1976, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế thay cho Bộ Tư lệnh công trình. Tháng 10 năm 1977, Binh đoàn 12 được thành lập trên cơ sở lực lượng chủ yếu của Đoàn 559 chuyên làm cầu đường trong chiến tranh và được kế thừa truyền thống Bộ đội Trường Sơn anh hùng. Nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ bản công trình cầu đường, xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi trên các vùng chiến lược quan trọng của đất nước, nhằm phát triển kinh tế - xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh. Phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ, bước vào mặt trận mới xây dựng kinh tế đất nước kết hợp với quốc phòng, với tinh thần cách mạng tiến công, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng Binh đoàn 12 lại có mặt ở những nơi khó khăn gian khổ, vùng sâu vùng xa, trải dài trên địa bàn 21 tỉnh, thành trong nước và 5 tỉnh của nước bạn Lào. Những năm đầu, nhiệm vụ chủ yếu của Binh đoàn là xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn với tổng chiều dài 1.920km, góp phần quy hoạch lại dân cư, phát triển kinh tế các địa phương dọc theo dãy Trường Sơn và Tây Nguyên. Năm 1978, trước yêu cầu phòng thủ đất nước ở phía Bắc, Binh đoàn tổ chức lực lượng xây dựng Quốc lộ 279, đường vành đai chiến lược nối thông các tỉnh biên giới phía Bắc từ Qảng Ninh đến Lai Châu dài hơn 1.000km, góp phần đảm bảo cơ động lực lượng phương tiện làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cùng với nhiệm vụ trên, Binh đoàn tham gia xây dựng hàng trăm công trình trọng điểm của Nhà nước như: Xây dựng 6 tuyến đường sắt; xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình, thủy điện Đray Hling, mỏ Apatít (Lào Cai), thiếc Quỳ Hợp, khai thác than (Quảng Ninh), trồng cà phê (Tây Nguyên)…. Vốn đã gắn bó với nhân dân Lào từ nhiều năm trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ, sau khi ngừng tiếng súng, thực hiện Hiệp định được ký kết giữa hai nước, một số đơn vị của Binh đoàn tham gia xây dựng cơ bản 9 tuyến đường giao thông của Lào với tổng chiều dài hơn 260km; xây dựng một số công trình kinh tế, văn hóa, trụ sở làm việc của các cấp chính quyền; huy động hàng ngàn chuyến xe vận chuyển giúp bạn hàng ngàn tấn lương thực; phối hợp với địa phương đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn các tỉnh Trung và Hạ Lào, góp phần hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả của Đảng và Nhà nước ta. Đầu năm 1989, thực hiện sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế của cả nước, theo quyết định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn được thành lập trên cơ sở tổ chức biên chế các lực lượng của Binh đoàn 12; là doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng, tự hạch toán, tự trang trải. Từ đây đơn vị có 2 phiên hiệu: Binh đoàn 12 và Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12 sử dụng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn sử dụng trong giao dịch kinh tế). Đây là thời kỳ Binh đoàn đứng trước những khó khăn, thử thách mới trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường. Đơn vị không còn được bao cấp như trước đây, phải chuyển đổi hoàn toàn cơ chế hoạt động, thực sự bước vào hạch toán độc lập; tự lo việc làm thông qua phương thức đấu thầu là chủ yếu và tự đảm bảo đời sống cho hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên; nộp ngân sách Nhà nước theo quy định, bảo đảm cân đối, có lãi để tái sản xuất mở rộng. Trong khi đó thiết bị phần lớn đã cũ, không đồng bộ, cùng với những hạn chế về chuyên môn kỹ thuật và quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ trước đòi hỏi của cơ chế mới… Song, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Bộ đội Trường Sơn anh hùng, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng đã giúp cho Binh đoàn từng bước vượt qua được giai đoạn ban đầu đầy khó khăn thử thách của thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao. Qua 30 năm xây dựng kinh tế - quốc phòng (tự hạch toán); giá trị sản xuất không ngừng tăng trưởng (bình quân 15%/năm); sản xuất, kinh doanh đúng hướng, đúng Pháp luật Nhà nước và quy định của Bộ Quốc phòng, quy mô sản xuất được mở rộng; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách với Nhà nước, thu nhập bình quân người lao động bằng 1,4 - 1,6 lương quốc phòng; vốn được bảo toàn và phát triển, giữ gìn và tăng cường tiềm lực quốc phòng. Binh đoàn ngày càng vươn lên và khẳng định đứng vững trong cơ chế thị trường, khẳng định vị thế, uy tín của mình trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, đã tạo được những dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với những công trình tiêu biểu như: Thủy điện Hòa Bình, Thuỷ điện Sơn La, Lai Châu; Thuỷ điện Buôn Kốp, Buôn TuaSrah, Srêpốk3; thủy điện Thác Mơ mở rộng, đường dây 500kv; thủy lợi Hồ Tả Trạch (Thừa Thiên Huế); đường cao tốc Nội Bài - Bắc Ninh, Hà Nội - Thái Nguyên, Cầu Giẽ - Ninh Bình, TP Hồ Chí Minh - Trung Lương, TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Quốc lộ 1A đoạn Vinh - Đông Hà, Đông Hà - Quảng Ngãi; đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa, đường Tuần tra biên giới; cầu và đường dẫn cầu Bãi Cháy - Quảng Ninh, hầm đường bộ Hải Vân, quốc lộ 78 (Campuchia); Sân bay Vinh, Sân bay Buôn Ma Thuột, sân bay Savannakhet (Lào); xây dựng Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào Sông Hậu; kè biển khu Quân cảng Cam Ranh, Cảng hành khách Quốc tế Phú Quốc; Dự án Khu công nghệ cao Hòa Lạc và các dự án giao thông trọng điểm của Thành phố Hà Nội… Các công trình Binh đoàn tham gia xây dựng đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Vị thế và uy tín của Binh đoàn 12 - Tổng công ty xây dựng Trường Sơn ngày càng được nâng cao, giành được sự tín nhiệm của nhiều đối tác trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Cùng với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, Binh đoàn luôn thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, xây dựng các lữ đoàn dự bị động viên, thực hiện tốt nhiệm vụ của Binh đoàn công binh dự bị chiến lược của Bộ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ trong mọi tình huống. Với thành tích xây dựng kinh tế - quốc phòng từ 1989 đến nay, Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn và nhiều tập thể, cá nhân thuộc Binh đoàn được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý.   Chặng đường 42 năm (1977- 2019), Binh đoàn 12 cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện nhiệm vụ hàn gắn vết thương 30 năm chiến tranh do kẻ thù gây nên, đồng thời phải tiến hành chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Phát huy truyền thống Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh anh hùng, bất khuất trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), với tinh thần của người quân nhân cách mạng trong thời kỳ đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, người lao động Binh đoàn 12- Tổng công ty xây dựng Trường Sơn luôn mang hết tinh thần, nghị lực vượt qua bao khó khăn thử thách, khẳng định sự tồn tại và phát triển vững vàng của Binh đoàn. Bởi vậy, qua 42 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, đơn vị đã giành được nhiều thành tựu trên mọi phương diện, cả về nhiệm vụ quân sự quốc phòng, xây dựng kinh tế và làm nhiệm vụ quốc tế. Với tinh thần đoàn kết, bản lĩnh của người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam “Hy sinh không lùi bước, gian khổ không sờn lòng”, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, người lao động Binh đoàn 12 -Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn luôn phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Phát huy truyền thống Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn- Đường Hồ Chí Minh anh hùng, bất khuất, huyền thoại, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) và kết quả, kinh nghiệm trong xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng (1976-2019), Binh đoàn 12 -Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn tiếp tục đổi mới, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, giữ vững vai trò là doanh nghiệp mạnh của quân đội, góp phần tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Để thực hiện chủ trương trên, cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn tiếp tục phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh anh hùng, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong giai đoạn mới, trong đó tập trung vào những nội dung, biện pháp chủ yếu sau:   Một là: Tiếp tục quán triệt nhận thức sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội; nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng của Tổng công ty; sản xuất kinh doanh có hiệu quả là nhiệm vụ hàng đầu, xây dựng Đảng là then chốt; gắn hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị - xã hội; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước và không ngừng nâng cao thu nhập, đời sống người lao động. Hai là: Kiên trì định hướng lấy xây dựng cơ bản là chủ yếu, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, ngành nghề và công trình xây dựng, trong đó xây dựng công trình giao thông vận tải (cầu, đường, sân bay, bến cảng, thủy điện, thủy lợi) là trọng tâm, mở rộng và nâng cao năng lực xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp, xây dựng nhà cao tầng, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, nhà máy lớn... Ba là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; thực hiện tốt công tác chính sách xã hội; chính sách Quân đội và hậu phương quân đội, phong trào đền ơn đáp nghĩa; tích cực tham gia phong trào xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn đóng quân. Bốn là: Thực hiện tốt sự chỉ đạo của Chính phủ, của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng về cơ cấu lại, đổi mới cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; tăng cường quản trị doanh nghiệp; đầu tư xây dựng lực lượng, đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại; đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước tạo sức mạnh cạnh tranh, xây dựng Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn trở thành doanh nghiệp kinh tế quốc phòng mạnh của Quân đội, đủ sức cạnh tranh, đứng vững trong cơ chế thị trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng Đoàn 559 - Bộ đội Trường sơn - Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường sơn luôn phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, trung thành với Đảng, với Tổ Quốc và nhân dân; đoàn kết, mưu trí, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu; tích cực, chủ động, sáng tạo trong lao động sản xuất và công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trọn vẹn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại tá Vũ Phúc Hậu (Phó Tư lệnh - Bí thư Đảng ủy Binh đoàn 12)

Hiệu quả từ mô hình “Làm theo lời Bác” ở Phú Thịnh

TĐKT - Được thành lập từ tháng 9/2018, câu lạc bộ (CLB) “Làm theo lời Bác” của Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) phường Phú Thịnh (thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước) đã phát huy hiệu quả việc học tập và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. CLB trao “Hũ gạo tình thương” cho người nghèo Bà Bùi Thị Bạch Mai, Chủ tịch Hội LHPN phường Phú Thịnh, chủ nhiệm CLB cho biết: CLB thành lập có 20 thành viên, đều là những hội viên phụ nữ nòng cốt của phường. Nhiều cá nhân của CLB là điển hình trong học tập và làm theo lời Bác như bà Đỗ Thị Huệ, Nguyễn Thị Lũy, Hoàng Thị Quy. Sau khi được thành lập, CLB đã phát huy hiệu quả việc học và làm theo Bác. CLB thường xuyên tuyên truyền vận động, giáo dục cán bộ, hội viên, phụ nữ và nhân dân giữ gìn, phát huy phẩm chất đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam, tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Nổi bật trong hoạt động của CLB chính là mô hình “Nồi cháo từ thiện vì bệnh nhân nghèo”. Với mô hình này, vào mỗi thứ ba hàng tuần, chị em trong CLB đến Bệnh viện Đa khoa Bình Long phát cháo cho bệnh nhân nghèo. Theo bà Mai, “Nồi cháo từ thiện vì bệnh nhân nghèo” ra đời từ tâm nguyện giản đơn từ hội viên câu lạc bộ muốn giúp đỡ người bệnh có hoàn cảnh khó khăn vơi bớt một phần gánh nặng, để họ dành tiền điều trị bệnh. Đến nay, mô hình đã thực hiện được 70 buổi với 10.500 suất cháo trị giá 110 triệu đồng. Nồi cháo từ thiện vì bệnh nhân nghèo được duy trì đều đặn vào thứ 3 hàng tuần Với tinh thần “lá lành đùm lá rách” mô hình “Nồi cháo từ thiện vì bệnh nhân nghèo” luôn được duy trì và hoạt động đều đặn hàng tuần nhờ sự tham gia đóng góp nhiệt tình về công sức và tiền của các thành viên trong CLB. Điển hình là bà Đỗ Thị Huệ (Bí thư Chi bộ khu phố Phú Hưng), bà Nguyễn Thị Lũy (Bí thư Chi bộ khu phố Phú Thuận), bà Hoàng Thị Quy (Chi hội trưởng chi hội Phú Thuận)… Bên cạnh những hoạt động tích cực từ mô hình “Nồi cháo từ thiện vì bệnh nhân nghèo”, CLB còn phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ phường phát động trong trào “Hũ gạo tình thương - Vì người nghèo” dịp Lễ Vu lan, thu được 2.350 kg gạo và 110 phần quà trị giá 50,5 triệu đồng. Đồng thời tổ chức 3 đợt thăm, tặng 183 phần quà tại Trung tâm bảo trợ xã hội huyện Lộc Ninh, với tổng giá trị 36 triệu đồng; tặng quà cho các Trung tâm bảo trợ xã hội huyện Tân Hiệp, Bình Đức với tổng giá trị 75 triệu đồng; tặng quà nhân dịp tết trung thu, ngày thương binh - liệt sĩ với tổng số tiền 5,5 triệu đồng CLB cũng tổ chức chương trình kết nối yêu thương, tặng 70 phần quà cho hội viên, phụ nữ hoàn cảnh khó khăn tổng trị giá 14 triệu đồng. Vận động 12 triệu đồng tặng 1 hội viên khó khăn đột xuất. Với sự hưởng ứng của người dân, cũng như sự tích cực của các thành viên, CLB “Làm theo lời Bác” đã góp phần đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên địa bàn phường Phú Thịnh ngày càng đi vào chiều sâu, tạo sức lan toả sâu rộng. Đây có thể coi là một mô hình điểm để học tập và nhân rộng. Tuệ Minh

Trao giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội lần thứ 19

TĐKT - Sáng 15/5, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ tổng kết, trao Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo (TTST) trong Quân đội lần thứ 19, năm 2018. Dự buổi lễ, có: Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn Phương Nam, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam… Đại tướng Lương Cường trao Bằng khen của Bộ Quốc phòng tặng các tập thể có thành tích xuất sắc trong tổ chức, tham gia Giải thưởng TTST trong Quân đội lần thứ 19 Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội được Bộ Quốc phòng tổ chức hàng năm, nhằm động viên phong trào tuổi trẻ nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng kiến, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động thực tiễn trong quân đội, phát hiện tài năng trẻ để đào tạo, bồi dưỡng; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị và toàn quân. Giải thưởng TTST trong Quân đội lần thứ 19 có 501 công trình của 978 tác giả, thuộc 38 đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham gia trên các lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn quân sự, vũ khí đạn, cơ khí, động lực, điện tử - viễn thông, công nghệ thông tin, hoá học - vật liệu, giáo dục, đào tạo, huấn luyện, hậu cần, y, dược học quân sự… Số lượng công trình, lĩnh vực nghiên cứu và đơn vị tham dự giải thưởng ngày càng tăng (tăng 57 công trình và 3 đơn vị tham gia so với kỳ trao giải thứ 18), chất lượng các công trình ngày càng cao; đối tượng tham dự được mở rộng, điều đó khẳng định sức sống và sự lan tỏa của Giải thưởng ngày càng mạnh mẽ trong toàn quân.. Phát biểu tại buổi lễ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam ghi nhận những nỗ lực của tuổi trẻ Quân đội, bày tỏ sự tin tưởng đóng góp của thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp khoa học công nghệ nói riêng và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung sẽ góp phần hoàn thành tốt sứ mệnh được Đảng, nhân dân tin tưởng giao phó, xứng đáng với mong ước của Bác Hồ. Phó Thủ tướng Chính phủ mong muốn, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho lực lượng khoa học nghiên cứu, phát triển; đồng thời tích cực chia sẻ thông tin, kết hợp nghiên cứu giữa quốc phòng với dân sự… để ngày càng có nhiều công trình khoa học công nghệ tiêu biểu, góp phần xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đức Anh

Trao giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam và WIPO năm 2018

TĐKT - Tối 14/5, Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức Lễ Tổng kết và trao giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam - WIPO năm 2018. Tới dự, có các Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh. Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam được tổ chức nhằm tôn vinh các nhà khoa học, các nhà công nghệ đã có những công trình có giá trị khoa học, kinh tế - xã hội lớn đã và đang được áp dụng có hiệu quả tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Trong nhiều năm qua, giải thưởng sáng tạo KHCN Việt Nam đã thực sự trở thành một sự kiện quan trọng đối với tất cả những người quan tâm đến KHCN. Nhóm nghiên cứu được trao giải nhất Giải thưởng VIFOTEC năm 2018 Giải thưởng Sáng tạo KHCN Việt Nam 2018 có 101 công trình tham dự chia theo 6 lĩnh vực. Hội đồng Giám khảo đã xem xét, đánh giá các công trình và chọn trao giải thưởng cho 45 công trình bao gồm: 4 giải nhất, 11 giải nhì, 14 giải ba, 16 giải khuyến khích. Nhóm nghiên cứu được trao giải WIPO năm 2018 Trong đó, 4 công trình đạt giải nhất VIFOTEC 2018 là: Công trình "Nghiên cứu cải tiến xe thiết giáp bánh lốp BTR - 152 thành xe thiết giáp cứu thương phục vụ nhiệm vụ gìn giữ hòa bình" của  TS. Trần Hữu Lý - Viện Kỹ thuật cơ giới quân sự - Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng; công trình "Nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gien kháng kháng sinh" của PGS. TS. Lê Hữu Song - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - Bộ Quốc phòng làm chủ nhiệm; công trình "Nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất coppha nhựa khung thép" của tác giả Nguyễn Xuân Thủy - Công ty CP thiết kế và phát triển công nghệ xây dựng SPAN; công trình "Nghiên cứu thu hồi giàn chống và các thiết bị trong lò chợ cơ giới hóa đồng bộ sử dụng cáp thép kết hợp với lưới thép thay thế cho các phương pháp thu hồi truyền thống đảm bảo an toàn, hiệu quả tại Công ty CP than Hà Lầm - Vinacomin" của ThS. Trần Mạnh Cường - Công ty CP than Hà Lầm – Vinacomin. Đặc biệt, 2 công trình: "Nghiên cứu cải tiến xe thiết giáp bánh lốp BTR - 152 thành xe thiết giáp cứu thương phục vụ nhiệm vụ gìn giữ hòa bình" của TS. Trần Hữu Lý - Viện Kỹ thuật cơ giới quân sự - Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng; công trình "Nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gien kháng kháng sinh" của PGS. TS. Lê Hữu Song - Bệnh viện Trung ương quân đội 108 - Bộ Quốc phòng đã được Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới trao giải WIPO 2018. Tại buổi lễ, 8 cá nhân chủ nhiệm và đồng chủ nhiệm của 4 công trình đạt giải Nhất VIFOTEC 2018 đã được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. PGS.TS Lê Hữu Song và TS. Ngô Tất Trung (Bệnh viện 108) được Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ Vinh dự là chủ nhiệm một trong bốn công trình nhận giải nhất VIFOTEC và WIPO 2018, PGS. TS. Lê Hữu Song xúc động cho biết: Giải thưởng là sự ghi nhận nỗ lực, công sức của cả nhóm nghiên cứu trong suốt thời gian dài; đây là nguồn động lực to lớn để các y bác sĩ trong Bệnh viện 108 tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo ra các sản phẩm ưu việt có giá trị trong cuộc sống. PGS.TS. Lê Hữu Song cho biết: Dựa trên nền tảng thành công của công trình này, trong tương lai 5 - 10 năm, nhóm nghiên cứu Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 sẽ triển khai 2 hướng đi: Thứ nhất, tiếp tục phát triển và thân thiện hóa bộ sinh phẩm cho mục đích phát hiện bệnh vi sinh vật gây nhiễm khuẩn huyết. Ở hướng đi này, Hội đồng khoa học của Bộ khoa học và công nghệ đã thông qua dự án sản xuất thử nghiệm chế tạo Bộ sinh phẩm chẩn đoán một số mầm bệnh gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và gien kháng kháng sinh. Thứ hai, phát triển phương pháp chẩn đoán nhanh các mầm bệnh truyền nhiễm cấp tính tại hiện trường. Nhóm nghiên cứu đang triển khai công nghệ mới chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, đây cũng là một nội dung trong đề tài mới mà nhóm đã ký kết với Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc Gia NAFOSTED năm 2017. Ban Tổ chức trao Bằng khen cho các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tuyên truyền, phổ biến về Giải thưởng Tại buổi lễ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng tặng Bằng Lao động sáng tạo cho các cá nhân là chủ nhiệm của các công trình được giải nhất, nhì và ba. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tặng huy hiệu Tuổi trẻ sáng tạo cho các tác giả đoạt giải nhất và tặng Bằng khen cho các tác giả đoạt giải nhì và ba trong lứa tuổi thanh niên. Dịp này, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã phát động Giải thưởng VIFOTEC 2019. Bộ trưởng nhấn mạnh, Giải thưởng ngày càng thiết thực, kịp thời động viên, khích lệ phong trào thi đua nghiên cứu sáng tạo khoa học, công nghệ trong đội ngũ các nhà khoa học, cán bộ làm nghiên cứu, doanh nghiệp để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo như là một trụ cột cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Giải thưởng VIFOTEC 2019 sẽ tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ quan trọng gồm: Cơ khí tự động hoá; công nghệ vật liệu; công nghệ thông tin, điện tử và viễn thông, sinh học phục vụ sản xuất và đời sống, công nghệ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên và công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới. Bộ trưởng Chu Ngọc Anh bày tỏ tin tưởng Giải thưởng VIFOTEC 2019 sẽ được cộng đồng các nhà khoa học, cán bộ làm nghiên cứu, doanh nghiệp trong cả nước nhiệt tình hưởng ứng, ủng hộ và tham gia các công trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Qua đó, đóng góp thiết thực vào việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các ngành kinh tế; đảm bảo đất nước phát triển nhanh và bền vững. Mai Thảo

“Người không hát tình ca” và những câu chuyện cảm động về chiến sĩ Trường Sơn

TĐKT – Tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại đã in dấu biết bao câu chuyện, khoảnh khắc lịch sử bi hùng của bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, dân công hỏa tuyến… trong suốt 16 năm gian khổ đối đầu với cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ. Những câu chuyện cảm động ấy đã được tái hiện sinh động qua Chương trình nghệ thuật “Người không hát tình ca” do Báo Nhà báo và Công luận, Hội Truyền thống Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh Việt Nam, Công ty Truyền thông Thiên Sơn phối hợp tổ chức tối 12/5. Chương trình nghệ thuật “Người không hát tình ca” Đó là câu chuyện về những tập thể, cá nhân Anh hùng, những con người không tiếc tuổi xuân, không tiếc máu xương, đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bền bỉ và kiên cường trụ bám trận địa, trụ bám mặt đường, giữ vững mạch máu giao thông, đập tan mọi âm mưu và hành động đánh phá, ngăn chặn của quân thù. Có những cựu chiến binh dù bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam và thương tật trong chiến tranh nhưng vẫn vượt lên đau đớn, khó khăn, tích cực hoạt động nghĩa tình, giúp đỡ đồng đội và những người cùng cảnh ngộ vươn lên xóa đói, giảm nghèo. “Mũi tên xanh” trên tuyến lửa Ra đời vào cuối tháng 3 năm 1966, Tiểu đoàn 58 Ô tô vận tải (thuộc Binh trạm 37, Sư đoàn 470, Đoàn 559) tiền thân là Đoàn xe 90 mang biệt danh “Mũi tên xanh”, có hơn 100 xe gaz 63 hai cầu làm nhiệm vụ chở chuyến hàng đầu tiên từ Hà Nội vào Trường Sơn giao hàng tại bản Tà Xẻng phía Tây tỉnh Kon Tum gần ngã ba Đông Dương tháng 4/1966. Từ Đoàn xe 90 làm nòng cốt, sau này, Đoàn 559 thành lập Tiểu đoàn 58 Ô tô vận tải trực thuộc Binh trạm 8 phục vụ chiến trường Đông Dương gồm mặt trận B2, B3, Nam Lào và Cam-pu-chia. Tuyến hoạt động của Tiểu đoàn 58 từ ngã ba Phi Hà đến Tà Ngâu (Cam-pu-chia) đường 49, đường 128A, đường 128B, 128C qua khu vực Tây Nguyên. Do yêu cầu nhiệm vụ, sau này, Tiểu đoàn 58 lại trực thuộc Binh trạm 37, Sư đoàn 470. Suốt 10 năm (1966 - 1975) làm nhiệm vụ trên những cung đường quân sự quanh co, nhỏ hẹp, vượt qua nhiều dốc cao, vực sâu, dưới thời tiết, khí hậu khắc nghiệt của “Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa” có 10 trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay địch như đèo 32, dốc 200, ngầm Xê Xụ, ngầm 42, đèo Ang Bun…, Tiểu đoàn 58 đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đại tá, Nhà giáo nhân dân, Tiến sĩ Nguyễn Văn Mỗi, nguyên chiến sĩ lái xe Đại đội 2, Tiểu đoàn 58 Ô tô vận tải nhớ lại: Khu vực hoạt động của Tiểu đoàn 58 được mệnh danh là “Rốn sốt rét của Đông Dương”, vì vậy có thời điểm tiểu đoàn bị sốt rét 100% quân số. Mùa mưa năm 1968, 1969 đường vận chuyển bị nước lũ bao vây và bị địch đánh phá rất ác liệt, bộ đội ta bị đói, mỗi ngày một người chỉ được 1 lạng gạo. Để duy trì sự sống, bộ đội phải vào rừng đào củ mài, củ chuối rừng đem về chế biến làm lương thực thay cơm. Bom đạn và nạn đói làm cho Tiểu đoàn 58 bị tổn thất có lúc lên đến 60% quân số. Tuy phải vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, nhưng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 58 vẫn kiên cường vươn lên trưởng thành trong chiến đấu. Nhiều tấm gương tiêu biểu đã xuất hiện như Trần Văn Thắng, Hoàng Văn Thái, Cẩm Bá Đức, Nguyễn Văn Khang… Đặc biệt, ngày 31/12/1973, Tiểu đoàn 58 Ô tô vận tải được Chủ tịch nước tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Cây sáng kiến của Trường Sơn Làm nhiệm vụ ở Trạm X340, Trung đoàn 265, Đoàn 559, đồng chí Nguyễn Văn Tân, nguyên Trạm phó của Trạm X340 được mệnh danh là cây sáng kiến “biến không thành có, biến khó thành dễ”. Đồng chí Nguyễn Văn Tân kể lại: Mùa mưa năm 1966, việc vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm chi viện cho chiến trường bằng đường bộ không thực hiện được vì lũ lụt, bộ đội ta phải dựa vào phương thức vận tải bằng đường sông. Nhưng vào thời điểm đó, các cánh quạt nước (chân vịt) của thuyền máy bị va vào đá ngầm trên sông hầu hết đều bị gãy làm cho thuyền máy không thể hoạt động được, nhưng không có phụ tùng thay thế. Cái khó ló cái khôn, đồng chí Tân nghĩ ra sáng kiến tìm gỗ tốt trong rừng đẽo thành chân vịt gỗ để thay thế chân vịt sắt đạt kết quả tốt. Nhờ có sáng kiến này, bộ đội vận tải đường sông không phải chèo thuyền bằng tay vừa chậm vừa vất vả, năng suất vận chuyển thấp, lại phải hoạt động cả ban ngày dễ bị máy bay địch phát hiện đánh phá gây tổn thất. Có lần, máy bơm nước tự động làm mát máy bị hỏng nhưng không có phụ tùng thay thế, đồng chí Tân đã nghĩ ra cách làm mát máy trực tiếp bằng phương pháp đặt một thùng nước trên cao rồi dùng tuy ô dẫn nước chảy trực tiếp qua thân máy. Mùa khô năm 1967, phụ tùng thay thế hầu như không có. Đồng chí Tân và đồng đội phải tổ chức tháo dỡ phụ tùng ở các xe bị địch đánh hỏng trên các trọng điểm đem về thay thế để cho đơn vị luôn có đủ đầu xe hoạt động. Cũng bằng cách làm này, đồng chí Tân đã lắp ráp thành công một chiếc xe cẩu để tháo lắp thân máy nặng hàng tấn mỗi khi sửa chữa ô tô vừa tiết kiệm được nhân lực lao động, vừa nâng cao năng suất và tiết kiệm thời gian cho xe ra xưởng nhanh. Nhờ có chiếc xe cẩu tự tạo ấy, mùa khô năm 1972, đồng chí Tân và đồng đội đã sửa chữa thành công một chiếc xe tăng của ta bị hỏng ly hợp tại trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay địch ở Km 42 trước sự thán phục của bộ đội Tăng - Thiết giáp. Bằng việc không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiết kỹ thuật trong khi làm nhiệm vụ để tiết kiệm mồ hôi xương máu cho đồng đội, đồng chí Nguyễn Văn Tân đã được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1973. Mối tình đầu dang dở Bà Tạ Thị Hoán, cựu thanh niên xung phong (TNXP) Đại đội 5, Đội 25 (sau này chuyển sang quân đội công tác ở Binh trạm 14, Đoàn 559) có một tình yêu với người đồng đội cùng quê tuy không trọn vẹn nhưng vô cùng thánh thiện. Mối tình đầu ấy được bà ghi lại trong cuốn nhật ký đến bây giờ bà vẫn còn giữ được, là kỷ niệm buồn đi suốt cuộc đời. Bà Hoán tâm sự: “Tôi và Thắng ở cùng đơn vị C452 - Đội 25 TNXP tỉnh Hà Nam nhưng khác xã, khác tiểu đội. Hai chúng tôi đều là Tiểu đội trưởng, cùng gia nhập TNXP chống Mỹ cứu nước ngày 28/6/1965, cùng làm nhiệm vụ ở đường 20 Quyết Thắng. Tôi quen Thắng qua Thanh An - một cô bạn cùng quê, Thắng để ý tôi lúc nào tôi không biết, cho đến ngày 17/2/1966, Thắng mới chính thức gửi thư đặt vấn đề yêu tôi. Tôi bất ngờ và vô cùng bối rối kèm theo sợ nữa vì theo quy định của cấp trên, TNXP sau 3 năm hoàn thành nhiệm vụ mới được yêu.” Cuối năm 1966, đơn vị của họ đóng quân tại đỉnh U Bò (Km37). Ông đã nói như khẳng định: “Nếu chiến tranh không cướp đi một trong hai đứa, hòa bình rồi Thắng sẽ báo cáo với bố mẹ cho chúng ta làm đám cưới, Hoán hãy tin lời nói của Thắng như dao chém đá, không bao giờ rút lại. Sự nghiệp chống Mỹ đang cần chúng ta, mình còn có 4 ước mơ: Một là trở thành đảng viên, hai là trở thành anh lính cụ Hồ, ba là trở thành họa sĩ, bốn là được đón Hoán về làm vợ...” Thế nhưng trớ trêu thay, chiều 29/10/1968, trước khi đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc hai ngày, ông đã hy sinh trong khi đi kiểm tra tuyến giữa hai trận bom B52. Năm ấy, ông vừa tròn 20 tuổi và hơn 1 năm tuổi Đảng. “Tôi vĩnh viễn mất Thắng từ ngày ấy. Ngày 1/11/1968 tôi theo đơn vị lên cắm cờ tại biên giới Việt Lào rồi đến bên mộ Thắng thắp hương lên mộ anh trong niềm đau đơn tột cùng.” – Bà Hoán nghẹn ngào. Bài thơ “Ly biệt” là cội nguồn của những trang nhật ký, nó là một trong 47 bài trong tập thơ “Kỷ niệm một thời” bà Hoán tái bản lần thứ 2 nhân dịp nhận Huy hiệu 50 tuổi Đảng: “Anh bảo rằng chiến tranh/ Là vô cùng khốc liệt/Là mất mát đau thương/Là cách chia ly biệt/ Sao anh lại thầm yêu/ Sao anh lại trộm nhớ/ Để đời em trăn trở/ Bởi nụ hôn vội vàng”. Vượt lên nỗi đau, tri ân đồng đội Trở về quê sau 3 năm gắn bó với Trường Sơn, mang trong mình chất độc da cam/dioxin, chị Mai Thị Thọ, Trưởng Ban liên lạc Nữ Trường Sơn tỉnh Phú Thọ, Cựu chiến binh Sư đoàn 473, Đoàn 559 vừa đi học vừa dạy mẫu giáo ở TP Việt Trì. Ngày ấy, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, để có tiền nuôi sống gia đình, chị Thọ phải đem chiếc vỏ chăn và những bộ quần áo bộ đội cắt may thành quần áo trẻ em mang ra chợ bán. Năm 1991, vì cuộc mưu sinh và để không ảnh hưởng đến thanh danh nhà giáo, chị Thọ xin nghỉ hưu non ở nhà chạy chợ kiếm tiền chữa bệnh cho con. Những tưởng, bằng sự chịu thương, chịu khó chăm lo cho hạnh phúc gia đình, chị sẽ gặt được những mùa quả ngọt. Nào ngờ, sau 4 lần chị mang nặng đẻ đau, vất vả nuôi con hàng chục năm trời, bốn đứa con của chị đều lần lượt ra đi vì bị bệnh hiểm nghèo. Khi nỗi đau mất con chưa kịp nguôi ngoai, vợ chồng chị lại chia tay mỗi người một ngả cùng với bản tình ca dang dở. Cũng từ đây, ngôi nhà này chỉ còn chị và đứa cháu nội mồ côi cha, bị mẹ bỏ rơi đang bị bệnh thấp tim mỗi tháng phải đi viện đôi lần. Giờ đây, mỗi khi nhớ về quá khứ, chị Thọ lại ngồi thơ thẩn một mình nhìn cuộc đời qua ô cửa nhỏ và những kỷ niệm buồn đến rồi đi trong cuộc đời mình. Tuy vậy, vượt lên nỗi buồn riêng, chị Thọ tích cực tham gia hoạt động nghĩa tình đồng đội. Những tấm bằng khen của các cấp, các ngành trao tặng chính là sự ghi nhận công lao của chị trong việc giúp đỡ hội viên nỗ lực vươn lên xóa đói, giảm nghèo trên quê hương Phú Thọ. Phương Thanh

Nữ bí thư đoàn 9X năng động

TĐKT - Nhắc đến công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, không thể không nhắc đến đồng chí Vũ Thị Lệ Thu, Bí thư Đoàn xã Tiên Nội, một trong những nữ Bí thư Đoàn xã năng động, nhiệt huyết và có sự đam mê đặc biệt đối với công tác Đoàn. Thu là 1 trong 60 thanh niên tiêu biểu làm theo lời Bác được Tỉnh đoàn tôn vinh, biểu dương năm 2018. Bí thư đoàn Vũ Thị Lệ Thu (đứng thứ 3 từ trái sang) được khen thưởng tại Hội nghị tổng kết công tác đoàn, đội và phong trào thanh thiếu niên 2018 của Huyện đoàn Duy Tiên Năm 2015, sau khi tốt nghiệp Học viện Hành chính, nhận thấy được công tác đoàn ở địa phương cũng rất quan trọng, Thu đã tích cực tham gia công tác đoàn và giữ cương vị Bí thư chi đoàn thôn Kim Hòa. Năng nổ, nhiệt tình trong các phong trào, Thu được các đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) bầu làm Bí thư đoàn xã Tiên Nội.  “Xã Tiên Nội có hơn 1.400 thanh niên, trong đó khoảng 80% thanh niên đang lao động tại các khu công nghiệp, số còn lại đi xuất khẩu lao động hoặc trực tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh tại xã. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chi đoàn thường xuyên biến động. Do vậy công tác tập hợp ĐVTN tham gia sinh hoạt gặp nhiều khó khăn.” - Thu chia sẻ. Khắc phục tình trạng này, ngay khi được giao trọng trách Bí thư đoàn xã, điều đầu tiên mà Thu làm chính là tham mưu kiện toàn đội ngũ bí thư chi đoàn là những người thực sự tâm huyết, trách nhiệm với công tác đoàn và phong trào thanh thiếu niên. Đồng thời, dành thời gian tìm hiểu, sâu sát với thực tế sinh hoạt từng chi đoàn, thường xuyên xuống địa bàn dân cư để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của thanh niên để tuyên truyền, vận động ĐVTN tham gia sinh hoạt. Cũng theo Thu, để thu hút các ĐVTN tham gia cần phải bám sát tình hình thực tế để tổ chức hoạt động cho phù hợp. “Với ĐVTN đang làm việc tại các khu công nghiệp, do thời gian hạn chế, tôi đã xây dựng kế hoạch, tổ chức sinh hoạt vào buổi tối thứ 7, chủ nhật. Việc tổ chức các hoạt động cũng thường được tổ chức vào ngày chủ nhật, dịp nghỉ lễ và được thông báo trước từ 3 - 5 ngày thông qua tin nhắn điện thoại, facebook, tạo điều kiện để ĐVTN bố trí lịch tham gia.” - Thu cho biết. Thu tích cực vận động ĐVTN tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao Cùng với đó, Ban chấp hành đoàn xã cũng tổ chức, xây dựng các nhóm sinh hoạt theo sở thích, đam mê các môn thể thao, văn nghệ, các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, nhằm quy tụ, gắn kết các ĐVTN trên địa bàn tham gia. Với vai trò thủ lĩnh Đoàn tại địa phương, Thu đã làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, phối hợp các ngành, đoàn thể tổ chức nhiều hoạt động xung kích tình nguyện. Riêng năm 2018, Đoàn xã Tiên Nội đã tặng 24 suất quà cho gia đình chính sách, hộ có hoàn cảnh khó khăn trị giá 7,2 triệu đồng; tặng 2 công trình nước sạch cho hộ có hoàn cảnh khó khăn trị giá 6 triệu đồng; thực hiện 1 công trình thanh niên trồng, chăm sóc đường hoa. Để giúp đỡ các ĐVTN phát triển kinh tế, Thu cùng Ban chấp hành Đoàn xã đã thành lập 1 câu lạc bộ thanh niên phát triển kinh tế. Đồng thời nhận ủy thác từ Ngân hàng Chính sách xã hội qua 4 tổ tiết kiệm và vay vốn với tổng dư nợ đạt trên 3 tỷ đồng, cho 62 hộ vay. Ngoài ra, đoàn xã cũng quan tâm, đẩy mạnh phong trào thanh thiếu nhi tại địa phương. Năm 2018 đã phối hợp tổ chức 2 lớp dạy bơi, tập huấn kỹ năng phòng, chống đuối nước cho 20 thanh thiếu nhi; tặng 10 suất quà cho các em học sinh nghèo vượt khó, học giỏi trị giá 5 triệu đồng và 7 xe đạp theo mô hình “Xe đạp 1.000 đồng”, trị giá 8,4 triệu đồng… Thu cũng thường xuyên chỉ đạo, tổ chức hiệu quả các hoạt động vì an sinh xã hội, tình nguyện vì cộng đồng, tổ chức dọn vệ sinh môi trường ở thôn xóm, định hướng và giải quyết việc làm cho thanh niên trong xã. Trên cương vị là Bí thư Đoàn xã phụ trách công tác phát triển đoàn viên, đảng viên trong tổ chức Đoàn, Thu luôn quan tâm, giúp đỡ ĐVTN ưu tú để giới thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp. Năm 2018, Đoàn xã đã giới thiệu10 đoàn viên ưu tú tham gia học các lớp nhận thức về Đảng, trong đó 2 đồng chí được kết nạp vào Đảng. Với những đóng góp trong công tác xây dựng, đưa tổ chức đoàn cơ sở phát triển vững mạnh, Bí thư đoàn Vũ Thị Lê Thu xứng đáng là tấm gương để ĐVTN học tập. Với sự năng động, nhiệt tình của một nữ cán bộ đoàn như Thu, chắc chắn trong thời gian tới Đoàn xã Tiên Nội sẽ có nhiều hoạt động sôi nổi, ý nghĩa để đoàn xã trở thành chỗ dựa vững chắc cho ĐVTN. Tuệ Minh

Hội Truyền thống Trường Sơn tuyên dương điển hình tiên tiến toàn quốc lần thứ I

TĐKT - Sáng 5/5, tại Hà Nội, Hội Truyền thống Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh (Hội Truyền thống Trường Sơn) tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến toàn quốc lần thứ I (2011 - 2019). Thời gian qua, Hội Truyền thống Trường Sơn luôn coi trọng và tổ chức tốt phong trào thi đua nhằm khơi dậy và phát huy những phẩm chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ, bộ đội Trường Sơn anh hùng trong hội viên để tiếp tục đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Ban Thường trực, Ban Thường vụ Hội đã bám sát tính chất, đặc điểm và thực tiễn hoạt động của Hội, xác định chủ đề, mục tiêu, nội dung, chỉ tiêu thi đua phù hợp để phát động và hướng dẫn các tổ chức thành viên triển khai thực hiện. Trong quá trình chỉ đạo phong trào, Hội đã kết hợp tốt giữa tổ chức thi đua toàn diện với thi đua từng mặt trong từng thời gian và tổ chức các cuộc thi theo chuyên đề, gắn với các sự kiện lịch sử, các ngày lễ lớn của đất nước, quân đội và bộ đội Trường Sơn. Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lê Khánh Hải trao Huân chương Lao động của Chủ tịch nước tặng các tập thể, cá nhân tiêu biểu của Hội Truyền thống Trường Sơn Sau 8 năm xây dựng và phát triển, đến nay, Hội có hệ thống tổ chức sâu rộng từ toàn quốc đến cấp phường, xã, với 114 tổ chức thành viên và 301.141 hội viên; 217 Hội và 98 ban liên lạc cấp huyện; 1829 Hội và 1308 ban liên lạc cấp xã, phường. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử đã được triển khai tích cực, toàn diện, sâu rộng trong cả nước, thiết thực giữ gìn, khai thác và phát huy các giá trị lịch sử của Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Hoạt động tri ân tình nghĩa, giúp đỡ đồng đội được các cấp Hội coi trọng, hưởng ứng tích cực. Trong phong trào hành quân đi tìm đồng đội, các tổ chức Hội và hội viên đã cung cấp 95 thông tin về mộ liệt sĩ và phối hợp cùng gia đình tổ chức tìm kiếm, cất bốc 21 hài cốt liệt sĩ đưa về quê hương. Hội đã phối hợp cùng Binh đoàn 12 thẩm tra, xác nhận hồ sơ, đề nghị cơ quan chức năng của Nhà nước giải quyết 8 trường hợp hy sinh chưa được công nhận liệt sĩ; giúp 5381 hội viên liên hệ với đơn vị chủ quản tra cứu hồ sơ, hoàn thiện thủ tục giải quyết các tồn đọng chính sách sau chiến tranh. 8 năm qua, Hội đã hỗ trợ kinh phí xây dựng 2081 nhà tình nghĩa, tặng 3.357 sổ tiết kiện, 578 suất học bổng, 83.628 suất quà, 1.150 chăn ấm cao cấp cho các đối tượng chính sách, người có công, hội viên nghèo; vận động trợ cấp thường xuyên cho 216 chị em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mức 500.000 đồng/tháng. Thực hiện cuộc vận động "Hội viên Trường Sơn sản xuất giỏi, xóa đói giảm nghèo, giúp nhau khắc phục khó khăn, nâng cao đời sống", có 3.075 hội viên được đồng đội cho vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh không lấy lãi với số tiền gần 10 tỷ đồng; 9.483 hội viên được đồng đội tặng vật nuôi, cây giống, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ sản xuất, chăn nuôi. Có hơn 3000 gia đình hội viên đã vươn lên thoát nghèo, hơn 5000 gia đình hội viên từ cận nghèo vươn lên mức sống trung bình. Phong trào thi đua và cuộc vận động của Hội luôn bám sát và gắn kết chặt chẽ với các cuộc vận động, các phong trào do MTTQ Việt Nam phát động và các phong trào thi đua của địa phương, nhất là Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và các phong trào thi đua ở địa phương nơi cư trú. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ 2011 - 2018, hội viên Trường Sơn trong cả nước đã đóng góp, ủng hộ gần 131,5 tỷ đồng, gần 60.000 ngày công, hơn 135.000 m2 đất và hàng trăm mét khối vật liệu để xây dựng nghĩa trang liệt sĩ, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa của các địa phương, làm đường nông thôn, xây dựng trường học, công trình phúc lợi, thiết chế văn hóa phục vụ cộng đồng. Kết quả hoạt động của Hội đã được cấp ủy, chính quyền các cấp và dư luận xã hội ghi nhận, đánh giá cao. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống bộ đội Trường Sơn, Hội và Thiếu tướng Võ Sở - Chủ tịch Hội được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì; 2 tập thể và 3 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; 6 tập thể và 14 cá nhân được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; 12 tập thể và 26 cá nhân được MTTQ Việt Nam và các bộ, ban, ngành tặng Bằng khen. Chủ tịch Hội đã tặng Bằng khen cho 182 tập thể và 322 cá nhân. Tại Hội nghị, Hội đã trao 3 căn nhà tình nghĩa cho 3 hội viên có hoàn cảnh khó khăn tại các tỉnh: Cao Bằng, Hà Giang, Thừa Thiên – Huế; trao 15 suất quà cho các hội viên các tỉnh, thành trong cả nước. Phương Thanh

Đại tướng Lê Đức Anh: Vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc

TĐKT - Tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có bài viết ''Đại tướng Lê Đức Anh: Vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi nhân dân.'' Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã về cõi vĩnh hằng. Tưởng nhớ Đại tướng Lê Đức Anh, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã có bài viết ''Đại tướng Lê Đức Anh: Vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi nhân dân.'' Chủ tịch nước Lê Đức Anh tiếp Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong sang thăm Việt Nam, sáng 3/3/1994, tại Hà Nội. (Ảnh: Minh Ðạo/TTXVN) Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng: Đại tướng Lê Đức Anh là một chiến sỹ cách mạng kiên cường, một vị tướng tài ba, người đã được tôi luyện, trưởng thành qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Là một vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước xuất sắc, đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng chí Lê Đức Anh sinh ngày 01/12/1920 trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông nội của Đồng chí là một sỹ phu tham gia Phong trào Cần Vương chống Pháp. Trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống yêu nước và hiếu học, thấu hiểu sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc, người thiếu niên Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1937, khi mới 17 tuổi, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, Thừa Thiên-Huế; tháng 5/1938, Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ 1939-1944, Đồng chí hoạt động trong các hội Ái hữu tại Hội An, Đà Lạt, Lộc Ninh, Thủ Dầu Một và các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi, Xa Can, Xa Cát. Là chiến sỹ cộng sản kiên trung, mang trong mình ý chí tất cả vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, đầu năm 1945 Đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng trung kiên trong các nghiệp đoàn, chuẩn bị đấu tranh võ trang. Tháng 8/1945, Đồng chí được phân công phụ trách chỉ huy khởi nghĩa giành chính quyền ở các đồn điền cao su và hai huyện Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Phước. Thời gian này, Đồng chí tham gia Quân đội, chỉ huy giành chính quyền ở Lộc Ninh, tham gia tỉnh ủy lâm thời, phụ trách quân sự phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một; giữ các chức vụ Chính trị viên Chi đội 1 (sau là Trung đoàn 301), Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một. Từ năm 1948 đến năm 1954, Đồng chí đảm đương nhiều chức vụ quan trọng như: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8, Quân khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Quân khu ủy viên, Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Sau Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954, Đồng chí tập kết ra Bắc; từ năm 1955 đến năm 1963 là Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, rồi Cục phó, Cục trưởng Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu và trở thành Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đầu năm 1964, Đại tá Lê Đức Anh trở lại chiến trường Miền Nam, đảm nhiệm các chức vụ Tham mưu trưởng, rồi Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền; Tư lệnh Khu 9, Phó Bí thư Khu ủy; Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Ủy viên Quân ủy Miền. Đồng chí là một trong hai sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được phong hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng vào tháng 4/1974. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, Đồng chí được giao trọng trách Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh Cánh quân Tây Nam, đóng góp quan trọng cho thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện nhiệm vụ được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao, từ năm 1976 đến năm 1986, đồng chí là Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân Khu ủy, rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, Đồng chí là một trong những tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng, bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Năm 1981, Đồng chí được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Năm 1986, Đại tướng Lê Đức Anh là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, từ năm 1987 là Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đồng chí là Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992-1997. Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV,V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Về quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc, một nhà chỉ huy xuất sắc, có tầm nhìn chiến lược, có chiến thuật tài tình và linh hoạt xử lý các tình huống phức tạp. Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng gắn với nhiều chiến trường vào Nam ra Bắc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên chiến trường nước bạn. Đồng chí từng chỉ huy bộ đội tham gia những trận đánh quan trọng, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh như Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Cuộc chiến đấu chống lấn chiếm vùng giải phóng năm 1973, Chiến dịch Phước Long năm 1974, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, Chiến dịch giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng năm 1979. Đồng chí là người trực tiếp thị sát, chỉ đạo và đóng góp quan trọng trong xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đồng chí đảm trách chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng Tây-Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đây là nơi có địa hình khó tiến công vì là đồng bằng, sông ngòi, sình lầy chằng chịt nhưng là một hướng tiến công rất quan trọng để nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4, không để chúng co cụm về cố thủ ở Cần Thơ. Đoàn 232 do Đồng chí chỉ huy đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính là: chia cắt các lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng vùng Đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát, sau đó hợp điểm cùng các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng Tư lịch sử. Đại tướng Lê Đức Anh là người luôn coi trọng nhân, nghĩa, ngay cả đối với kẻ thù; và là người lãnh đạo chỉ huy luôn thương yêu, tìm mọi cách giảm thiểu hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sỹ và khó khăn, mất mát của người dân. Trong hồi ký, Đại tướng Lê Đức Anh viết: Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng “Nhân ái." Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn từ truyền thống chí nhân, chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong Đại Cáo Bình Ngô: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo." Khi xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua sông Vàm Cỏ thì trời đổ mưa, đoạn thuộc huyện Đức Huệ (Long An) sình lầy xe không đi được; nhân dân vác những bó cây và dỡ nhà mình ra lót đường cho xe tăng và pháo ta vượt qua. Đồng chí đã chỉ đạo anh em chiến sỹ giúp dân làm lại nhà, dù người dân không hề đòi hỏi. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng-An ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, với tình cảm sâu nặng và ý thức trách nhiệm lớn lao, Đại tướng Lê Đức Anh thường xuyên đến thăm, kiểm tra công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị quân đội, công an. Đồng chí chỉ đạo quyết liệt vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng và là một trong những người đưa ra ý tưởng xây dựng khu vực phòng thủ, các khu kinh tế-quốc phòng trên địa bàn chiến lược mà chúng ta đã và đang triển khai thực hiện. Đồng thời, Đại tướng cũng hết sức chú trọng đến tình hình bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị của quân đội và đời sống của cán bộ, chiến sỹ. Trước thực trạng các doanh trại quân đội dột nát, Đồng chí đã yêu cầu tăng kinh phí xây dựng, sửa chữa doanh trại và có các biện pháp cụ thể, thiết thực bảo đảm đời sống cho cán bộ, chiến sỹ. Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh cũng rất quan tâm công tác chính sách hậu phương quân đội, giải quyết tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ngày 10/09/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng” để tặng hoặc truy tặng những Mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; đồng thời cũng là để giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ mai sau. Là Chủ tịch nước, Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kể cả khi đã nghỉ công tác, đồng chí Lê Đức Anh vẫn thường xuyên quan tâm đến lực lượng vũ trang, nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, có tầm chiến lược sâu rộng về công tác quân sự, quốc phòng cho Đảng và Nhà nước ta. Đại tướng Lê Đức Anh chụp ảnh lưu niệm với các em học sinh Trường THPT Nam Yên, huyện An Biên (Kiên Giang). (Ảnh: TTXVN) Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị giao, Đồng chí đã nghiên cứu sâu sắc về cách thức, phương pháp, bước đi để thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với một số nước, đối tác, góp phần đặt nền móng cho chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng, Nhà nước ta. Trên cương vị Chủ tịch nước, là Nguyên thủ quốc gia, đồng chí Lê Đức Anh đã nhiều lần dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến thăm các nước, các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định, điều ước quốc tế, để lại những dấu ấn quan trọng và tình cảm tốt đẹp với các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Đối với đồng chí, đồng đội, đồng chí Lê Đức Anh không phân biệt cấp bậc, chức vụ, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, luôn quan tâm, chăm lo đến cán bộ, chiến sỹ trong thực hiện nhiệm vụ và cuộc sống hàng ngày. Là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi đến thăm đơn vị quân đội, Đồng chí vẫn nói chuyện như không có khoảng cách với các chiến sỹ trẻ; động viên các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; quan tâm chỉ đạo giải quyết chế độ chính sách. Đại tướng Lê Đức Anh sống giản dị, gần gũi, chân tình, sâu sắc và nặng tình nghĩa với quê hương. Tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, nhưng Đồng chí luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, Đồng chí thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước; phát huy tinh thần thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp. Trong gia đình, Đồng chí là người chồng, người cha, người ông, người cụ mẫu mực, đức độ và giàu lòng nhân ái. Đồng chí luôn chú trọng giáo dục, nhắc nhở con cháu, người thân nỗ lực học tập, rèn luyện, tự mình phấn đấu, trưởng thành, là người tốt, sống có lý tưởng và có ích cho xã hội. Với 99 tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. Có thể nói, cuộc đời hoạt động cách mạng hơn 80 năm của Đại tướng Lê Đức Anh là dành cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, vì sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vì hạnh phúc của người dân. Khi ốm nặng và trong quá trình điều trị, mỗi lần đồng chí, đồng đội, đồng bào đến thăm, Đại tướng Lê Đức Anh kính mến đều hỏi về tình hình đất nước, về cuộc sống của người dân với tình cảm ân cần, cảm động. Mới đây, trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, tôi cùng một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thăm tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh nhìn chúng tôi với ánh mắt trìu mến, tin tưởng và gửi gắm tình cảm tốt đẹp. Cuộc đời của Đại tướng Lê Đức Anh gắn liền với những chiến thắng, những bước thăng trầm của lịch sử nước nhà. Đồng chí đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Chúng ta mãi mãi nhớ về Đại tướng Lê Đức Anh - anh Sáu Nam kính mến, người đồng chí thân thiết, chí tình, một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo xuất sắc, một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi. Noi gương Đồng chí, chúng ta nguyện nỗ lực phấn đấu, ra sức hành động, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình ổn định cho phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo TTXVN  

Thủ lĩnh công đoàn Xứ Thanh

TĐKT -  “Nếu thực sự tâm huyết, cán bộ công đoàn không bao giờ hết việc. Nếu không có tâm huyết thì sẽ chẳng biết việc gì để làm” - đây là chính là “lời gan ruột” của đồng chí Ngô Tôn Tẫn - Chủ tịch Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Thanh Hóa - người gắn bó gần trọn cuộc đời với hoạt động công đoàn và phong trào công nhân, viên chức, lao động xứ Thanh. Từ công nhân đi lên, vì lao động mà cống hiến “Nghề chọn người chứ không phải người chọn nghề” - câu nói này quả đúng với đồng chí Ngô Tôn Tẫn. Sau khi tốt nghiệp Trường Kỹ thuật trung cấp Mỏ (nay là Trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp tỉnh Quảng Ninh), ông được bố trí về Mỏ than Mạo Khê (Công ty TNHH MTV than Mạo Khê, Đông Triều, Quảng Ninh) làm việc. Tại đây, ông được “tắm mình” trong bầu không khí lao động và cuộc sống của những người thợ mỏ, ngày đêm hăng say đi tìm kiếm “vàng đen” cho Tổ quốc. Năm 1984, ông được bầu làm thư ký công đoàn của Phân xưởng 9 D1 - Mỏ than Mạo Khê. Cũng trong năm đó, khi Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động cuộc thi “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi” ông là 1 trong 2 người đại diện ngành than đi thi thợ giỏi toàn quốc. Cũng vì sự phấn đấu ấy nên công tác tại mỏ than không lâu, từ một thư ký Công đoàn xưởng 9 D1, ông được cơ cấu vào Ban Chấp hành Mỏ than Mạo Khê, đồng thời được Công đoàn ngành Năng lượng (nay là Công đoàn ngành Công thương) cử đi học tại Trường Đại học Công đoàn. Đến năm 1990, khi kết thúc khóa học, ông được chuyển về quê hương Thanh Hóa công tác - đây cũng là bước ngoặt đưa cuộc đời ông gắn bó trọn vẹn với tổ chức công đoàn xứ Thanh. Đồng chí Ngô Tôn Tẫn gắn bó trọn vẹn với công đoàn xứ Thanh Làm cán bộ Công đoàn chuyên trách của Xí nghiệp Liên hiệp Vật liệu Xây dựng 1 từ năm 1990, đến năm 1992, đồng chí Ngô Tôn Tẫn tiếp tục được điều chuyển về Công ty Đá hoa Xuất khẩu Thanh Hóa và được bầu làm Phó Chủ tịch Công đoàn Công ty, Thường trực Đảng ủy. Năm 1993, LĐLĐ tỉnh Thanh Hóa điều động ông về làm chuyên viên Ban Tổ chức, đến năm 1999 ông được bổ nhiệm làm Phó ban, rồi tiếp tục được bổ nhiệm làm Trưởng ban năm 2003, đồng thời được bầu vào BCH, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh. Tháng 8/2008, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh Thanh Hóa. Tháng 4/2013 được bổ nhiệm làm Chủ tịch LĐLĐ tỉnh và tái cử chức Chủ tịch LĐLĐ tỉnh tháng 11/2018. Thời gian này, ông cũng tham gia vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa; được vinh danh là 1 trong 2 “Công dân kiểu mẫu” nhân kỷ niệm “70 năm ngày Bác hồ lần đầu tiên về thăm xứ Thanh”. Đồng chí Ngô Tôn Tẫn nhớ lại: “Thời điểm về nhận công tác tại LĐLĐ tỉnh là lúc các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hóa nói riêng, cả nước nói chung đang bắt đầu phát triển mạnh. Sự hiện diện ngày càng nhiều các mô hình doanh nghiệp ngoài nhà nước kéo theo sự gia tăng lớn về số lượng công nhân, lao động (CNLĐ) trên địa bàn tỉnh; đồng thời tác động và làm thay đổi mối quan hệ lao động truyền thống của các đơn vị, doanh nghiệp nhà nước trước đó. Đình công, lãn công liên tục xảy ra do tác phong công nghiệp, do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế của NLĐ và nhất là do sự vi phạm pháp luật của nhiều chủ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Đứng trước tình hình ấy, theo sự chỉ đạo của Tổng LĐLĐ Việt Nam, Tỉnh ủy Thanh Hóa, các cấp Công đoàn Thanh Hóa một mặt tăng cường công tác tuyên truyền, vận động NLĐ, người sử dụng lao động chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật. Mặt khác, chỉ đạo cán bộ công đoàn cơ sở xây dựng, tiến hành ký kết các bản thỏa ước lao động tập thể, chủ động đề xuất, phối hợp với chủ doanh nghiệp để định kỳ tổ chức các buổi đối thoại; các cấp Công đoàn Thanh Hóa phối hợp cùng với các sở, ban, ngành chức năng của tỉnh nhanh chóng tìm hướng giải quyết nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho NLĐ, cũng như tạo điều kiện, cơ sở để các doanh nghiệp ổn định phát triển sản xuất. “Quan điểm của tôi là, cán bộ công đoàn phải là người trọng tài, là trung tâm gắn kết giữa NLĐ và doanh nghiệp. Cán bộ công đoàn phải nhiệt tình, tâm huyết; phải thực hiện đúng nguyên tắc kỷ luật; trong chỉ đạo điều hành cần phải quyết liệt, nói đi đôi với làm… có như vậy mới tạo ra được vị thế của công đoàn, đồng thời được CNLĐ yêu mến, tin tưởng”. - đồng chí Ngô Tôn Tẫn nói. Cán bộ công đoàn không ngại thử thách Theo đồng chí Ngô Tôn Tẫn, hiện nay Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới; việc tham gia đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương đã và sẽ tiếp tục tác động lớn đến việc làm, quan hệ lao động, hoạt động của tổ chức công đoàn. NLĐ sẽ có thể tiếp cận được những việc làm mới, nhất là được tiếp cận nền khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến, nhưng mặt khác cũng phải đối diện với sự cạnh tranh và đào thải. Với tổ chức Công đoàn Việt Nam, việc phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. NLĐ và quan hệ lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước sẽ tiếp tục phát triển mạnh, chiếm tỷ trọng chủ yếu. Mặt khác những hình thái sử dụng lao động mới cũng xuất hiện và sẽ tác động tới suy nghĩ, hành vi ứng xử của CNLĐ, làm biến đổi hệ thống quan hệ lao động truyền thống. Công đoàn Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các tổ chức công đoàn độc lập trong việc thu hút và giữ chân NLĐ. Như vậy là khó khăn, thách thức nhiều hơn, nhiệm vụ cũng nặng nề hơn. Trong bối cảnh đó, đồng chí Ngô Tôn Tẫn cho rằng, bản thân mỗi cán bộ công đoàn phải tự đổi mới về cả nhận thức lẫn hành động. Phải năng động hơn, sáng tạo hơn, gần gũi với NLĐ hơn. Phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động, ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Đặc biệt, trong hoạt động công đoàn, cán bộ công đoàn phải thích ứng được với thực tiễn, phải hiểu được CNLĐ, chủ doanh nghiệp và là đầu mối đàm phán, thương thảo, giải quyết các tranh chấp lao động… “Với cán bộ công đoàn, tôi luôn coi trọng người có tài; người làm được việc chứ không phải đánh giá trên hồ sơ, bằng cấp” - đồng chí Ngô Tôn Tẫn nhấn mạnh. Vị “thủ lĩnh” Công đoàn xứ Thanh cho rằng: Những năm vừa qua, Thanh Hóa liên tục chứng kiến những vụ ngừng việc tập thể. Ông cho rằng, về bản chất, đây là vấn đề tất yếu của quá trình phát triển. Sau mỗi cuộc ngừng việc tập thể, chủ doanh nghiệp sẽ nhìn nhận ra được những sai sót trong cơ chế, chính sách; NLĐ cũng qua đó sẽ đòi hỏi được những quyền lợi chính đáng; ngừng việc tập thể cũng tác động tích cực theo hướng đẩy mạnh tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên cùng địa bàn. Vấn đề của cán bộ công đoàn là phải giúp CNLĐ thực hiện các hành động ấy trong ôn hòa, tránh việc đập phá tài sản và ảnh hưởng đến an ninh trị an; đồng thời, tham mưu giúp doanh nghiệp nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất, tạo động lực để doanh nghiệp phát triển.  Công việc của cán bộ công đoàn là phải hướng các hoạt động về CNLĐ, lấy CNLĐ làm trung tâm; phải bám sát cơ sở để nắm tình hình, nhanh chóng phát hiện những vướng mắc và kịp thời có phương án giải quyết ổn thỏa; tăng cường công tác giám sát, tối kỵ việc quan liêu, lơ là, làm việc theo lối chỉ tay 5 ngón. Bảo vệ CNLĐ, nhưng cán bộ công đoàn cũng cần quan tâm nhiều tới doanh nghiệp; phải gỡ khó cho doanh nghiệp; bằng sự hoạt động hiệu quả của tổ chức công đoàn, chứng minh cho họ thấy công đoàn có vai trò tích cực trong ổn định quan hệ lao động, tạo ra động lực trong lao động, sản xuất, củng cố, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp… “Làm cán bộ công đoàn phải biết dự báo. Phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phải linh hoạt với thực tiễn. Muốn cho tổ chức công đoàn ngày một phát triển, mỗi cán bộ công đoàn phải nhiệt tình, tâm huyết, trăn trở… Tôi cho rằng, những điều đó sẽ khiến cán bộ công đoàn nảy sinh ra những sáng kiến hay trong quá trình hoạt động. Nếu thực sự tâm huyết, cán bộ công đoàn không bao giờ hết việc. Nếu không có tâm huyết thì sẽ chẳng biết việc gì để làm…”. - đồng chí Ngô Tôn Tẫn tâm niệm. Công Đoàn

Làm tốt công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam

TĐKT - Sáng 26/4, tại Hội trường Học viện Chính trị, Viện Khoa học xã hội Nhân văn Quân sự - Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm ngày truyền thống (29/4/1999 - 29/4/2019). Thiếu tướng Phạm Tiến Dũng, Chính ủy Học viện Chính trị đã trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng Viện Khoa học xã hội Nhân văn Quân sự Viện Khoa học xã hội Nhân văn Quân sự là cơ quan nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, những vấn đề về công tác đảng, công tác chính trị, đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng và đường lối, quan điểm của Đảng. 20 năm qua, Viện đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc, triển khai toàn diện, đồng bộ có chất lượng các hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan, quan điểm của Đảng và sự phát triển của khoa học xã hội nhân văn quân sự… Hiện nay, đội ngũ cán bộ khoa học của Viện có 1 giáo sư, 16 phó giáo sư, 8 tiến sĩ, 19 thạc sĩ. Qua 20 năm, Viện Khoa học xã hội Nhân văn quân sự đã triển khai nghiên cứu thành công 179 đề tài khoa học các cấp; 15 chuyên đề tổng kết lý luận - thực tiễn theo yêu cầu của Ban Bí thư, Hội đồng Lý luận Trung ương; triển khai 14 công trình nghiên cứu cơ bản; biên soạn và xuất bản 156 đầu sách chuyên khảo, 315 chuyên đề khoa học, 235 bộ giáo trình, tập bài giảng; tham gia 17.500 hội đồng khoa học, hướng dẫn 950 học viên sau đại học; tổ chức hơn 100 cuộc hội thảo và tọa đàm khoa học. Với những thành tích đạt được, Viện Khoa học xã hội Nhân văn Quân sự đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Lao động hạng Ba, 2 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba; Bằng khen của Thủ tướng và nhiều phần thưởng cao quý khác… Tại buổi lễ, Thiếu tướng Phạm Tiến Dũng, Chính ủy Học viện Chính trị đã trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng Viện Khoa học xã hội Nhân văn Quân sự. Nguyệt Hà

Trang