Điển hình tiên tiến

Quân khu 2 tôn vinh 56 điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác

TĐKT - Tối 6/8, tại Phú Thọ, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 tổ chức Chương trình Giao lưu và tôn vinh điển hình tiên tiến 5 năm thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đại biểu lãnh đạo Quân khu 2 và địa phương chia sẻ kinh nghiệm thực hiện Cuộc vận động tại chương trình giao lưu. Chương trình được tổ chức nhằm động viên, biểu dương, tôn vinh các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong lực lượng vũ trang Quân khu 2 đã có những đóng góp xứng đáng, nâng cao chất lượng, hiệu quả trên các mặt công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong 5 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân Quân khu 2 đã đạt nhiều kết quả nổi bật trong thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cuộc vận động đã góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin, vinh dự, tự hào, trách nhiệm, trí tuệ, tài năng, sức sáng tạo cho cán bộ, chiến sĩ Quân khu 2; đồng thời tạo sức lan tỏa sâu rộng trong các cơ quan, đơn vị và địa phương thuộc Quân khu 2, trở thành động lực to lớn cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thông qua Cuộc vận động, đã có hàng nghìn cá nhân, tập thể thuộc các cơ quan, đơn vị của Quân khu 2 được khen thưởng ở nhiều cấp… Thời gian tới, các cơ quan, đơn vị sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, 4 nội dung cơ bản của Cuộc vận động, 5 tiêu chí xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; gắn thực hiện các chỉ tiêu, yêu cầu của Cuộc vận động với các nội dung, mục tiêu của phong trào thi đua Quyết thắng để tạo ra phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp trong các cơ quan, đơn vị; xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Bộ Tư lệnh Quân khu 2 trao Bằng khen tặng các điển hình tiên tiến có thành tích xuất sắc trong thực hiện Cuộc vận động Tại buổi giao lưu, các điển hình tiên tiến đã chia sẻ những thành tích xuất sắc, kinh nghiệm công tác, những cách làm hay, sáng tạo khi thực hiện Cuộc vận động… Nhân dịp này, tại chương trình, lãnh đạo Bộ Tư lệnh Quân khu 2 đã trao thưởng tặng các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, có nhiều thành tích xuất sắc trong hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Minh Phương    

Người chèo lái những “chuyến đò hoàn lương”

TĐKT - Ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đối với những ai lầm đường lạc lối, chúng ta phải dang rộng vòng tay, cảm hóa họ, phải khoan hồng độ lượng”, gần 30 năm qua, dù ở bất kỳ vị trí công tác nào, người chiến sĩ cảnh sát quản lý trại giam Nguyễn Đình Giang luôn hết lòng với công việc chèo lái những “chuyến đò hoàn lương” đầy gian nan, vất vả. Đặc biệt, nhờ cái tâm trong sáng, cách làm khoa học, sáng tạo, đồng bộ của mình, anh không chỉ làm thức dậy những mầm thiện đang ngủ quên trong mỗi phạm nhân mà còn kiến tạo môi trường làm việc chuẩn mực để các cán bộ, chiến sĩ trại giam Thanh Lâm gắn bó và yêu nghề. Kiến tạo môi trường làm việc chuẩn mực Chúng tôi vượt qua chặng đường hơn 200 cây số về với Trại giam Thanh Lâm - nơi Đại tá Nguyễn Đình Giang đang nắm giữ vai trò “thủ lĩnh” vào những ngày đầu tháng 7/2019. Trái lại với suy nghĩ ban đầu của chúng tôi về một giám thị nghiêm khắc và có phần khó tính, Đại tá Nguyễn Đình Giang là một người đàn ông lịch lãm, luôn cởi mở và tràn đầy tinh thần lạc quan. Vừa bước xuống từ chuyến xe đi công tác dài 2 ngày ở Thủ đô, anh đã bắt tay ngay vào việc kiểm tra, nắm tình hình các mặt công tác của đơn vị trong thời gian mình vắng mặt. Đại tá Nguyễn Đình Giang, Bí thư Đảng ủy, Giám thị trại giam Thanh Lâm Trò chuyện với chúng tôi, anh bảo, Trại giam Thanh Lâm đóng quân trên địa bàn vùng núi phía Tây của tỉnh Thanh Hóa, cách xa trung tâm văn hóa, xã hội tỉnh gần 100 km; được giao nhiệm vụ quản lý, giam giữ, giáo dục cải tạo gần 4000 phạm nhân có tính chất mức độ phạm tội ngày càng manh động, liều lĩnh, nguy hiểm, mắc nhiều bệnh hiểm nghèo và không yên tâm tư tưởng chấp hành án, thường xuyên chống phá đòi yêu sách, tìm mọi cách móc nối với đối tượng bên ngoài mang đồ vật cấm vào trại… Do đó, những cán bộ chiến sĩ làm công tác quản lý trại giam nơi đây phải chịu nhiều khó khăn, nguy hiểm và thiệt thòi.   Thấu hiểu những hy sinh, vất vả của đội ngũ những người làm công tác giáo dục khơi mầm thiện, nên khi đảm nhận vai trò Bí thư Đảng ủy, Giám thị trại giam, Đại tá Nguyễn Đình Giang đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn, phù hợp và động viên cán bộ, chiến sĩ đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn thử thách, tâm huyết với nhiệm vụ, công việc được giao.  Trong những năm qua, được sự đầu tư của Nhà nước, anh cùng cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị đã tập trung triển khai xây dựng cơ sở vật chất của trại ngày càng đầy đủ, khang trang, sạch đẹp. Hiện nay đã có 1 khu sản xuất, 6 phân trại và 1 trung tâm chỉ huy đơn vị được xây dựng cơ bản; khu giam giữ phạm nhân, nhà ở, phòng làm việc của cán bộ chiến sĩ cũng được xây dựng cơ bản. Trung tá Lê Văn Thụ, Đội trưởng Đội giáo dục Hồ sơ, người đã hơn 2 thập kỷ gắn bó với trại giam chia sẻ: Với mỗi cán bộ, phạm nhân nơi đây, Đại tá Nguyễn Đình Giang như ngọn gió mới, mang đến niềm tin, sự hứng khởi cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trại giam thêm hăng say trong công việc, góp phần đưa Thanh Lâm phát triển lên một tầm cao mới. Chỉ tay về phía những dãy nhà làm việc khang trang còn thơm mùi sơn, với sân bóng rộng rãi, đường nội bộ được bê tông rộng thoáng, từng hàng cây cảnh, bồn hoa tươi tốt, rực rỡ sắc màu trước mắt, anh Thụ bảo:  “Đây là công trình khu trung tâm chỉ huy và phân trại số 5 của đơn vị vừa được đưa vào hoạt động hồi tháng 1/2019 với bao nỗ lực, tâm huyết của giám thị Nguyễn Đình Giang. Công trình như là biểu tượng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong công tác xây dựng cơ sở vật chất của đơn vị trong hành trình 40 năm phát triển; có ý nghĩa to lớn, là nguồn động viên, khích lệ tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ thêm hăng say trong công việc cũng như đoàn kết, gắn bó xây dựng đơn vị văn hóa, chính quy, đáp ứng mọi yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Giờ đây, anh em chúng tôi hễ đi đâu xa là cảm thấy nhớ bởi đã coi đơn vị như ngôi nhà thứ hai của mình.” Nhớ lời dạy của Bác "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém", ngay từ lúc mới về Thanh Lâm, Đại tá Nguyễn Đình Giang đã xác định công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quyết định mọi hoạt động của đơn vị. Xác định năm 2018 - 2019 là năm tập trung xây dựng công tác cán bộ, nên Trại giam Thanh Lâm đã chủ động xây dựng các quy chế quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách cụ thể, sát với tình hình thực tiễn. Trong đó, ưu tiên làm mẫu, cầm tay chỉ việc ở một số lĩnh vực công tác đối với những cán bộ chưa qua đào tạo, cán bộ trẻ, cán bộ thiếu tự tin... là việc làm thường xuyên, nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt để cán bộ, chiến sĩ ngày càng đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đúng đầu, coi đó là những mệnh lệnh không lời để cán bộ, chiến sĩ học tập, hoàn thiện bản thân, xúng đáng là người thầy đặc biệt giúp những phạm nhân tìm lại con đường lương thiện. Trung tướng Nguyễn Văn Sơn trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba cho Đại tá Nguyễn Đình Giang Cùng với đó, đời sống của cán bộ chiến sĩ không ngừng được quan tâm cải thiện. Hàng tháng, cán bộ, chiến sĩ được đơn vị chi tiền bữa ăn sáng; được tham gia nhiều chương trình hoạt động, giao lưu ý nghĩa để giảm bớt căng thẳng và cực nhọc sau mỗi giờ làm việc. Các cán bộ nữ mỗi năm đều được tặng một bộ áo dài truyền thống và được nghỉ trước giờ tan ca 30 phút … Đáng quý nhất, không chỉ là người “thủ lĩnh”, Đại tá Nguyễn Đình Giang còn như người bạn, người anh kịp thời sẻ chia những niềm vui, nỗi buồn, động viên cán bộ, chiến sĩ có thêm niềm tin trong cuộc sống. Dù là chiến sĩ làm nhiệm vụ gác đêm trên đồi cao hay chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ tận sâu trong rừng thẳm, những chiến sĩ phơi mình trên những cánh đồng hướng dẫn các phạm nhân lao động hay các cán bộ tham mưu…đều nhận được sự quan tâm hỏi han, chia sẻ, động viên tận tình của đồng chí giám thị. Bằng những việc làm thiết thực đó, Đại tá Nguyễn Đình Giang không chỉ khơi dậy trong gần 600 cán bộ, chiến sĩ tinh thần đoàn kết, mà còn giúp họ thêm động lực, niềm tin sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, tiếp tục tâm huyết với nghề khơi mầm thiện đầy gian nan, vất vả.  Kết quả hàng năm, tỷ lệ cán bộ, chiến sĩ vi phạm ở trại luôn dưới 0,5%. Con đường phục thiện tràn đầy nhiệt huyết và sáng tạo Với nhiệm vụ quản lý, giáo dục cảm hóa cho hàng nghìn phạm nhân, Đại tá Nguyễn Đình Giang luôn tâm niệm: Cán bộ trại giam như những người lái đò đặc biệt, chở từ bến bên này bờ là những người phạm tội chưa hoàn lương sang bến bên kia là những người hoàn lương, biết sống, biết lao động, biết tuân thủ pháp luật, để làm người, là trụ cột của gia đình, xây dựng quê hương đất nước, gia đình giàu mạnh. Vì vậy, từ lúc phạm nhân vào trại, đến lúc chấp hành án và trở về hòa nhập với cộng đồng, mỗi một giai đoạn khác nhau, anh đều xây dựng các khung giáo dục nhất định, phù hợp. Đại tá Nguyễn Đình Giang, Giám thị Trại giam Thanh Lâm nói chuyện cùng Ban tự quản phạm nhân Anh đã chỉ đạo tốt công tác giáo dục thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; đảm bảo các chế độ ăn, mặc, ở cho phạm nhân đầy đủ theo quy định của Nhà nước. Hàng năm chỉ đạo các đơn vị cơ sở chi cho phạm nhân ăn thêm, thuốc men chữa bệnh, tiền thưởng cho phạm nhân từ 700 - 800 triệu đồng. Quản giáo thường xuyên tổ chức ăn thêm, bồi dưỡng cho phạm nhân làm thêm giờ, vượt định mức, phạm nhân lao động trong môi trường nặng nhọc, phạm nhân ốm đau dài ngày điều trị tại bệnh xá hàng trăm triệu đồng. Chỉ đạo làm tốt công tác giảm án cho phạm nhân có quá trình cải tạo tiến bộ, từ đó khích lệ phạm nhân thi đua cải tạo, tăng tỷ lệ phạm nhân cải tạo khá, tốt lên 80%, giảm tỷ lệ phạm nhân xếp loại cải tạo kém chỉ còn 1,7%. Đồng thời quán triệt và chỉ đạo thực hiện tốt việc tổ chức học tập chính trị, chính sách, pháp luật, nội quy trại giam, tổ chức dạy văn hóa, xóa mù chữ, giáo dục công dân cho phạm nhân, giáo dục chung, giáo dục riêng, tổ chức phát động các phong trào thi đua, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí, phát động các đợt thi đua trong phạm nhân toàn trại gắn với phong trào thi đua chấp hành án phạt tù, nội quy trại giam. Đặc biệt, anh đã chỉ đạo thành công cuộc thi viết "Về người cảnh sát trại giam Thanh Lâm tình đất - tình người”; đã và đang tổ chức cuộc thi “Phạm nhân viết cảm nhận về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh”, thi sân khấu hóa “Phạm nhân kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó giúp cho phạm nhân hiểu được tình cảm của Bác đối với những người lầm lỗi… làm cơ sở để thúc đẩy, tác động giáo dục, nâng đỡ, vực dậy trong họ những giá trị cuộc sống, mong muốn được chuộc lại lỗi lầm đã gây ra, từ bỏ cái ác, vượt qua mặc cảm để sống lương thiện, có ích cho xã hội. Đáng chú ý, anh đã chỉ đạo phát động và thực hiện hiệu quả cuộc vận động "Phạm nhân giao nộp đồ vật cấm", trở thành mô hình tiêu biểu được nhiều trại giam trên cả nước học tập, làm theo. Bằng trái tim của một người giám thị luôn khao khát được đánh thức những mầm thiện đã ngủ quên trong mỗi phạm nhân, anh đã chọn những biện pháp giáo dục thiết thực, có ý nghĩa nhân văn nhất để cảm hóa họ. Anh bảo: “Không phải cứ đứng trên bục giảng mới là giáo dục. Đôi khi chỉ là cái vỗ vai nhẹ, những lời hỏi thăm ân cần về gia đình phạm nhân, là những lúc đứng cạnh hỗ trợ họ về đường kim, mũi chỉ.. cũng giúp phạm nhân ấm lòng và quay đầu hướng thiện.” Vì vậy, hằng tuần, Đại tá Giang đều đến thăm các phân trại, trò chuyện và chia sẻ với họ những câu chuyện đời thường để động viên, khích lệ mỗi phạm nhân chấp hành tốt những quy định chung, có niềm tin vào pháp luật để làm lại cuộc đời. Cảm động trước sự quan tâm giáo dục của Đại tá Nguyễn Đình Giang, phạm nhân Hà Đức Nhơn, phân trại số 6 đã gửi thư chia sẻ: “Những giây phút ngắn ngủi được ở gần Ban giám thị đã giúp cháu nhận ra được nhiều giá trị cốt lõi thiêng liêng của cuộc sống, để cháu vững bước niềm tin trên con đường phục thiện. Ban như người cha thứ 2 của cháu.” Xác định giáo dục phạm nhân không chỉ là quản lý, cảm hóa mà còn luôn sẵn sàng đấu tranh, loại bỏ những âm mưu, thủ đoạn, kế hoạch, hành động vi phạm nội quy trại giam, thời gian qua, Đại tá Giang đã thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc thực hiện quy chế phối hợp với các cơ quan trong và ngoài lục lượng, nhất là với chính quyền và nhân dân địa phương trong việc đảm bảo an ninh, trật tự địa bàn và an toàn trại giam. Trong năm 2018 và 6 tháng 2019, đã cung cấp nhiều nguồn tin có giá trị phục vụ công tác ngăn ngừa tội phạm ngoài xã hội và phối hợp ngăn chặn đưa ra xét xử một số vụ việc vi phạm pháp luật của một số đối tượng xấu tại địa phương. Trong đó, có 3 vụ câu kết với đối tượng bên ngoài có hành vi lén lút xâm nhập vào địa bàn trại giam để đưa vật cấm cho phạm nhân. Tháng 5 năm 2018, anh cùng cán bộ chiến sĩ phối hợp với Công an tỉnh Nam Định bắt lại phạm nhân Đinh Bật Cần trốn trại ngày 17/2/1989. Với những đóng góp đó, anh đã được Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành tặng nhiều bằng khen, giấy khen. Mới đây, anh vinh dự được tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba. Đó là động lực để anh tiếp tục có những cống hiến ý nghĩa hơn nữa cho công tác cải tạo và quản lí trại giam trong thời gian tới. Cầm trên tay tập thư dày cộp mà phạm nhân đã gửi cho anh trong gần 30 năm làm công tác giáo dục, Đại tá Nguyễn Đình Giang nói với giọng hào sảng: “Xã hội càng phát triển, “xã hội trong trại giam” càng phức tạp. Hành trình của những người lái đò đặc biệt chúng tôi sẽ còn không ít những gian nan, vất vả. Nhưng những lời sám hối này của phạm nhân cùng với sự trưởng thành của các cán bộ chiến sĩ, sự phát triển không ngừng của trại giam chính là động lực để chúng tiếp tục công việc của mình”. Mai Thảo

Biểu dương các điển hình trong thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”

TĐKT - Cách đây 10 năm, Bộ Chính trị phát động Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng, sản xuất nhiều hàng Việt Nam có chất lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sau 10 năm triển khai thực hiện, với nỗ lực của hệ thống chính trị các cấp, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã mang lại những kết quả thiết thực, tích cực, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo báo cáo của Bộ Công thương: Hàng Việt tại các hệ thống siêu thị trong nước luôn đạt ở tỷ lệ từ 90% trở lên. Đối với kênh bán lẻ truyền thống, hàng Việt tại các chợ, cửa hàng tiện lợi chiếm tỷ lệ từ 60% trở lên. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ từ năm 2009 đến nay đều có mức tăng trưởng khoảng 10% mỗi năm (đặc biệt trong các năm 2018, 2017, 2016, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ lần lượt ở các mức 11,7%, 10,9%, 10,2%). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ mức lạm phát phi mã 19,8% năm 2008 đã giảm xuống mức dưới 5% trong các năm gần đây. Nền kinh tế chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu (năm 2010, Việt Nam nhập siêu là 12,5 tỷ USD; năm 2018, Việt Nam xuất siêu gần 7,2 tỷ USD). Một số ngành hàng sản xuất Việt Nam có thế mạnh đã tăng tỷ lệ nội địa hóa và hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm (tỷ lệ nguyên phụ liệu nội địa của ngành dệt may chiếm khoảng 50%, tỷ lệ nội địa hóa ngành da giầy chiếm khoảng 40 - 50%). Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn trao Bằng khen cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong triển khai Cuộc vận động  Cuộc vận động đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, mang ý nghĩa to lớn về nhiều mặt: Đã khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc trong mỗi người Việt Nam, nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp góp phần xây dựng nền kinh tế tự cường, tự lực; đã phát huy sức mạnh dân tộc, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững và vượt qua muôn vàn khó khăn trong xu hướng hội nhập; đã tạo nên nét đẹp trong văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và làm cho mọi người gắn bó, chia sẻ với nhau hơn. Qua 10 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, người tiêu dùng Việt Nam đã có ý thức hơn trong ưu tiên mua sắm, sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước trong đời sống sinh hoạt hằng ngày; đồng thời, vận động người thân, gia đình, bạn bè ưu tiên sử dụng hàng hóa thương hiệu Việt. Từ triển khai Cuộc vận động đã xuất hiện nhiều mô hình sáng tạo, hiệu quả như mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhau giữa các địa phương, doanh nghiệp: Mô hình liên kết tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp tại 12 tỉnh (Lào Cai, Sơn La, Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Lâm Đồng, Bình Thuận, An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp). Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh và Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh trao Bằng khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong triển khai Cuộc vận động Ngoài ra, có các mô hình tổ chức hội, câu lạc bộ, tổ nhóm “Ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, mô hình truyền thông, giới thiệu, quảng bá hàng Việt gắn với tổ chức lễ hội, du lịch văn hóa, hội thảo khoa học cấp Quốc gia; mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân; mô hình phát triển nông nghiệp gắn với Cuộc vận động như: Mô hình quy hoạch phát triển nông nghiệp sạch, phát triển chăn nuôi bò của huyện Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc); chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm” của tỉnh Quảng Ninh; mô hình phát triển hệ thống phân phối như: Quy hoạch phát triển hệ thống phân phối của TP Hồ Chí Minh; phát triển hệ thống phân phối của Tập đoàn Dệt may Việt Nam; phát triển hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích Co.opMart của Liên hiệp Hợp tác xã TP Hồ Chí Minh; chương trình “mỗi xã, phường một sản phẩm” (OCOP) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; “Ngày hội Thanh niên đồng hành cùng hàng Việt”, “Tôi yêu hàng Việt” của Trung ương Đoàn; chương trình đưa hàng Việt vào khu công nghiệp - khu chế xuất, đa dạng kênh phân phối tiếp sức cho hàng Việt; tổ chức các “Phiên chợ công nhân”, “Gian hàng giảm giá”, “Chợ lưu động”, “Siêu thị Công đoàn”... ở các khu công nghiệp, khu nhà trọ công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam…. Kết quả thực hiện Cuộc vận động đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu dùng nội địa, tăng quy mô cung - cầu của nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và giảm nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, nhất là trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế thế giới và những khó khăn của nền kinh tế đất nước. Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Vượng, phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” Ghi nhận những kết quả đạt được của Cuộc vận động, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được tổ chức sáng 2/8 tại Hà Nội, 82 tập thể và 147 cá nhân có thành tích xuất sắc trong triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” 10 năm qua đã được biểu dương, khen thưởng. Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng ghi nhận, đánh giá cao Ban chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp đã tích cực, chủ động quán triệt, triển khai thực hiện có kết quả thiết thực Cuộc vận động. Đặc biệt, theo đồng chí Trần Quốc Vượng, công tác tuyên truyền về Cuộc vận động đã được đẩy mạnh, nhất là trên hệ thống báo chí cả nước với nội dung phong phú, đổi mới, hình thức hấp dẫn, qua đó nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, doanh nghiệp và nhân dân về Cuộc vận động trong bối cảnh mới, quan tâm giới thiệu hàng Việt Nam với đông đảo người tiêu dùng. Các doanh nghiệp, người sản xuất đã đề cao trách nhiệm đối với người tiêu dùng; chú trọng ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; coi trọng quảng bá sản phẩm, phát triển hệ thống phân phối, từng bước chiếm lĩnh thị trường nội địa, đáp ứng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng. Nhiều thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao chiếm thị phần khá lớn trong hệ thống phân phối. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước, Thường trực Ban Bí thư cho rằng, thời gian tới, Cuộc vận động cần được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, sáng tạo, thiết thực hơn nữa. Bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động, để người tiêu dùng trong nước tin và yêu thích dùng hàng Việt, các doanh nghiệp, người sản xuất cần không ngừng đổi mới, triệt để ứng dụng khoa học - công nghệ, khơi dậy bản lĩnh, ý chí, sức sáng tạo của người Việt Nam trong sản xuất, kinh doanh, chú trọng xây dựng thương hiệu hàng Việt, phấn đấu hàng hóa Việt Nam phải đảm bảo các điều kiện về bảo vệ môi trường, an toàn, chất lượng cao, giá thành hạ, tính cạnh tranh lớn, chinh phục được người tiêu dùng Việt Nam, chiếm lĩnh thị trường trong nước, thâm nhập sâu vào thị trường quốc tế. Đồng thời, các cơ chế, chính sách về cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh cần sớm được nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người sản xuất tháo gỡ khó khăn, tập trung kết nối cung - cầu; đẩy mạnh liên kết giữa nhà sản xuất - nhà phân phối - người tiêu dùng… Mai Thảo

Bảo đảm thông tin liên lạc quân sự “Kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn” trong mọi tình huống

TĐKT – Ngày 31/7, tại Hà Nội, Bộ Tham mưu Binh chủng Thông tin liên lạc (TTLL) kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống (31/7/1949 – 31/7/2019) và đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba. Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam dự và phát biểu chỉ đạo. Cách đây 70 năm ngày 31/7/1949 tại Định Hóa, Thái Nguyên, Cục TTLL thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 123/NĐ của Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng tư lệnh. Phòng Quân sự, một trong 5 đầu mối cơ quan, đơn vị thuộc Cục TTLL được hình thành, với nhiệm vụ làm tham mưu cho Bộ Tổng Tư lệnh về tổ chức bảo đảm TTLL từ Bộ đến các liên khu, các chiến trường, đơn vị trong toàn quân. Từ đó ngày 31/7 trở thành Ngày truyền thống của Bộ Tham mưu Binh chủng TTLL. Bộ Tham mưu Binh chủng TTLL đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba Trải qua 70 năm xây dựng, phục vụ chiến đấu, chiến đấu và trưởng thành, cơ quan tham mưu đã không ngừng lớn mạnh, lớp lớp cán bộ, nhân viên, chiến sĩ tiếp bước cha anh nối tiếp nhau phát huy truyền thống, cống hiến công sức và tài năng, xây đắp nên truyền thống vẻ vang, đáng trân trọng và tự hào của Bộ Tham mưu Binh chủng TTLL.  Cùng với những chiến công vẻ vang trong các cuộc kháng chiến, sau ngày thống nhất đất nước, cơ quan tham mưu đã có nhiều đề xuất sáng tạo thực hiện nhiệm vụ hiện đại hóa hệ thống TTLL quân sự. Tiêu biểu là đã tham mưu, đề xuất để Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh chỉ đạo nâng cấp, mở rộng hệ thống TTLL quân sự theo hướng đi thẳng vào công nghệ tiên tiến, có bước phát triển mới về chất ở cả ba cấp: Chiến lược, chiến dịch, chiến thuật. Xác định truyền dẫn là xương sống của hệ thống, cùng với quy hoạch, phát triển các tuyến trục cáp quang, đã chủ động bổ sung kết nối ngang giữa các tuyến trục, mở rộng các tuyến nhánh đến các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương trong cả nước. Phát triển và khai thác có hiệu quả mạng truyền số liệu quân sự, làm nền tảng cho thực hiện tự động hoá chỉ huy ở các cấp. Đầu tư, đổi mới trang bị vô tuyến điện hiện đại có tính năng thông minh đáp ứng yêu cầu bảo đảm TTLL trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Triển khai đồng bộ, tiết kiệm, hiệu quả mạng thông tin vệ tinh VSAT nhằm bảo đảm TTLL, truyền hình cho các nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo và biên giới quốc gia. Triển khai và phủ sóng rộng khắp mạng thông tin di động quân sự (Trunking) tại các khu vực tỉnh, thành phố trọng điểm, phục vụ nhiệm vụ A2, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống thiên tai bão lụt và các nhiệm vụ khác đã góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ thường xuyên, các hoạt động lớn của Đảng, Nhà nước, các cuộc diễn tập lớn của Bộ quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn chỉ đạo bảo đảm TTLL, sẵn sàng chiến đấu, Bộ Tham mưu Binh chủng TTLL đã chủ động đề xuất xây dựng biểu tổ chức biên chế các cơ quan Bộ Tư lệnh; xây dựng, chỉ đạo các đơn vị thông tin trực thuộc thực hiện tổ chức biên chế đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ hỗn hợp theo địa bàn; tham mưu xây dựng tổ chức biên chế lực lượng thông tin toàn quân theo hướng tinh, gọn, cơ động, có sức chiến đấu cao. Bên cạnh đó, tích cực chỉ đạo các đơn vị thực hiện công tác huấn luyện chiến đấu theo đúng phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế nhiệm vụ, bảo đảm “giỏi về thông tin truyền thống, tinh nhuệ về thông tin cơ động, làm chủ khí tài thông tin công nghệ cao”... Cùng với việc tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tham mưu luôn quan tâm xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng; bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò các tổ chức trong đơn vị; thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội, đền ơn đáp nghĩa; quan tâm chăm lo chu đáo đời sống vật chất tinh thần của bộ đội; cảnh quan môi trường; thường xuyên giữ vững mối quan hệ đoàn kết, gắn bó với các cơ quan, đơn vị bạn... Trải qua 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Bộ Tham mưu Binh chủng đã được Đảng, Nhà nước, Quân đội trao tặng nhiều phần thưởng cao quý. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập, Bộ Tham mưu vinh dự đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba. Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam phát biểu tại Lễ kỷ niệm Phát biểu chỉ đạo tại buổi lễ, Trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam biểu dương và chúc mừng những thành tích, chiến công cán bộ, chiến sĩ Bộ Tham mưu Binh chủng TTLL đã đạt được trong suốt chặng đường 70 năm qua. Đồng chí yêu cầu, thời gian tới, Bộ Tham mưu tiếp tục tập trung giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội, Binh chủng TTLL và Bộ Tham mưu; kịp thời thông tin định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những tác động phức tạp của tình hình, qua đó nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng ủy, Bộ tư lệnh Binh chủng TTLL đề xuất với Đảng ủy, thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng về quy hoạch, phát triển hệ thống thông tin quân sự phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới. Tập trung điều chỉnh tổ chức, biên chế của cơ quan ngày càng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt đáp ứng yêu cầu quản lý, khai thác hệ thống thông tin hiện đại. Nâng cao chất lượng các dịch vụ, bảo đảm TTLL “Kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn” trong mọi tình huống. Tiếp tục triển khai có hiệu quả “Chiến lược phát triển hệ thống thông tin quân sự giai đoạn 2011 - 2020” gắn với ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phù hợp với thực tiễn, nhiệm vụ của đơn vị, góp phần xây dựng Binh chủng TTLL tiến thẳng lên hiện đại… Phương Thanh – Huy Phương

Chủ động, sáng tạo bảo đảm kỹ thuật toàn quân

TĐKT – Ngày 31/7, tại Hà Nội, Tổng cục Kỹ thuật (TCKT) Bộ Quốc phòng tổ chức Đại hội Thi đua Quyết thắng giai đoạn 2014 - 2019. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Bộ Quốc phòng dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu chỉ đạo Đại hội. Từ chủ trương “Thi đua phải thực chất, thiết thực, hiệu quả”, trong 5 năm qua, Đảng ủy, chỉ huy TCKT đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua với tinh thần “Đoàn kết, sáng tạo, quyết thắng”; tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp, thực sự là động lực giúp cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, người lao động nỗ lực vươn lên hoàn thành tốt và xuất sắc mọi nhiệm vụ. Các cấp, các ngành ra sức thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu chiến lược cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật quân sự. Nổi bật là tham mưu, đề xuất triển khai toàn diện 9 chương trình, với 7 dự án, đề án và 22 kế hoạch trọng điểm, thực hiện Nghị quyết 382/NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới. Phong trào thi đua Quyết thắng (TĐQT) của Tổng cục đã phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác chỉ đạo, bảo đảm kỹ thuật toàn quân; thường xuyên bảo đảm đủ số lượng, chất lượng, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), bảo vệ biển, đảo, biên giới, vùng trời và các nhiệm vụ đột xuất. Tổ chức xây dựng, triển khai thực hiện đồng bộ, sáng tạo 10 chương trình mục tiêu trọng điểm công tác kỹ thuật quân sự để giữ gìn, sử dụng lâu dài vũ khí trang bị kỹ thuật. Tổng cục đã thực hiện được 1 đề tài cấp Nhà nước, 12 đề tài, nhiệm vụ cấp Bộ Quốc phòng; 100 đề tài cấp tổng cục; 207 đề tài, nhiệm vụ kỹ thuật, gần 4.700 sáng kiến cải tiến kỹ thuật cấp cơ sở và trên cơ sở. Phong trào TĐQT đã hướng vào thực hiện các khâu đột phá, xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật tốt, SSCĐ cao. Các hoạt động thi đua trọng điểm được thực hiện tốt, góp phần thúc đẩy phong trào TĐQT trong toàn Tổng cục. Đặc biệt, các cấp trong Tổng cục chú trọng gắn xây dựng, nhân điển hình tiên tiến với thực hiện nhiệm vụ chính trị; đẩy mạnh Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ"; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, tạo điều kiện để điển hình tiên tiến trở thành điểm sáng, gương sáng trong cơ quan, đơn vị. Lãnh đạo TCKT trao thưởng tặng các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào TĐQT giai đoạn 2014 - 2019. Giai đoạn thi đua 2014 - 2019, Tổng cục Kỹ thuật có 1 tập thể và 1 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 40 tập thể được tặng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công; 117 tập thể được tặng Cờ thi đua Chính phủ, Cờ thi đua Bộ Quốc phòng, Cờ thi đua Tổng cục. 350 lượt tập thể đạt danh hiệu Đơn vị Quyết thắng; 36 cá nhân được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quân; 3.218 lượt cá nhân được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở; 133 lượt tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc được khen thưởng, tôn vinh tại Đại hội TĐQT. Phát biểu tại Đại hội, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng chúc mừng những thành tích xuất sắc của TCKT và biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong phong trào TĐQT của TCKT thời gian qua. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa yêu cầu Đảng ủy, chỉ huy TCKT và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tiếp tục quán triệt sâu sắc Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về TĐKT. Thường xuyên tổ chức tốt và gắn kết chặt chẽ các phong trào thi đua của TCKT với các cuộc vận động, phong trào TĐQT trong toàn quân; tập trung nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, nhân điển hình tiên tiến; lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực cho cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy, Hội đồng TĐKT và đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức tiến hành công tác TĐKT… Tại Đại hội, TCKT đã trao thưởng tặng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào TĐQT giai đoạn 2014 - 2019. Phương Thanh

Thành công từ hai bàn tay trắng

TĐKT - Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo thuần nông, xuất ngũ trở về với hai bàn tay trắng, ông Trương Đình Thống, xã Nghĩa Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đã mạnh dạn nhận khoán đất rừng, đào ao thả cá, nuôi lợn, trồng cam, quýt, gắn phát triển kinh tế gia đình với xây dựng mô hình du lịch sinh thái. Đến nay trang trại của ông không những cho thu nhập hàng chục tỷ đồng/năm mà còn giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương. Ông Trương Đình Thống chăm sóc vườn cam của gia đình Năm 1992, gia đình ông bắt đầu làm kinh tế trang trại, ông nhận 11 ha đất trống, đồi trọc để trồng rừng và trồng cây ăn quả, thầu 3 ha hồ đập để nuôi cá. Những năm đầu làm kinh tế, thu nhập từ ao cá không đáng là bao, mỗi năm khoảng 10 triệu đồng, chỉ đủ trang trải cuộc sống gia đình và trả lãi cho ngân hàng. Không chịu khuất phục trước khó khăn, năm 2006, học tập mô hình nuôi lợn siêu nạc theo hướng công nghệ cao của bà con ở Đồng Nai, gia đình ông bắt đầu xây dựng trang trại chăn nuôi với số vốn 1,2 tỷ đồng. Ông xây dựng 1.200 m2 chuồng trại gồm 3 dãy chuồng, nuôi 100 lợn nái đẻ, 500 con lợn thịt và 3 con lợn đực giống. Để tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả, ông đã đầu tư xây dựng hệ thống bể khí biogas khép kín, dùng chất thải của lợn để làm chất đốt, chạy máy nổ phát điện, sưởi ấm vào mùa đông cho lợn... Với mô hình này, mỗi năm trang trại cho xuất chuồng từ 1.000 – 1.200 con lợn thịt, tổng thu 5 tỷ đồng, trừ các khoản chi phí, thu lãi từ chăn nuôi lợn đạt 500 – 550 triệu đồng/năm. Sản phẩm phụ của lợn, ông dùng để chăm sóc 3 ha ao cá, cây ăn quả, mỗi năm thu lãi từ 200 – 250 triệu đồng. Năm 2013, sau khi đi tham quan mô hình trồng quýt PQ1 của Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả và cây công nghiệp Phủ Quỳ, ông đã mạnh dạn cải tạo 5,5 ha đất để trồng loại cây ăn quả có múi này. Do tận dụng được phân lợn để làm phân bón cho cây nên chi phí ban đầu của gia đình bỏ ra để đầu tư cũng giảm đi phần nào. Điểm đặc biệt, vườn cam, quýt của ông áp dụng quy trình tưới cây nhỏ giọt ứng dụng công nghệ cao của ISRAEL. Mùa thu hoạch đầu tiên sau khi đã trừ chi phí, ông lãi 600 triệu đồng. Ông cho biết: Mặc dù chi phí đầu tư theo phương pháp tưới nhỏ giọt ISRAEL ban đầu khá cao, song chi phí đầu vào giảm được 3 lần so với tưới tràn. Trong điều kiện thời tiết hạn hán như những năm gần đây, áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với công nghệ này, giúp tiết kiệm 90% công lao động, trên 70% chi phí điện – nước và 30% lượng phân bón, đặc biệt không lo thiếu nước tưới. Ngoài những nguồn thu nhập từ trại lợn, ao cá, vườn quýt PQ1, ông còn trồng thêm bưởi hồng Quang Tiến, giống cam chín muộn để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng mỗi dịp tết. Ông còn kết hợp trồng 10 ha keo; trồng 2 ha cỏ voi bán cho trang trại bò sữa Vinamilk. Hàng năm, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi từ trang trại xấp xỉ 1,2 tỷ đồng/năm, giải quyết việc là thường xuyên cho 20 lao động với mức lương từ 4 – 6 triệu đồng và 30 – 50 lao động thời vụ. Chia sẻ về những kinh nghiệm làm ăn của mình, ông Trương Đình Thống cho hay, là một nông dân, trước hết là phải tiết kiệm những cái nhỏ nhất, đồng thời phải biết trồng cây gì, nuôi con gì để phù hợp với điều kiện tự nhiên thổ nhưỡng của địa phương và mạnh dạn mở rộng quy mô, phát triển đa dạng các loại hình sản xuất. Ngoài ra, phải biết cập nhật tin tức về giá cả, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hội Nông dân tỉnh Nghệ An thăm trang trại của ông Trương Đình Thống Mô hình trang trại của gia đình ông đã được nhiều gia đình trong và ngoài xã đến tham quan, học hỏi. Để các hộ gia đình trên địa bàn có điều kiện phát triển kinh tế, ông Thống đã trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật và cung cấp con giống cho 5 mô hình kinh tế VAC. Đến nay, những mô hình này đã đi vào hoạt động và bước đầu cho hiệu quả kinh tế thiết thực. Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế gia đình, ông còn tham gia và hoàn thành tốt các công tác xã hội. Đặc biệt trong 3 năm (2012 - 2014), Nghĩa Long được làm điểm xây dựng nông thôn mới, gia đình ông đã hỗ trợ máy múc, máy lu, xe chở đất làm đường trị giá khoảng 150 triệu đồng. Ngoài ra, với các cuộc vận động ủng hộ, gia đình ông đều tích cực hưởng ứng và tham gia đóng góp đầu tiên. Ông vinh dự được trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về thành tích trong phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi giai đoạn 2007 - 2011; Giấy khen của UBND huyện, Bằng khen của UBND tỉnh Nghệ An về thành tích xuất sắc trong phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi, giai đoạn 2012 - 2016. Năm 2017, ông Trương Đình Thống là 1 trong 87 nông dân được tặng danh hiệu “ nông dân Việt Nam xuất sắc 30 năm đổi mới”. Nguyệt Hà

Vượt khó xây dựng nông thôn mới nơi vùng cao biên giới

TĐKT - Vượt lên những khó khăn của một xã nghèo vùng cao biên giới, những năm qua, Chủ tịch UBND xã Tam Quang Hồ Viết Sơn đã cùng tập thể Đảng ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo, vận động bà con các dân tộc trên địa bàn đoàn kết, phát huy nội lực, chung tay xây dựng nông thôn mới (NTM). Với sức mạnh của “Ý Đảng – lòng dân”, năm 2017, Tam Quang đã trở thành xã biên giới đầu tiên của tỉnh Nghệ An đạt chuẩn NTM. Ông Hồ Viết Sơn, Chủ tịch UBND xã Tam Quang (ngoài cùng bên trái) đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM Xã Tam Quang thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, có đường biên giới tiếp giáp với nước bạn Lào dài 24 km và 5 cột mốc quốc giới. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 37.523,53 ha, địa hình rừng núi phức tạp, hiểm trở. Dân số 1.888 hộ/ 7.580 khẩu; có 5 dân tộc: Thái, Kinh, Khơ Mú, Đan Lai và Tày Poọng (trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 73,45%). Đảng bộ xã có 18 chi bộ trực thuộc, với 404 đảng viên. Cũng như nhiều xã miền núi của tỉnh, Tam Quang bắt tay vào xây dựng NTM với điểm xuất phát thấp. Năm 2012, xã mới đạt 4/19 tiêu chí NTM, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt trên 11 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 59,74% dân số toàn xã. “Làm sao và đến bao giờ thì Tam Quang sẽ đạt chuẩn NTM” – câu hỏi ấy trở thành niềm trăn trở hàng đêm của người lãnh đạo xã nghèo Hồ Viết Sơn. Ông Hồ Viết Sơn, Chủ tịch UBND xã cho biết: Ngay từ những ngày đầu triển khai, Đảng ủy, chính quyền xã đã xác định quan điểm “Xây dựng NTM là xây dựng nông thôn phát triển bền vững và toàn diện trên mọi mặt, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân...”. Phương châm được đặt ra là: “Tiêu chí nào dễ làm, ít kinh phí, làm tiền đề để xây dựng các tiêu chí khác thì tập trung làm trước; những công việc nào nhân dân tự làm được thì huy động sức dân để thực hiện”... Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND xã Hồ Viết Sơn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với Đồn Biên phòng Tam Quang đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ cây, con giống để nhân dân biên giới phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xây dựng mô hình kinh tế cho thu nhập ổn định. Để tăng cường lực lượng cán bộ, Đảng viên bám bản, giúp dân, ông tham mưu, phối hợp với Đảng ủy, Ban chỉ huy Đồn Biên phòng Tam Quang và Đảng ủy xã quan tâm, tạo điều kiện để cán bộ bộ đội biên phòng giữ chức danh Phó Bí thư Đảng ủy xã và đảng viên Đồn Biên phòng Tam Quang về sinh hoạt tạm thời tại các chi bộ bản. Họ đã phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, củng cố quốc phòng – an ninh, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao. Diện mạo NTM Tam Quang đổi thay từng ngày với đường làng, ngõ xóm được bê tông hóa, phong quang, sạch sẽ Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, phong trào thi đua xây dựng NTM lan tỏa rộng khắp tại Tam Quang. Trong 5 năm thực hiện phong trào xây dựng NTM, chính quyền xã đã huy động được gần 59 tỷ đồng để xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, trong đó nhân dân đóng góp 16 tỷ đồng. Người dân được hỗ trợ, tạo điều kiện vay gần 90 tỷ đồng từ các nguồn vốn ưu đãi để phát triển kinh tế, tạo sinh kế góp phần giảm nghèo. Ngoài 100 hộ kinh doanh tổng hợp dọc quốc lộ 7 và ngã ba Khe Bố, xã Tam Quang còn xuất hiện hàng chục hộ làm trang trại nông lâm, chăn nuôi cho thu nhập từ 70 đến 100 triệu đồng/năm. Tiêu biểu là mô hình của ông Tống Văn Chiến ở bản Bãi Sở, trồng 400 gốc thanh long, nuôi 20 con lợn rừng, năm con bò; mô hình cải tạo vườn cây ăn quả kết hợp chăn nuôi của gia đình ông Lê Đăng Dần... Các mô hình kinh tế này đang đỡ đầu cho nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số về cây, con giống và kỹ thuật để nhân rộng ra nhiều bản. Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người của xã từ dưới 10 triệu đồng năm 2010 đã tăng lên trên 26 triệu đồng (năm 2017), gấp 2,5 lần. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 4,18%. Các mặt về đời sống văn hóa, giáo dục, y tế của địa phương có nhiều chuyển biến tích cực. Các loại tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn biên giới xã Tam Quang từng bước được kiềm chế và đẩy lùi. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa bàn biên giới được giữ vững ổn định. Xã nhiều năm liền được cấp trên công nhận đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”.  Với sự quyết tâm của cán bộ và nhân dân toàn xã, đến tháng 12/2017 xã Tam Quang đạt 19/19 tiêu chí NTM - là xã biên giới đầu tiên của tỉnh đạt chuẩn NTM và về đích trước 2 năm so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã đề ra. Đảng bộ xã Tam Quang nhiều năm liền đạt trong sạch vững mạnh, đặc biệt có 7 năm liền (2011 – 2017) đạt “Đảng bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu” được Tỉnh ủy tặng Bằng khen. Phương Thanh

Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin (VITE) nhiều chiến lược hoạt động trong tình hình mới

TĐKT - Với một hệ thống cơ sở vật chất hùng hậu, đội ngũ cán bộ nhân viên giàu nhiệt huyết và sáng tạo, công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin (VITE)  tiếp tục được đánh giá là đơn vị tư vấn đi đầu trong cụ thể hóa chủ trương xuyên suốt của lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam về kết hợp hài hòa giữa sản xuất với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững thông qua nhiều dự án mang tầm vóc chiến lược. Thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Giám đốc Công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường Vinacomin Nguyễn Tam Tính cho biết, mặc dù phải đối mặt với không ít những khó khăn do nền kinh tế đất nước nói chung cộng với những thay đổi về mặt cơ cấu, tổ chức của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam nói riêng, tuy vất vả nhưng cán bộ, công nhân viên công ty CP Tin học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin vẫn không ngừng nỗ lực, chung sức, đồng lòng, đưa ra nhiều nhóm giải pháp quyết liệt trong từng phần việc để thi đua vượt khó. VITE đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba Chính bởi phương châm, tinh thần làm việc ấy nên năm 2018 Công ty vẫn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh (SXKD) bằng những con số rất đẹp. Kết quả, doanh thu 165,765 tỷ đồng bằng 104% so với kế hoạch (KH), lợi nhuận 6,78 tỷ đồng, bằng 101% KH và thu nhập bình quân 12,72 triệu đồng/người/tháng, bằng 104% KH. Đồng thời, công ty cũng duy trì thực hiện tốt việc đảm bảo các chế độ chính sách đối với người lao động, đã sửa đổi và ban hành mới quy chế quản lý lao động tiền lương, quy chế khoán chi phí và phân phối tiền lương… Thêm vào đó, công ty đã xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá cán bộ, công nhân viên - KPIs làm cơ sở đánh giá năng lực, ý thức chấp hành kỷ luật lao động của từng nhân viên, từ đó đề xuất sắp xếp tổ chức nhân sự cho phù hợp với tình hình thực tế. Ban Thường vụ Đảng ủy khối công nghiệp Hà Nội thăm phòng thí nghiệm của VITE Nhìn chung các lĩnh vực hoạt động của công ty năm 2018 đều ghi được những dấu ấn riêng. Tiêu biểu, trong công tác tư vấn địa chất, công ty đã được Hội đồng trữ lượng quốc gia phê duyệt báo cáo tổng hợp tài liệu và tính lại trữ lượng trong ranh giới giấy phép khai thác, báo cáo kết quả thăm dò cho nhiều đơn vị. Đồng thời, hoàn thành 7 đề án thăm dò (Mạo Khê, Đồng Vông - Uông Thượng…); hợp tác có hiệu quả với Nhật Bản trong lập cơ sở dữ liệu địa chất khu vực Nam Mẫu, Quảng Ninh. Với thi công khảo sát thăm dò, Công ty đã hoàn thành hơn 23.000 m khoan tại các đề án thăm dò bổ sung (Than Dương Huy, Tràng Bạch - Uông Bí…), đảm bảo an toàn, tiến độ, chất lượng, được TKV và các chủ đầu tư đánh giá cao.  Đặc biệt, trong lĩnh vực môi trường, công ty hoàn thành việc quan trắc môi trường và phân tích mẫu cho TKV và 22 đơn vị trong và ngoài ngành. Hơn hết, công ty đã vận hành có hiệu quả trạm quan trắc môi trường tự động của TKV. Ngoài ra, công ty đã tiếp tục mở rộng và duy trì có hiệu quả hoạt động của Phòng thí nghiệm phân tích các chỉ tiêu môi trường, chỉ tiêu cơ lý đá, hóa than đã được Văn phòng công nhận chất lượng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ gia hạn Chứng chỉ công nhận phòng thí nghiệm phù hợp với các yêu cầu của ISO/IEC 17025:2005, mã số VILAS 588; hoàn thành 3 đề tài nghiên cứu khoa học cấp tập đoàn… Bên cạnh những cơ hội, nhận diện rõ những khó khăn phải đối mặt, công ty đã xây dựng mục tiêu điều hành “Xây dựng một tập thể đoàn kết, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh linh hoạt, đảm bảo tăng trưởng, tiếp tục mở rộng ngành nghề sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài ngành than, đảm bảo công ty tiếp tục phát triển ổn định, bền vững trong năm 2019 và những năm tiếp theo”. Chú trọng phát triển các dịch vụ môi trường Trải qua chặng đường 20 năm phát triển và trưởng thành, phát huy thế mạnh của mình, từ năm 2011, nhận biết tầm quan trọng của hoạt động quan trắc, giám sát phân tích trong bảo vệ môi trường, Công ty VITE đã thành lập Phòng Thí nghiệm nhằm hỗ trợ cho công tác quan trắc giám sát môi trường không khí (không khí xung quanh, môi trường lao động) và môi trường nước (nước mặt, nước ngầm, nước thải). Phòng Thí nghiệm VITE được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường mã số VIMCERTS 030 (theo quy định tại Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ) và được Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Chứng chỉ công nhận mã số VILAS 588, công nhận 56 phép thử của lĩnh vực hóa và lĩnh vực cơ lý đá hóa than. Máy khoan xy4402 trên công trường khoan Hàng năm, Công ty VITE ký hợp đồng thực hiện Chương trình quan trắc, giám sát chất lượng môi trường cho gần 40 đơn vị trong và ngoài TKV, trong đó duy trì hoạt động quan trắc giám sát môi trường xung quanh tại nơi sản xuất của TKV ở các tỉnh (Quảng Ninh, Lào Cai, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Tây Nguyên). Các báo cáo quan trắc môi trường cho các đơn vị đều đảm bảo tính chính xác, thời gian và chất lượng. Thiết bị phục vụ công tác quan trắc, phân tích môi trường với hơn 60 thiết bị, trong đó có các máy hiện đại, độ chính xác cao như: Máy quang phổ hấp thu nguyên tử tự động với kỹ thuật lò graphit (AAS/GF), UV vis DR 600... Ngoài ra, TKV còn giao Công ty VITE vận hành 5 trạm quan trắc môi trường tự động (4 trạm khí, 1 trạm nước biển ven bờ). Giám đốc VITE cho biết thêm, qua báo cáo kết quả quan trắc giám sát, do sự tư vấn có hiệu quả, các đơn vị sản xuất đã biết và nắm rõ diễn biến môi trường để thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường. Thông qua báo cáo kết quả quan trắc giám sát môi trường định kỳ giúp các đơn vị sản xuất chủ động theo hướng sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường, ứng dụng khoa học và công nghệ, giảm tác động đến môi trường, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhất là trong xu thế ngày càng có nhiều nước thúc đẩy và triển khai các chương trình quốc gia về mua sắm, tiêu dùng xanh. Phát huy những thành quả đã đạt được, VITE tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đấy chính là hướng đi chủ yếu trong những năm tiếp theo. Song hành với đó chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, mang lại yếu tố quyết định tạo ra sản phẩm tư vấn có chất lượng cao, đáp ứng tiến độ cho các chủ đầu tư đưa đến thành công cho công ty. Thời gian tới, VITE sẽ tiếp tục tăng cường cử cán bộ chủ chốt đi học tập, nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm nâng cao các trình độ bậc tiến sĩ, thạc sĩ, quản lý cấp cao, cấp trung, bồi dưỡng nghiệp vụ... Bên cạnh đó, sẽ có những chính sách, quy định cụ thể để người lao động chủ động hơn nữa ở từng vị trí đảm nhiệm. Yêu cầu cán bộ, nhân viên tự nâng cao trình độ trong lĩnh vực đấu thầu, cử cán bộ có trình độ chuyên môn, am hiểu về các lĩnh vực hoạt động của phòng, thực hiện đúng Quy trình tìm kiếm công việc trên Báo Đấu thầu, lập và tham gia dự thầu do công ty ban hành; đồng thời tăng cường học tập để nâng cao: Nghiệp vụ quản lý, điều hành, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ thuật chuyên sâu; tích cực nghiên cứu đề tài, đăng ký xác nhận bản quyền sở hữu trí tuệ. Với những nỗ lực không ngừng, Công ty VITE đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Hồng Thiết

Công đoàn Việt Nam đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ ba

TĐKT - Sáng 28/7, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 – 28/7/2019) với chủ đề “Vinh quang giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam” và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ ba. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu ý kiến. Tới dự có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Đồng chí Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Công an; Hoàng Trung Hải, Bí thư Thành ủy TP Hà Nội; các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng: Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Trần Cẩm Tú, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Phan Đình Trạc, Trưởng Ban Nội chính Trung ương; Đại tướng Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao. Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Đặng Thị Ngọc Thịnh, Phó Chủ tịch nước; Uông Chu Lưu, Phó Chủ tịch Quốc hội; Bùi Văn Cường, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam, Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới; Nguyễn Đình Khang, Bí thư Đảng đoàn Tổng LĐLĐ Việt Nam. Trải qua 9 thập kỷ hình thành và phát triển, Công đoàn Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, đồng hành cùng dân tộc, là lực lượng và chỗ dựa tin cậy, trung thành của Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng phấn đấu vì quyền lợi của giai cấp công nhân, người lao động và đã có những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao Huân chương Hồ Chí Minh tặng tập thể Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chúc mừng, biểu dương những nỗ lực, cố gắng to lớn của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong cả nước. Đồng thời khẳng định: Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam là nền tảng chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội tiên phong trong xây dựng, chỉnh đốn, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; là chỗ dựa vững chắc và cầu nối giữa công nhân, người lao động với Đảng và Nhà nước. Công đoàn Việt Nam luôn là lực lượng tiên phong, đóng vai trò trung tâm trong đời sống chính trị của đất nước. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Hiện nay, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra cho đất nước ta và tổ chức công đoàn những thời cơ và thách thức mới. Việc thực hiện các cam kết quốc tế về lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đòi hỏi Công đoàn Việt Nam phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện để tiếp tục giữ vững và phát huy thành quả to lớn và truyền thống vẻ vang 90 năm xây dựng và trưởng thành; đồng thời, phải khẳng định được vai trò chủ lực, định hướng, dẫn dắt phong trào công nhân cả nước trong tình hình mới. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn luôn kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trò và sứ mệnh ấy, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, giai cấp công nhân phải thực sự lớn mạnh, tổ chức Công đoàn Việt Nam phải không ngừng đổi mới. Xây dựng giai cấp công nhân “có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao” là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và toàn xã hội, trong đó tổ chức công đoàn có vai trò, trách nhiệm quan trọng. Để đạt được mục tiêu này, Thủ tướng yêu cầu các cấp công đoàn, trước hết là Tổng LĐLĐ Việt Nam tiếp tục nắm vững và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là Nghị quyết 20 “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nắm bắt tình hình việc làm, thu nhập, đời sống; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người lao động và cán bộ công đoàn để xây dựng các chương trình, kế hoạch công tác sát hợp, khoa học, khả thi và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước các vấn đề liên quan đến việc làm, đời sống của người lao động và tổ chức, hoạt động của Công đoàn Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại buổi lễ Thực hiện tốt chức năng cơ bản, cốt lõi của tổ chức Công đoàn là đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Coi đây là nội dung then chốt để thu hút đông đảo người lao động tham gia, ủng hộ, tin tưởng và gắn bó với tổ chức Công đoàn. Nâng cao hiệu quả phương thức đối thoại, thương lượng tập thể, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ tại doanh nghiệp. Quan tâm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; huy động các nguồn lực chăm lo cho người lao động, nhất là lao động thu nhập thấp gắn với bảo đảm an sinh xã hội. Chủ động đề xuất giải pháp, kiến nghị chính sách với Nhà nước, phối hợp tổ chức đại diện người sử dụng lao động và vận động toàn thể người lao động cùng thực hiện tốt “Tuyên bố Thế kỷ về tương lai việc làm của Tổ chức Lao động Quốc tế năm 2019” với tinh thần: Thực hiện hiệu quả việc học tập suốt đời và giáo dục chất lượng cho mọi người; an sinh xã hội đầy đủ và bền vững; tôn trọng các quyền cơ bản của người lao động; mức lương đủ sống; hạn chế số giờ làm việc tối đa; an toàn - vệ sinh lao động tại nơi làm việc; khả năng đạt được cân bằng giữa công việc và cuộc sống tốt hơn. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động công đoàn. Tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi mà đoàn viên, người lao động quan tâm, đồng thời mang lại những lợi ích trước mắt, lâu dài, hài hòa cho người lao động, người sử dụng lao động và cho đất nước. Nội dung hoạt động phải thiết thực, phù hợp với điều kiện làm việc, ngành nghề, nhận thức của từng đối tượng đoàn viên, người lao động. Phương thức hoạt động cần linh hoạt, đa dạng, hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; bám sát cơ sở và phục vụ người lao động; phong trào phải thiết thực, hấp dẫn, được người lao động đón nhận, tham gia. Thường xuyên giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp. Xây dựng nguồn lực công đoàn đủ mạnh, đáp ứng nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, xã hội và toàn thể công nhân, viên chức, người lao động tin tưởng, giao phó. Tại buổi lễ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã trao Huân chương Hồ Chí Minh (lần thứ ba), phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước trao tặng Công đoàn Việt Nam. Mai Thảo

Người thương binh mù hai mắt với ý chí kiên cường vượt lên chính mình

TĐKT - 20 tuổi, theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông Lê Hữu Trạc (sinh năm 1941, tại thôn Xuân Ninh, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) đã lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc đời ông giống như một bản tình ca đẹp về ý chí và nghị lực phi thường, không còn đôi mắt sáng nhưng ý chí, nghị lực của ông luôn sáng như sao. Cuộc chiến tranh đau thương đã đi qua, mang trên mình thương tật với đôi mắt mù vĩnh viễn nhưng người thương binh Lê Hữu Trạc luôn lạc quan, yêu đời và sống hết mình vì lý tưởng cách mạng với ý chí, nghị lực của anh bộ đội Cụ Hồ, “thương binh tàn nhưng không phế”. Thương binh Lê Hữu Trạc tại buổi giao lưu Gặp mặt tuyên dương thương binh nặng tiêu biểu toàn quốc năm 2019 Ông Lê Hữu Trạc vẫn nhớ như in cuộc chiến đấu khốc liệt năm xưa. Ngày mới nhập ngũ, ông được phân về Đại đội Lê Hồng Phong, Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 341. Tuyến lửa Vĩnh Linh là nơi đơn vị ông đóng quân. Đại đội Lê Hồng Phong là đơn vị bảo vệ giới tuyến 17, vì vậy mỗi cán bộ, chiến sĩ của đơn vị luôn được xem như những hạt giống đỏ của sư đoàn. Năm 1965, Mỹ đánh phá ra miền Bắc và đảo Cồn Cỏ luôn nằm trong tầm ngắm xâm chiếm của địch. Bởi lúc bấy giờ địch xem đảo Cồn Cỏ như “mắt thần trên biển”. Cồn Cỏ trở thành vị trí tiền tiêu cho cả miền Bắc trong kháng chiến bởi vì khi vĩ tuyến 17 chia đôi hai miền đất nước thì vị trí của đảo Cồn Cỏ nằm vào 17008’15’’ tới 17010’05’’ vĩ độ Bắc gần như liền kề với đường giới tuyến.  Âm mưu của địch là chiếm đảo Cồn Cỏ để làm bàn đạp thâm nhập vào hậu phương miền Bắc, đồng thời tất cả máy bay khi bay ra miền Bắc ném bom đều phải bay qua đảo Cồn Cỏ, vì vậy Cồn Cỏ trở thành mục tiêu hủy diệt, xâm chiếm của địch. Năm 1965, lãnh đạo Đại đội Lê Hồng Phong nhận lệnh của cấp trên lựa chọn một Trung đội lên đường ra giữ đảo Cồn Cỏ. Tất cả các Trung đội trong Đại đội Lê Hồng Phong đều viết tâm thư bằng máu xin ra bảo vệ đảo. Tất cả người lính đều xung phong với tinh thần bất khuất. Trong chuyến hành trình ra đảo Cồn Cỏ để chiến đấu, giữ vững đảo, ông và các đồng đội trước khi ra đảo phải cạo trọc đầu để khỏi phải gội đầu, bớt việc tiếp tế cho hậu phương vì ở đảo rất hiếm nước ngọt. Khi tất cả các Trung đội đều viết tâm thư bằng máu, thì sáng kiến cạo trọc đầu của đơn vị Lê Hữu Trạc đã giúp lãnh đạo đơn vị dễ dàng hơn trong việc lựa chọn những người ra đảo. Lúc đầu Trung đội của Lê Hữu Trạc được phân công ra giữ đảo 2 tháng, nhưng sau đó, lãnh đạo đơn vị quyết định để toàn Trung đội ở lại tiếp tục giữ đảo bởi như lời lãnh đạo của Sư đoàn 341 “nếu đơn vị nào cũng như Đại đội Lê Hồng Phong thì không cần Chính trị viên làm công tác tư tưởng”. Khi nhắc về ngày đầu ấy, ông vẫn nhớ như in và cảm tưởng như mới diễn ra đâu đây, ký ức ùa về làm ông không khỏi xúc động. Ông nhớ rõ từng chi tiết, ngày đấy Trung đội chỉ có 30 người, ngoài nhiệm vụ chiến đấu, những người lính trên đảo còn phải xây dựng đảo trở thành một trạm ra đa trên biển của miền Bắc; hàng ngày, phải nắm được số lượng tàu địch tăng hay giảm, lượng máy bay cất cánh ra bắn phá miền Bắc… Mặc dù trở thành mục tiêu hủy diệt, song kỳ lạ thay dù đạn bom thiêu sạch cây cỏ, đảo thân trần trơ trụi ra giữa nắng giữa gió nhưng những con người trên đảo vẫn kiên gan bám trụ. Có lúc địch đưa tàu bao vây đảo, suốt 6 tháng liền các tàu tiếp tế của ta không thể ra đảo, ông Lê Hữu Trạc luôn động viên đồng đội “Thà hy sinh chứ không để mất đảo”. Từ những lời động viên của Trung đội trưởng bộ binh Lê Hữu Trạc, anh em trên đảo đã luôn giữ vững khí thế chiến đấu với kẻ thù. Chỉ trong vòng 3 năm, từ 1965 đến 1968, các đơn vị bộ đội đóng trên đảo Cồn Cỏ đã bắn hạ được 48 máy báy (trong đó 29 chiếc rơi tại chỗ), bắn cháy 17 tàu chiến và 2 thuyền của địch. Nhiều đồng đội của ông Lê Hữu Trạc đã được phong thành Anh hùng, chính họ đã góp chiến công làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng bất diệt của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Đó là trinh sát Anh hùng Thái Văn A lên đài quan sát, mặc dù bị thương do mảnh bom của máy bay Mỹ, anh đã tự băng bó vết thương để bám trụ chứ nhất định không chịu rời trận địa, tiếp tục quan sát hoạt động máy bay địch, góp phần cùng đơn vị bắn rơi hai máy bay vào ngày 11/3/1965. Người lính pháo binh Nguyễn Tăng Mật bị pháo địch vùi lấp, nhưng khi vừa tỉnh lại lên trận địa, thấy 2 khẩu pháo bị hỏng từng bộ phận, anh đã dùng bộ phận của khẩu pháo này đưa sang khẩu pháo kia để khẩu pháo vẫn tiếp tục hiên ngang giáng vào đầu địch. Đó còn là anh hùng Cao Văn Khang, người lính công binh đã hiên ngang đi lại giữa mưa bom bão đạn của kẻ thù để gỡ từng quả bom nổ chậm, từng quả ngư lôi của địch để bảo vệ an toàn cho đồng đội... Năm 1966, ông Lê Hữu Trạc và đồng đội trên đảo Cồn Cỏ vui mừng nhận thư khen ngợi, động viên của Bác Hồ, và Cồn Cỏ được phong tặng danh hiệu Anh hùng. Đầu năm 1968, ông Lê Hữu Trạc được đơn vị phân công về đất liền làm Đại đội trưởng Đại đội Lê Hồng Phong. Cùng với đồng đội của mình, ông lại tiếp tục xây dựng đơn vị Lê Hồng Phong trở thành đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng vào năm 1968. Tháng 5/1968, ông Lê Hữu Trạc được phân công làm Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 4, E270, Quân khu IV. Bất cứ ở vị trí công tác nào, ông Lê Hữu Trạc đều thể hiện rõ sự gan dạ, sáng suốt của người chỉ huy đơn vị, người luôn được đồng đội nể phục, kính trọng. Cuối năm 1968, địch lên kế hoạch âm mưu đổ bộ ra miền Bắc, trách nhiệm của đơn vị ông lại hết sức nặng nề. Là đơn vị đóng ở giới tuyến nên ông và đồng đội luôn phải đi trinh sát ngay trước họng súng quân thù. Tháng 7/1968, trong lúc đi nghiên cứu địa hình chống địch đổ bộ bằng đường không vào Vĩnh Linh, Quảng Trị, ông Lê Hữu Trạc đã bị bom đạn kẻ thù cướp đi 2 con mắt. Phải xa đồng đội để về lại tuyến sau, nhiều ngày đêm Lê Hữu Trạc giấu nước mắt vào trong gối. Sau khi về lại tuyến sau an dưỡng vết thương, ông đã về lại Quảng Bình lập gia đình và có 3 người con. Mặc dù không nhìn thấy bằng đôi mắt nhưng ông Trạc vẫn cần mẫn làm việc và vượt khó đi lên. Đến năm 2000, ông làm tờ trình gửi lãnh đạo tỉnh Quảng Bình thành lập Hội người mù của tỉnh. Để rồi từ khi có hội người mù, hàng trăm thương binh bị mù hoặc con em thương, bệnh binh, cũng như nhiều cháu bị khiếm thị đã có công ăn việc làm, tự nuôi sống bản thân mình. Mặc dù ở tuổi 78 nhưng ông luôn tìm cách đến động viên con em nhiều gia đình nghèo trong xóm, ngoài thôn cố gắng tu chí học hành và rèn luyện, nhắc nhở con cháu luôn ghi nhớ công ơn của các thế hệ cha ông đi trước. Với những nỗ lực không mệt mỏi, hy sinh, cống hiến cho đời, thương binh Lê Hữu Trạc đã được trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tại buổi Gặp mặt tuyên dương thương binh nặng toàn quốc năm 2019. Ông chính là 1 trong 72 gương thương binh nặng tiêu biểu được biểu dương vào ngày 25/7/2019. Hồng Thiết  

Trang