Quy định một số nội dung về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
TĐKT - UBND tỉnh Tây Ninh vừa ban hành Quyết định số 35/2018/QĐ-UBND ban hành Quy chế về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quy chế quy định những nội dung chung về công tác thi đua, khen thưởng; tổ chức thi đua, danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua; hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng; thẩm quyền quyết định, tuyến trình, trao tặng, hồ sơ thủ tục, thời gian xét danh hiệu thi đua và khen thưởng; Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp, Hội đồng Đánh giá mức độ ảnh hưởng sáng kiến. Quy chế nêu rõ, các tập thể, cá nhân khi tham gia phong trào thi đua phải thực hiện đăng ký thi đua. Hằng năm, các Khối Thi đua, các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức đăng ký thi đua hoặc ký kết giao ước thi đua trong khối, trong cơ quan, đơn vị, địa phương. Nội dung đăng ký thi đua bao gồm các chỉ tiêu thi đua và đăng ký các danh hiệu thi đua thuộc thẩm quyền quyết định của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương; Ủy ban nhân dân tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. UBND tỉnh yêu cầu, khi xét, công nhận danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng phải phù hợp với đối tượng, chức năng, nhiệm vụ được giao của tập thể, cá nhân và thành tích đạt được, lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn làm tiêu chí chính khen thưởng. Phải đảm bảo đầy đủ hồ sơ, điều kiện và tỷ lệ, báo cáo thành tích phải thực hiện theo mẫu đã quy định và bám sát tiêu chuẩn khen thưởng. Khi xét công nhận danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải xem xét đến thành tích của tập thể do người đó phụ trách. Trong cùng 1 năm, đối với các cá nhân là lãnh đạo đơn vị tham gia các Ban Chỉ đạo, Hội đồng cấp tỉnh, được tặng không quá 2 Bằng khen thành tích trong thực hiện chuyên đề do các Ban Chỉ đạo, Hội đồng phụ trách (tính theo thời gian ban hành Quyết định khen thưởng). Ngoài ra, UBND tỉnh quy định rất rõ các trường hợp không xét, công nhận danh hiệu thi đua và khen thưởng. Theo đó, tập thể, cá nhân và người đứng đầu cơ quan, đơn vị của chủ đầu tư, ban quản lý dự án vi phạm việc báo cáo quyết toán dự án hoàn thành theo quy định của cơ quan chức năng; tập thể, người đứng đầu và cá nhân là người được giao trách nhiệm phụ trách công nghệ thông tin khi việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đơn vị, địa phương bị cơ quan chuyên môn đánh giá xếp loại từ mức trung bình trở xuống; người đứng đầu và cá nhân là người được giao trách nhiệm phụ trách công tác cải cách hành chính của đơn vị, địa phương khi kết quả xếp hạng Chỉ số Cải cách hành chính bị đánh giá thực hiện từ mức trung bình trở xuống; đơn vị, địa phương có kết quả đánh giá thực hiện Chỉ số Cải cách hành chính kém. Ngoài ra, tập thể và người đứng đầu đơn vị thực hiện việc triển khai, vận hành và sử dụng hệ thống phần mềm thông tin kinh tế - xã hội bị cơ quan chuyên môn đánh giá từ mức trung bình trở xuống; tập thể và người đứng đầu đơn vị có kết quả đánh giá công tác dân vận chính quyền từ mức hoàn thành trở xuống; đơn vị, địa phương và người đứng đầu không hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách, trừ trường hợp ngoại lệ có lý do khách quan hoặc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định; tập thể, người đứng đầu và cá nhân là người được giao trách nhiệm phụ trách việc công khai ngân sách trên Cổng Thông tin điện tử khi có văn bản nhắc nhở của Sở Tài chính cũng không được xét, công nhận danh hiệu thi đua và khen thưởng. Để thực hiện nghiêm các chỉ đạo, điều hành, UBND tỉnh quy định, trong năm, cùng một nội dung công tác mà để UBND tỉnh có văn bản nhắc nhở đến lần thứ 3 thì không xét thi đua, khen thưởng cho tập thể và Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy định cụ thể việc lấy ý kiến nhân dân khi đề nghị công nhận danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cấp Nhà nước; phương pháp, trách nhiệm tổ chức phong trào thi đua; đối tượng được xét, công nhận Danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, tỷ lệ công nhận danh hiệu và khen thưởng, về tổ chức trao tặng các danh hiệu thi đua và các hình thức khen thưởng. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2018 và thay thế Quyết định số 19/2015/QĐ-UBND ngày 10/4/2015 của UBND tỉnh Tây Ninh ban hành Quy chếvề công tác thi đua, khen thưởng tỉnh Tây Ninh. Thái ThànhDiễn đàn
TĐKT - “Tự chủ trong giáo dục đại học - những vấn đề đặt ra” là nội dung được bàn luận sôi nổi tại Diễn đàn khoa học do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam vừa tổ chức. Tại đây, các chuyên gia giáo dục - đào tạo đã nêu lên nhiều vướng mắc trong tự chủ đại học và các giải pháp tháo gỡ.
Quang cảnh diễn đàn
Nội dung Diễn đàn tập trung vào các vấn đề thành lập hội đồng trường; trách nhiệm giải trình của các nhà trường; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học; kinh nghiệm quốc tế trong thể chế hóa tự chủ đại học.
Nhiều ý kiến cho rằng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng: Làm rõ khái niệm tự chủ, cân nhắc bổ sung khái niệm tự chủ học thuật; làm rõ khái niệm giải trình, nội dung và phương thức giải trình với các trường; bổ sung chính sách khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tốt quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình; làm rõ cơ chế phối hợp giữa hội đồng trường, đảng ủy, ban giám hiệu; cân nhắc các quy định về tiêu chuẩn chủ tịch hội đồng trường và hiệu trưởng.
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Phú, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, tại Việt Nam, những vấn đề tự chủ đại học đã được đề cập đến từ những năm đầu của thế kỷ XXI nhưng không đi đến kết quả. Sau 5 năm nước ta thực hiện tự chủ đại học, đến nay mới chỉ có 14/500 đại học trên toàn quốc tự nguyện tham gia. Như vậy, tự chủ đại học tại nước ta vẫn chậm xác lập.
Lý giải về điều này, GS Nguyễn Ngọc Phú chỉ rõ: “Ngay từ khi có luật, nhiều vấn đề liên quan đến sự ăn khớp, nhất quán mối liên hệ giữa Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (GDĐH) và nhiều văn bản pháp lý khác đã được đặt ra. Riêng với Luật GDĐH, cho đến nay đã gần 5 năm luật chính thức thi hành, nhưng Luật có nhiều điểm chưa phù hợp, không theo kịp với tình hình. Bên cạnh đó, có luật rồi nhưng nhiều trường đại học vẫn không chịu thực hiện theo.
Ban Tổ chức cho biết, ý kiến của các chuyên gia được ghi nhận để gửi tới các nhà quản lý và giúp các nhà hoạch định chính sách tham khảo trong tiến trình sửa đổi Luật Giáo dục đại học.
Hồng Thiết
Nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng tại các bộ, ngành, đoàn thể trung ương
TĐKT - Ngày 11/9, tại Hà Nội, Ban Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Trung ương tổ chức Hội nghị Nâng cao chất lượng công tác TĐKT khối bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương và tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước. Chủ trì Hội nghị có: Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương Trần Thị Hà; Phó Trưởng Ban TĐKT Trung ương Phạm Huy Giang; Vụ trưởng Vụ II Ban TĐKT Trung ương Nguyễn Khắc Hà. Chủ tọa Hội nghị Cùng dự Hội nghị có các đại biểu là lãnh đạo, chuyên viên các vụ, đơn vị trực thuộc Ban TĐKT Trung ương; cán bộ làm công tác TĐKT của các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước. Báo cáo tại Hội nghị, Vụ trưởng Vụ II Ban TĐKT Trung ương Nguyễn Khắc Hà cho biết: Năm 2017 và những tháng đầu năm 2018, công tác TĐKT khối các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương đã có nhiều chuyển biến tích cực và thu được kết quả đáng khích lệ. Công tác tổ chức phong trào thi đua bài bản, khoa học, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức. Phong trào thi đua đã bám sát nhiệm vụ chính trị, phát triển đều khắp trên các lĩnh vực, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác khen thưởng cơ bản được thực hiện đúng quy định, kịp thời phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, chất lượng khen thưởng được nâng lên. Vụ trưởng Vụ II Ban TĐKT Trung ương Nguyễn Khắc Hà báo cáo tại Hội nghị Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác TĐKT trong khối còn một số tồn tại, hạn chế. Lãnh đạo Hội đồng TĐKT một số cơ quan, đơn vị còn chưa thực sự quan tâm sâu sát trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đầy đủ, toàn diện theo tư tưởng của Bác về thi đua: "Công việc hàng ngày chính là nền tảng của thi đua"; chưa vận dụng công cụ thi đua vào công tác lãnh đạo, quản lý, dẫn đến công tác thi đua còn hạn chế, yếu kém, không có tính thuyết phục trong thực tiễn tổ chức triển khai thực hiện, thiếu sức lan tỏa, không động viên mọi người tích cực tham gia phong trào thi đua, từ đó dẫn đến công tác thi đua bị coi nhẹ so với khen thưởng. Chỉ đạo phong trào thi đua còn mang tính hình thức vì không có kế hoạch, chỉ đạo, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đối với công tác TĐKT chưa cao, nhất là trong phát động các phong trào thi đua theo chuyên đề. Công tác bình xét, suy tôn và công nhận danh hiệu thi đua ở một số bộ, ngành chưa chặt chẽ. Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền, giới thiệu, nhân điển hình chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ quan chuyên trách thi đua, khen thưởng của một số bộ, ngành chưa chủ động tham mưu cơ chế phối hợp để tuyên truyền các phong trào thi đua và gương điển hình tiên tiến. Tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT chưa được quan tâm đúng mức về số lượng, chất lượng để triển khai đầy đủ các nội dung yêu cầu theo quy định của công tác thi đua. Vì vậy, công chức mới chỉ dành phần lớn thời gian tập trung cho công tác khen thưởng. Đây là nguyên nhân chính tác động đến việc không thể làm tốt công tác thi đua, dẫn đến phong trào thi đua còn mang tính hình thức, hành chính hóa, mất động lực của phong trào thi đua. Hệ quả là sự nêu gương của một số tập thể, cá nhân được khen thưởng chưa thuyết phục. Tại Hội nghị, các đại biểu đã cùng thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, vướng mắc, khó khăn trong triển khai trong thực hiện công tác TĐKT tại bộ, ngành mình. Theo đó, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 91/2017/NĐ - CP của Chính phủ và Thông tư số 08/2017/TT – BNV, các bộ, ngành vẫn còn gặp một số vướng mắc, khó thực hiện thống nhất và cần tháo gỡ: Tuyến trình khen đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa với vốn điều lệ của Nhà nước dưới 50%; vấn đề hiệp y; kiểm toán; thời gian của báo cáo thành tích; khen tập thể nhỏ; quy định về sáng kiến, giải pháp để xét tặng Huân chương... Các đại biểu đưa ra một số đề xuất: Cần thống nhất về tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT; điều chỉnh lại một số quy định của Nghị định cho phù hợp với đặc thù công tác của lực lượng vũ trang... Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương Trần Thị Hà phát biểu kết luận Hội nghị Kết luận Hội nghị, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương Trần Thị Hà nhấn mạnh 5 nhiệm vụ công tác TĐKT các đơn vị trong khối cần tập trung trong thời gian tới: Một là, tiếp tục nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật về TĐKT, từ đó ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của bộ, ngành, đoàn thể mình cho phù hợp với các quy định của pháp luật. Hai là, tiếp tục chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước. Đặc biệt là 3 phong trào thi đua trọng tâm do Thủ tướng Chính phủ phát động: “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau” và chủ đề thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động tại Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ 9: “Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nên có những việc làm thiết thực trong triển khai thực hiện các phong trào thi đua, tập trung vào một vài đơn vị cấp xã, cấp huyện. Các phong trào thi đua được phát động phải bám sát vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Phối hợp chặt chẽ với tổ chức công đoàn để tổ chức các phong trào thi đua thiết thực. Ba là, kiện toàn thường xuyên, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng thành viên hội đồng TĐKT cấp bộ, ngành mình, đề cao vai trò của Hội đồng trong kiểm tra, giám sát các phong trào thi đua, sơ tổng kết, khen thưởng kịp thời... Chuẩn bị tốt các nội dung họp của Hội đồng. Phân chia cụm, khối thi đua của bộ, ngành mình cho phù hợp. Nghiên cứu thẩm quyền khen thưởng của từng bộ. Bốn là, quan tâm tới công tác tuyên truyền. Thường xuyên cung cấp, giới thiệu các điển hình tiên tiến để tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông của bộ, ngành mình để giới thiệu, nhân rộng các điển hình tiêu biểu. Năm là, tham mưu cho Chủ tịch Hội đồng TĐKT cấp bộ, ngành mình tiến hành tổng kết năm, khen thưởng kịp thời, phát động thi đua cho năm mới. Phương ThanhHoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
TĐKT - Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể các thể chế pháp lý và các thiết chế của nhà nước có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng vận hành nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước đã được hiến định và bổ sung thêm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Khoản 3 Điều 2 Hiếp pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Qua đó đã tạo nền tảng pháp lý cho cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước dựa trên việc phân công mạch lạc nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho cơ chế kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp chưa được chế định rõ. Trên thực tế, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Một số hạn chế trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa mạnh, hiệu quả chưa cao; cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể. Chủ thể và đối tượng giám sát của Quốc hội nhận thức chưa đúng và đầy đủ về vai trò giám sát của Quốc hội. Phạm vi giám sát tối cao của Quốc hội được quy định chưa hợp lý. Việc giao cho Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội giám sát hoạt động tư pháp và việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là quá rộng, chưa phù hợp bởi đối tượng trực tiếp chịu sự giám sát của Quốc hội là những người giữ chức vụ cao trong Đảng và Nhà nước. Họ là những người vừa quyết định thân phận chính trị của bản thân đại biểu Quốc hội, vừa quyết định lợi ích kinh tế, tài chính của các địa phương nơi đại biểu tổ chức thành đoàn. Đặc điểm đó khó có thể bảo đảm cho đại biểu Quốc hội thực hành quyền giám sát của mình(1). Cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể: Khoản 2 Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Theo đó, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mà quy định thành các quy phạm chứa đựng trong các ngành luật cụ thể. Mặt khác, khác với các nước theo hệ thống pháp luật Common Law như Mỹ có cơ quan tài phán Hiến pháp, Việt Nam không thành lập và trao quyền cho một cơ quan tài pháp cụ thể, độc lập. Hai là, hoạt động thanh tra, kiểm tra của hệ thống hành pháp còn nhiều hạn chế Trong hệ thống hành pháp, chức năng kiểm tra, giám sát chung của những người đứng đầu như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng… chưa được thực hiện thường xuyên trên thực tế, dù trên thực tế nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật có nội dung trái với Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống thanh tra nhà nước: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện; thanh tra các bộ, sở là cơ quan có chức năng thanh tra hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, bất cập chủ yếu trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện là tính phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, trong khi đó bảo đảm tính độc lập về tổ chức và tính chuyên nghiệp trong hoạt động là hai yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện chức năng thanh tra. Ba là, hoạt động kiểm soát quyền lực của tư pháp còn yếu Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là thuộc Tòa án nhân dân, thông qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật. Các chế tài kiểm soát quyền lực nhà nước của tư pháp với hành pháp chưa đủ mạnh. Do nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là quyền tư pháp không thể lấn sân sang quyền hành pháp, các quan tòa không thể can thiệp sâu vào hoạt động của cơ quan hành chính. Vì vậy, trong vụ khiếu kiện hành chính, quyền của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ phán xét tính hợp pháp của một quyết định hành chính, hành vi hành chính mà không thể chỉ định một phương thức xử sự cụ thể cho cơ quan hành chính. Khi các quyết định hành chính sai trái bị hủy bỏ, quyền hay lợi ích của người khởi kiện có được khôi phục hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan hành chính. Hơn nữa, cơ quan thi hành án lại khó có thể độc lập với cơ quan hành chính - đối tượng thi hành án. Vì vậy, các phán quyết của Tòa án chưa được thực thi nghiêm túc. Cơ chế kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp còn mang tính thụ động: Kiểm tra của Tòa hành chính đối với quyền lực hành pháp chỉ là kiểm tra khi có tranh chấp hành chính, trong lĩnh vực quản lý hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan, công chức nhà nước khi có khiếu kiện của người dân. Vì vậy, sự kiểm soát quyền lực nhà nước này còn mang tính thụ động, nếu không có khiếu kiện của công dân, tổ chức thì không thể hình thành hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của hành pháp. Hiện nay, tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên chưa đảm bảo tính độc lập cao trong hoạt động xét xử, phán quyết của Tòa án hành chính đối với các cơ quan hành chính. Điều đó sẽ ảnh hướng đến sự công tâm, công bằng, khách quan trong phán quyết của Tòa đối với các quyết định, hành vi hành chính của các cán bộ, công chức cùng cấp. Người bị kiện thường là người có chức vụ quyền hạn ở địa phương nơi thẩm phán công tác và là những người có thể có ý kiến đối với việc bổ nhiệm thẩm phán, nên còn xuất hiện tư tưởng ngại va chạm trong đội ngũ thẩm phán hành chính, dẫn tới đánh giá chứng cứ còn phiến diện, áp dụng pháp luật chưa chặt chẽ. Vì vậy, chúng ta thấy thực tế Tòa án nhân dân tối cao hoặc các thẩm phán có xu hướng giải thích thu hẹp quyền hạn của mình khi xử hành chính. Điều này cũng làm hạn chế khả năng kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp 2013 thì chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Viện kiểm sát nhân dân chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp, phạm vi kiểm sát hẹp hơn nhiều so với Hiến pháp năm 1992. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng như sau: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước Xét về nguồn gốc, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nhưng nhân dân không thể trực tiếp thực thi toàn bộ quyền lực của mình mà phải trao cho một cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội thành lập và một phần quyền cho các cơ quan nhà nước khác. Do vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất, quyền lực mà cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp có được là quyền phái sinh. Để có thể thực hiện quyền lực nhà nước một cách khoa học, không lạm quyền thì cần có sự có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có trước khi Hiến pháp 2013 ra đời, tuy nhiên chỉ khi Hiến pháp 2013 được xây dựng, ban hành và có hiệu lực thì cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước mới trở thành một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được hiến định, thời gian tới để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cần: Thứ nhất, đối với cơ quan quyền lực nhà nước Đối với Quốc hội: Hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo hướng bổ sung, quy định rõ và tổ chức tốt việc thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội: Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…chất vấn; giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát thông qua việc thành lập các đoàn giám sát tại địa phương; giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân; xem xét báo cáo; thành lập Ủy ban lâm thời; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu. Giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo các hướng sau: - Xử lý nghiêm minh theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý kết quả giám sát nếu phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm. - Nâng cao chất lượng Đại biểu Quốc hội: Bên cạnh việc bảo đảm cơ cấu để bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thì cần tăng cường đại biểu có trình độ chuyên môn, tăng cường đại biểu chuyên trách. Phát huy vai trò của Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử của Quốc hội thông qua việc thực hiện công tác trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đại biểu dân cử. - Tăng cường năng lực tham mưu tư vấn của các cơ quan tham mưu, cá nhân, chuyên gia trong các cơ quan nhà nước và xã hội để tạo cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Cần tăng cường năng lực cho đội ngũ tham mưu giúp việc nhất là việc có văn phòng giúp việc riêng cho đại biểu Quốc hội cần được xem xét. Cần đầu tư, tăng cường đội ngũ chuyên gia, bộ máy giúp việc, chú trọng nâng cao trình độ của đội ngũ chuyên viên trong Văn phòng Quốc hội, của các đoàn đại biểu Quốc hội; sử dụng, ý kiến chuyên gia ở các cơ quan, tổ chức nghiên cứu độc lập. Đối với Hội đồng nhân dân các cấp: Tăng cường và chú trọng chất lượng giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám sát hoạt động Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương. Thứ hai, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền hành pháp - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kiểm soát hành pháp Trong thể chế chính trị nhất nguyên ở Việt Nam, có thể khẳng định rằng, thiếu sự lãnh đạo của Đảng thì các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật thì sẽ thiếu sự nhất quán, có những hạn chế; vai trò của Đảng thể hiện rất rõ trong việc phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, liên quan đến kiếm soát quyền lực hành pháp, vấn đề đặt ra trong suốt những năm qua, là làm thế nào để Đảng lãnh đạo khoa học, hợp lý công việc của Nhà nước. Can thiệp sâu, hay buông lỏng, khoán trắng thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ không hiệu quả cũng như không đúng với vị trí vai trò của Đảng. Do vậy, cần thiết phải đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát; quan trọng hơn cả đó là cần có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cơ quan hành pháp vừa có đức và tài. - Nâng cao nhận thức và năng lực của cán bộ, công chức hành chính và tăng cường tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, có thể nói, chưa bao giờ đội ngũ cán bộ, công chức đang có nhiều vấn đề như hiện nay liên quan đến trách nhiệm công vụ, đạo đức, tham nhũng,…Do vậy, cần xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành pháp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức tổ chức kỷ luật, không vi phạm các quy định của pháp luật. - Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong cơ chế kiểm soát nhà nước và kiểm soát xã hội trong việc thực hiện quyền hành pháp. Phối hợp giữa các cơ chế giám sát, kiểm tra nhà nước và xã hội là một trong những tổ chức giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể cũng như trong việc giám sát, kiểm tra thể hiện trong việc phát hiện và xử lý các vi phạm. - Xử lý nghiêm, tương xứng đối với các sai phạm trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trên thực tế, đây là vấn đề lớn của Việt Nam; nhiều vụ việc bị phát hiện, có kết luận của các cơ quan chức năng, tuy nhiên vì những lý do khác nhau mà không xử lý nghiêm túc, chưa đúng với tính chất và mức độ vi phạm, gây bức xúc trong dư luận. Để giải quyết vấn đề này, cần thiết tiến hành việc theo dõi, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân, công khai kết quả quả xử lý vi phạm. Thứ ba, đối với cơ quan tư pháp - Tăng cường tính chủ động trong kiểm soát quyền lực nhà nước của tư pháp với hành pháp. Trong một vụ việc liên quan đến cơ quan hành chính, nếu nhận thấy văn bản mà cơ quan hành chính dự định áp dụng đối với trường hợp của mình có dấu hiệu bất hợp hiến, hợp pháp thì có quyền yêu cầu dừng việc áp dụng văn bản đó và yêu cầu Tòa hành chính kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của nó. Ngoài ra, để đảm bảo cho người dân dễ dàng tiếp cận với Tòa án hành chính thì giai đoạn tiền tố tụng không nên bắt buộc đối với tất cả các vụ kiện. - Mở rộng phạm vi kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp. - Đảm bảo tính độc lập của Tòa án hành chính với các cơ quan hành pháp. - Nâng cao năng lực kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp. Vấn đề bản chất cốt lõi của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm các cơ quan nhà nước vừa có khả năng quản lý được xã hội và kiểm soát được chính mình. Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện, mà quan trọng nhất là vai trò kiểm tra, giám sát của Nhân dân; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; cần thiết xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định. Nguyễn Quỳnh Nga ________________ (1) Trần Ngọc Đường: Tiếp tục đổi mới Quốc hội theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.Khối thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp sơ kết thi đua
TĐKT – Sáng 23/8, Khối thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp đã tổ chức Hội nghị sơ kết thi đua 6 tháng đầu năm 2018. Tới dự, có các đồng chí: Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương. Trong 6 tháng đầu năm 2018, hoạt động thi đua - khen thưởng của các thành viên trong Khối tiếp tục có sự đổi mới, phong trào thi đua được các tổ chức thành viên triển khai sôi nổi và đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua được quan tâm hơn, đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; các phong trào thi đua, các cuộc vận động được phát động với hình thức đa dạng, phong phú; có chủ đề, mục tiêu, chỉ tiêu rõ ràng, cụ thể, đã từng bước phát triển cả bề rộng và chiều sâu, tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên, trong đó có nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các tổ chức Liên hiệp hội. Công tác khen thưởng được các thành viên trong Khối thực hiện có nền nếp, bảo đảm chính xác, kịp thời, công bằng, công khai, dân chủ. Hồ sơ, thủ tục, quy trình khen thưởng được thực hiện đúng quy định. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến được chú trọng thực hiện. Đồng chí Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương phát biểu tại Hội nghị Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương đánh giá cao các hoạt động của Khối trong 6 tháng đầu năm, đã mang tính tập trung và đồng bộ hơn, đặc biệt trong công tác thông tin, tuyên truyền. Các phong trào thi đua của Khối ngày càng đi vào thực chất, đa dạng và thiết thực. Đặc biệt, trong dịp kỷ niệm 70 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, toàn Khối đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực, có ý nghĩa, ảnh hưởng sâu rộng tới toàn xã hội. Tuy nhiên, đồng chí Trần Thị Hà cũng chỉ ra rằng, hoạt động thi đua, khen thưởng của Khối còn dàn trải, nên tập trung vào một đầu mối để đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực hơn. Đồng chí mong muốn các thành viên trong Khối cần rà soát lại các phong trào của mình, duy trì thường xuyên hơn các kênh thông tin, tuyên truyền cho các mô hình mới, cách làm hay. Chú trọng đến hoạt động chung của Khối, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong Khối… Đại diện các đơn vị xuất sắc nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ Phát biểu tại Hội nghị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn cũng đánh giá cao các hoạt động của Khối thi đua trong thời gian qua. “Các tổ chức trong Khối đã luôn sát cánh cùng Mặt trận trong triển khai các Chương trình phối hợp thống nhất hành động của MTTQ Việt Nam, các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, ủng hộ vì người nghèo, công tác cứu trợ, phối hợp thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội từ Trung ương đến cơ sở”. Trong những tháng cuối năm 2018, đồng chí Trần Thanh Mẫn đề nghị Khối thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp cần tiếp tục đổi mới để hoạt động phối hợp theo hướng nền nếp, khoa học, tránh hình thức, có trọng tâm, trọng điểm. Cần quan tâm đến việc nắm chắc tình hình nhân dân, tình hình của đoàn viên, hội viên để chủ động kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quốc hội; triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Đảng đối với Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và Liên hiệp Hội; triển khai các nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra của Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XI, Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần thứ XII; đồng thời, tổ chức thành công Đại hội lần thứ XII Công đoàn Việt Nam; Đại hội lần thứ VII Hội Nông dân Việt Nam. Năm 2018 là năm chuẩn bị Đại hội MTTQ Việt Nam các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ IX. Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn lưu ý, các tổ chức trong Khối cần tiếp tục hưởng ứng thực hiện Chương trình hành động của MTTQ Việt Nam về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn 2018 - 2020; phối hợp triển khai các chương trình giám sát cấp Trung ương và hoạt động phản biện xã hội theo Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị; phối hợp trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII của Đảng về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn tin tưởng rằng, trong những tháng cuối năm 2018, Khối thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp sẽ có nhiều sáng tạo, sáng kiến, phối hợp thực hiện hiệu quả, đạt được những kết quả thiết thực hơn nữa. “Mỗi thành viên trong Khối cần quyết đoán, quyết tâm, quyết liệt, quyết làm, phối hợp hiệu quả, có nhiều sáng kiến, để hoàn thành mục tiêu đề ra”, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh. Nhân dịp này, 1 Cờ thi đua của Chính phủ và 6 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ đã được trao cho các đơn vị các thành tích xuất sắc trong hoạt động thi đua, khen thưởng. Mai ThảoChủ tịch Tôn Đức Thắng: Đẩy mạnh thi đua nhằm đúng hướng chính
TĐKT - Trong cuộc đời mình, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn là một tấm gương mẫu mực về tinh thần yêu nước, đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Không chỉ là người tiên phong, lãnh đạo phong trào yêu nước của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng chí còn là người có nhiều đóng góp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước trở thành động lực của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Những tư tưởng, quan điểm của đồng chí về thi đua yêu nước vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày hôm nay. Chủ tịch Tôn Đức Thắng với các đại biểu tham dự Đại hội Ba sẵn sàng toàn miền Bắc (ảnh tư liệu) Người khởi xướng phong trào công nhân Việt Nam Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20/8/1888 trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước, tại Cù Lao Ông Hổ, tổng Bình Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang. Từ những năm đầu thế kỷ XX, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, và đứng vào hàng ngũ những chiến sĩ tiên phong. Đồng chí là một trong những người công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Ngay khi còn là học sinh của Trường Bách nghệ Sài Gòn, cùng với việc học giỏi nhất trường, Tôn Đức Thắng còn là "người chỉ huy" nhiều cuộc bãi khóa để phản đối sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với phong trào nông dân ở nhiều nơi. Năm 1916, Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm France. Tại đây, Tôn Đức Thắng đã tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm France ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919 và sau đó bị trục xuất khỏi nước Pháp. Năm 1920, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và phong trào của giai cấp công nhân, thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật ở Sài Gòn - hình thức tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Từ khi thành lập, Công hội đã liên tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, mà điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (8/1925). Trong những năm 1926 - 1927, Công hội Sài Gòn là cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, không chỉ ở Sài Gòn mà trên cả xứ Nam kỳ. Khi Kỳ bộ Nam kỳ thành lập, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn, phụ trách phong trào công nhân. Với chức trách được giao, đồng chí đã góp phần tích cực thúc đẩy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập đã bắc nhịp cầu đưa chủ nghĩa Mác - Lênin đến với giai cấp công nhân, tạo thuận lợi cho việc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930). Đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ là chiến sĩ tiên phong của phong trào công nhân, một trong những người sáng lập tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta. Những đóng góp to lớn đối với công tác thi đua, khen thưởng Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, với uy tín lớn lao trong Đảng, trong nhân dân và phẩm chất cách mạng, đạo đức trong sáng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Đảng, Nhà nước giao nhiều trọng trách quan trọng. Ngày 1/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 195-SL thành lập Ban Vận động thi đua ái quốc Trung ương bao gồm các thành viên là các đại biểu Chính phủ, quốc hội và các đoàn thể nhân dân, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban. Trên cương vị công tác của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước trở thành động lực của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Ngay từ khi mới đảm nhiệm chức vụ Trưởng Ban Vận động Thi đua ái quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng đã quan tâm đến việc đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. Để đảm bảo tốt việc thi đua, ngày 19/11/1948, Ban Vận động Thi đua ái quốc đã có công văn đệ trình lên Chính phủ đề nghị sửa đổi tổ chức thi đua ái quốc, kèm theo công văn là tài liệu về cải tiến tổ chức thi đua ái quốc, quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức, phân công nhiệm vụ, quyền hạn, cách làm việc của Ban. Ban đã đặt ra các Tiểu ban: Thi đua, Kiểm tra, Chấm thi giúp cho Ban điều hành, định thể lệ thưởng, phạt công minh. Ngoài những hoạt động trên, Ban còn thành lập Tiểu ban tuyên truyền để cổ động thi đua, chú trọng việc ra báo tường, đặc san, sáng kiến trên mọi mặt công tác. Đối với việc khen thưởng, đồng chí Tôn Đức Thắng cho rằng: "Nên dè dặt hết sức trong sự phạt, thưởng, kỳ nào cũng thế. Nếu phần thưởng đến những nhóm hay người không thật đặc biệt xứng đáng thì làm cho nhân dân hiểu lầm là: “Thì gọi là cũng được rồi.” Làng và tỉnh tìm những phần thưởng trong khu vực mình. Các phần thưởng nên chỉ có tính cách tượng trưng mà tốn kém ít. Nên dùng những phần thưởng luân chuyển (ví dụ cờ hay biển), sau mỗi kỳ, người hay nhóm tích cực nhất trong mỗi ngành hay mỗi xã, mỗi tỉnh được giữ.” (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, “Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu”, NXB Văn học, 2013, tr425,426). Để đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, họp từ 21/1 đến 3/2/1950, do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo, Trưởng Ban thi đua ái quốc Trung ương Tôn Đức Thắng đã đọc báo cáo:“Đẩy mạnh thi đua nhằm đúng hướng chính”. Với phương pháp tư duy nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, đồng chí đã phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm về lãnh đạo và tổ chức đã làm cho phong trào thi đua ít hiệu quả. “Vì thi đua nhiều mà không nhằm hướng chính nên phong trào thi đua thành loãng và dần dần trở nên bình thường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001,t27). Đồng thời, đồng chí vạch rõ : “Hướng chính của thi đua ái quốc lúc này là động viên nhân lực, vật lực, tài lực để phục vụ tiền tuyến”. Những uốn nắn đó đã góp phần chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước tiến lên một bước mới; góp phần vào sự lớn mạnh của cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn mới. Tại Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu lần thứ nhất năm 1952, với tư cách đại diện Ban Thường trực Quốc hội và Ủy ban Liên Việt toàn quốc, đồng chí đã căn dặn các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu: “Có được danh dự lớn lao này, các đồng chí tuyệt đối không được tự kiêu, tự mãn, có được vinh dự lớn lao này, các đồng chí lại càng phải ra sức thi đua ái quốc, ra sức học tập đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và gương thi đua của Hồ Chủ tịch, ra sức học tập huấn thị của Hồ Chủ tịch trong đại hội này. Các đồng chí càng phải ra sức học tập các bạn bè chung quanh, học tập nhân dân. Ở đây ra về, các đồng chí cần phải ra sức phổ biến những kinh nghiệm thi đua tổng kết được ở các hội nghị và ở đại hội này, để dìu dắt mọi người cùng thi đua, trở thành chiến sĩ thi đua như mình và hơn mình. Ra sức học tập, ra sức sản xuất và chiến đấu để phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, phục vụ hòa bình thế giới, đó là nhiệm vụ của các đồng chí”. (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, “Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu”, NXB Văn học, 2013, tr63,64). Dù ở trên cương vị công tác nào, đồng chí cũng dành sự quan tâm đặc biệt tới các phong trào thi đua của các bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể, địa phương. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (9/1969), đồng chí Tôn Đức Thắng được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa II, họp ở Hà Nội ngày 23/9/1969. Trên cương vị mới, đồng chí luôn luôn căn dặn, nhắc nhở, giáo dục cán bộ lãnh đạo các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải hết lòng vì dân, vì nước và luôn luôn phải coi dân là gốc vì sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tiếp nối những tư tưởng, tâm huyết của đồng chí Tôn Đức Thắng, những năm qua cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng trong cả nước đã không ngừng phấn đấu, nỗ lực, xây dựng ngành thi đua, khen thưởng ngày càng trưởng thành và phát triển. Ngành đã đóng góp tích cực vào sự đổi mới của đất nước, ngày càng khẳng định vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành trong việc ban hành những chủ trương, chính sách, pháp luật và thực hiện nhiều biện pháp cụ thể để thi đua, khen thưởng ngày càng thiết thực. Nhờ đó, phong trào thi đua yêu nước đã được đổi mới nội dung, hình thức thi đua phong phú và thiết thực hơn, thu hút được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, đã góp phần thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết các vấn đề về xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường hội nhập quốc tế. Công tác khen thưởng đảm bảo khen đúng, khen trúng, khen kịp thời; đã chú trọng việc phát hiện tập thể, cá nhân người lao động trực tiếp có thành tích xuất sắc để khen thưởng. Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta càng thêm kính trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đồng chí - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, của dân tộc, đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hàng chục năm đã trôi qua nhưng những tư tưởng của đồng chí Tôn Đức Thắng về thi đua yêu nước - thi đua phải nhằm đúng hướng chính, luôn luôn quan tâm đổi mới công tác thi đua, khen thưởng - vẫn còn nguyên giá trị, là bài học kinh nghiệm quý báu đối với các thế hệ những người làm công tác thi đua, khen thưởng hôm nay và mai sau. Nguyệt HàChú trọng nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
TĐKT - Sáng 15/8, tại Hà Nội, Bộ Công an tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác xây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giai đoạn 2006 – 2018. Chủ tịch nước Trần Đại Quang dự và phát biểu chỉ đạo. Cùng dự có: Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương và các địa phương. Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu chỉ đạo Hội nghị Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng Công an đã có nhiều nỗ lực, vượt lên khó khăn, gian khổ, kiên trì bám dân, bám cơ sở, năng động, sáng tạo, tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp, thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, tổ chức xây dựng và phát triển phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Qua đó, phong trào đã có bước phát triển mới, sâu rộng, với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú. Các mô hình, điển hình tiên tiến được xây dựng, nhân rộng theo từng địa bàn, lĩnh vực, phù hợp với thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị, được đông đảo nhân dân ủng hộ, tích cực hưởng ứng. Nhiều mô hình, điển hình tiên tiến được xây dựng, nhân rộng thông qua việc liên kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng Công an với Quân đội, các ban, ngành, đoàn thể, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia, góp phần phòng ngừa, khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, các tai nạn, tệ nạn xã hội và đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Đến nay, cả nước có hơn 2.000 mô hình trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tiêu biểu là mô hình “Liên kết xây dựng vùng giáp ranh an toàn về an ninh trật tự”; mô hình “Khu dân cư xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường an toàn về an ninh, trật tự” hay mô hình “Dòng họ, tộc tự quản về an ninh, trật tự”; “Tổ, nhóm liên gia tự quản về an ninh, trật tự”. Từ phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, quần chúng nhân dân đã cung cấp cho lực lượng Công an hàng triệu nguồn tin có giá trị, giúp cơ quan chức năng điều tra khám phá nhiều vụ án, triệt phá nhiều băng, nhóm tội phạm, tệ nạn xã hội, bắt giữ hàng vạn đối tượng, trong đó có những đối tượng truy nã nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm. Xuất hiện hàng nghìn tấm gương quần chúng mưu trí, dũng cảm tấn công, truy bắt tội phạm, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân dân. Hằng năm, hàng trăm xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp được Bộ Công an tặng Cờ thi đua trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Các mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã phát huy tốt vai trò làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội; là một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng để tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các chủ trương, giải pháp về bảo vệ an ninh, trật tự; xây dựng củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; góp phần củng cố hệ thống chính trị, xây dựng lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh, trật tự tại cơ sở; phục vụ hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đơn vị và trên phạm vi cả nước. Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhiệt liệt biểu dương, chúc mừng những kết quả, thành tích trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc mà cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đã đạt được trong thời gian qua; chúc mừng các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến vinh dự được tôn vinh tại Hội nghị. Chủ tịch nước nhấn mạnh: Thời gian tới, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật diễn biến phức tạp. Các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng bộc lộ rõ nét, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về an ninh, trật tự. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, mài sắc ý chí chiến đấu, kiên quyết bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Lực lượng Công an nhân dân, cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường cần xác định rõ xây dựng, phát triển phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt. Cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng vùng, lĩnh vực, địa bàn; gắn kết, hòa nhập và cùng phát triển với các phong trào thi đua yêu nước do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể phát động. Tăng cường phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể trong công tác xây dựng phong trào. Các hoạt động của phong trào phải hợp lòng dân, vừa sức dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia nhiều hơn, trực tiếp hơn vào việc giữ gìn an ninh, trật tự ngay từ đầu và tại cơ sở… Chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến và nâng cao chất lượng các hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải từ gia đình đến cộng đồng dân cư, các cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm; có kế hoạch tổ chức rà soát, phân loại chất lượng các mô hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, nhân rộng kinh nghiệm mô hình hoạt động hiệu quả, chọn lựa xây dựng những mô hình mới phù hợp. Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng, tôn vinh các tập thể, cá nhân lập được chiến công, thành tích xuất sắc trong phong trào, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với những người hy sinh, bị thương trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Tập trung xây dựng tổ chức bộ máy lực lượng Công an nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trọng dân, gần dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, làm tốt vai trò nòng cốt trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ, chiến sĩ Công an trong lòng nhân dân. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh, bảo đảm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, chức năng tham mưu và tổ chức thực hiện các chủ trương, kế hoạch, biện pháp xây dựng phong trào. Chú trọng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, lực lượng nòng cốt trong phong trào. Phát huy vai trò của bí thư chi bộ, trưởng các đoàn thể, trưởng thôn, trưởng bản, trưởng xóm, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; lựa chọn những người có năng lực, phẩm chất tốt để bổ sung cho đội ngũ cán bộ cơ sở, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường. Quan tâm bồi dưỡng chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để cán bộ cơ sở có đủ năng lực tổ chức thực hiện phong trào. Nhân dịp này, Chủ tịch nước đề nghị các ban, bộ, ngành, địa phương tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố và phát triển phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; quan tâm trang bị phương tiện, điều kiện làm việc và có chính sách đãi ngộ đối với lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Nguyệt HàBảo hiểm xã hội TP Hà Nội sẽ có nhiều giải pháp mạnh để bảo vệ quyền lợi người lao động
TĐKT - Mới đây, Bảo hiểm Xã hội TP Hà Nội đã có văn số 635/BHXH-KTTN gửi Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội và đề nghị không tổ chức bất kỳ hình thức tôn vinh, khen thưởng nào đối với những doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT). Phóng viên Tạp chí Thi đua Khen thưởng có bài phỏng vấn ông Nguyễn Dương, Trưởng phòng Khai thác và Thu nợ BHXH TP Hà Nội. Trưởng phòng Khai thác và Thu nợ BHXH TP Hà Nội Nguyễn Dương Phóng viên: Thưa ông, các doanh nghiệp nợ BHXH từ 2 tháng trở lên đã ảnh hưởng và tác động như thế nào đến vấn đề thu – chi của BHXH TP Hà Nội? Ông Nguyễn Dương: Tính đến hết tháng 6/2018, Hà Nội có 16.985 doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT với số tiền nợ phải tính lãi là 1.408,1 tỷ đồng, đã giảm 388,1 tỷ, tương đương 21,6 % so với cùng kỳ năm 2017 (Năm 2017 số tiền nợ phải tính lãi là 1796,2 tỷ đồng). Mặc dù số tiền nợ BHXH, BHYT đã giảm nhưng vẫn cao hơn mức trung bình của cả nước. Các doanh nghiệp (DN) nợ BHXH, BHYT đã vi phạm quy định tại Điều 86, Luật BHXH năm 2014, Khoản 1 Điều 15 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014. Việc nợ BHXH của doanh nghiệp đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động khi phát sinh ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Bên cạnh đó, DN nợ BHXH sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu – chi BHXH, ảnh hưởng đến việc hình thành và cân đối quỹ BHXH. Phóng Viên: Việc ban hành văn bản đã có tác động như thế nào đến các doanh nghiệp nợ BHXH và đến nay có bao nhiêu doanh nghiệp đã nộp BHXH? Ông Nguyễn Dương: Thực hiện chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Thành ủy, UBND TP Hà Nội, hàng tháng BHXH TP Hà Nội đã tiến hành phân tích, phân loại DN nợ, trên cơ sở đó phối hợp với các sở, ban, ngành thành phố để thu hồi tiền nợ, đồng thời đã kiến nghị các sở, ban, ngành không đề xuất tôn vinh, khen thưởng đối với những doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT. Trong đó có Ban Quản lý khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội. Tháng 5/2018 vừa qua, BHXH thành phố đã gửi công văn số 635/BHXH-KTTN gửi Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội đề nghị phối hợp đôn đốc thu hồi nợ tại 99 doanh nghiệp thuộc Ban quản lý. Tính đến nay các doanh nghiệp đã nộp được trên 20 tỷ đồng tiền nợ. Như vậy, có thể nói rằng, sự phối hợp với Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất đã mang lại hiệu quả. Phóng viên: Ngoài việc ban hành văn bản này, BHXH thành phố còn giải pháp nào để khắc phục tình trạng nợ BHXH, BHYT của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố? Ông Nguyễn Dương: Để khắc phục tình trạng nợ BHXH, BHYT, BHXH thành phố thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Hàng tháng thực hiện phân tích, phân loại doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT theo loại hình sản xuất, kinh doanh, thời gian nợ, xác định nguyên nhân nợ. Trên cơ sở đó. đề xuất và phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thực hiện đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, trong đó, tập trung các đơn vị nợ phát sinh, nợ dưới 12 tháng. Yêu cầu cán bộ trực tiếp đôn đốc thu BHXH, BHYT tại các doanh nghiệp nợ dưới 12 tháng; tăng cường kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, phối hợp kiểm tra, thanh tra liên ngành nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động. Chủ động gửi thông báo kế hoạch kiểm tra, thanh tra đến các đơn vị, doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT để khắc phục nợ trước khi ban hành quyết định kiểm tra, thanh tra. Tổ chức đối thoại trực tiếp với người sử dụng lao động, người lao động tại các khu công nghiệp, chế xuất, đơn vị sử dụng lao động, tuyên truyền quyền lợi, trách nhiệm khi tham gia BHXH, BHYT, tháo gỡ các vướng mắc. Phối hợp với UBND các quận, huyện, thị mời các doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT; doanh nghiệp chưa tham gia BHXH, BHYT cho người lao động trên địa bàn đến làm việc yêu cầu doanh nghiệp nộp số tiền nợ BHXH, BHYT và đóng BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định của pháp luật. Chỉ đạo BHXH các quận, huyện, thị xã tham mưu UBND các quận, huyện, thị xã ban hành Quyết định thanh tra, kiểm tra liên ngành đối với các đơn vị nợ BHXH và các văn bản đôn đốc nợ BHXH trên địa bàn. Hướng dẫn các doanh nghiệp khó khăn về vốn có thể vay tiền Ngân hàng Vietcombank để đóng BHXH cho người lao động theo Hợp đồng (số 01082016 giữa BHXH Thành phố với Ngân hàng Vietcombank), hợp tác thu, thu nợ BHXH, BHYT, BHTN. Hướng dẫn đơn vị nợ BHXH, BHYT thực hiện Điểm 2, Khoản 3, Điều 46 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về việc người lao động tại các đơn vị nợ BHXH, BHYT, BHTN có đủ điều kiện hưởng BHXH hoặc chấm dứt HĐLĐ, Hợp đồng làm việc thì đơn vị có trách nhiệm đóng đủ tiền BHXH, BHYT, BHTN bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định để kịp thời giải quyết chế độ BHXH, BHTN cho người lao động. Đẩy mạnh tuyên truyền chính sách BHXH, BHYT truyền tải thông tin tới người sử dụng lao động và người lao động về những hệ quả tiêu cực từ việc trốn đóng, nợ tiền BHXH, BHYT ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của người lao động. Công khai danh sách các doanh nghiệp nợ trên các phương tiện truyền thông, báo chí như: Báo, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Báo Kinh tế đô thị, Báo Hà Nội mới, Cổng thông tin điện tử BHXH thành phố. Phối hợp với các sở, ngành tiếp tục thực hiện Quyết định số 33/QĐ-UBND ngày 05/01/2011 của UBND thành phố về thu nợ tiền BHXH, BHYT trên địa bàn thành phố. Đồng thời phối hợp với Công an thành phố tập hợp hồ sơ, tài liệu đối với những doanh nghiệp nợ, trốn đóng BHXH, BHYT để xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông! Hồng Thiết (thực hiện)Công tác thi đua, khen thưởng cần bám sát cơ sở, sát dân, tránh quan liêu, đi vào thực chất
TĐKT - Chiều 11/7, tại Trụ sở Chính phủ, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Trung ương tổ chức phiên họp thường kỳ nhằm sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2018. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Hội đồng TĐKT Trung ương chủ trì phiên họp. Cùng dự có các đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng: Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương; các thành viên của Hội đồng. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Hội đồng TĐKT Trung ương chủ trì phiên họp Theo dự thảo Báo cáo của Hội đồng TĐKT Trung ương, 6 tháng đầu năm, các phong trào thi đua được các bộ, ngành, Mặt trận, đoàn thể và các địa phương phát động gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đã tạo không khí thi đua sôi nổi trong cả nước. Các phong trào thi đua được triển khai bài bản, hình thức đa dạng, phong phú, có tiêu chí và nội dung rõ ràng, cụ thể, thiết thực, bám sát nhiệm vụ chính trị, được nhân dân tích cực hưởng ứng, tham gia. Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2018) được tổ chức thành công. Hội đồng TĐKT các cấp đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền các phong trào thi đua và biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến. Công tác quản lý nhà nước về TĐKT được tăng cường, việc tham mưu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TĐKT được tập trung thực hiện. Công tác khen thưởng được thực hiện đúng quy định, kịp thời phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước và khen thưởng kháng chiến. Chất lượng khen thưởng được nâng lên. Việc khen thưởng các trường hợp có thành tích đột xuất, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác đã có sự chuyển biến rõ nét ở các bộ, ngành, địa phương. 6 tháng đầu năm, Ban TĐKT Trung ương đã tiếp nhận 1.198 tờ trình đề nghị khen thưởng của các bộ, ngành, địa phương. Thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ 1.120 tờ trình khen thưởng; thực hiện 1.213 quyết định khen thưởng của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước cho 32.281 trường hợp, trong đó khen thưởng theo niên hạn là 15.644 trường hợp, Chủ tịch nước phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” cho 1.156 mẹ; 1.109 Huân chương Độc lập cho các gia đình có nhiều liệt sĩ; 1.696 Huân, Huy chương Kháng chiến; phong tặng, truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho 228 tập thể, cá nhân có thành tích trong thời kỳ kháng chiến. Phát biểu tại phiên họp, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận công tác TĐKT những tháng đầu năm đã đạt được nhiều kết quả. Các phong trào thi đua được triển khai hiệu quả, đổi mới hình thức, nội dung phong phú bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2018) được tổ chức tốt, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân, tạo không khí thi đua sôi nổi trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TĐKT vẫn còn những hạn chế cần tập trung khắc phục. Một số phong trào thi đua chưa thu hút được sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, có nơi còn hình thức nên hiệu quả chưa cao. Tiêu chí của một số phong trào thi đua còn chung chung, chưa đánh giá được tác động đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cơ quan, đơn vị... Định hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ, cần tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua để triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 với tinh thần không được thỏa mãn, chủ quan. Công tác TĐKT cần bám sát cơ sở, sát dân, tránh tình trạng quan liêu, giấy tờ. Phong trào thi đua phải đi vào thực chất, có chiều sâu, phát huy dân chủ. Chú trọng công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phù hợp. Khen thưởng phải kịp thời, đúng quy định, đặc biệt là đối với đơn vị cơ sở, người lao động, công nhân, nông dân, chiến sĩ… Tập trung giải quyết dứt điểm khen thưởng thành tích kháng chiến, phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” trên cả nước. Thực hiện đúng quy định về tổ chức các giải thưởng, bảo đảm công khai, minh bạch, tránh tình trạng trao giải thưởng tràn lan, hình thức. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát trong TĐKT. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tập trung tham mưu, hoàn thiện thể chế pháp luật về thi đua, khen thưởng. Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật TĐKT sửa đổi, Nghị định quy định việc quản lý xét tặng danh hiệu, giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, để trình Chính phủ ban hành... Nguyệt HàNâng cao hiệu quả xây dựng, nhân điển hình tiên tiến ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
TĐKT - Công tác xây dựng, nhân điển hình tiên tiến (ĐHTT) trong phong trào thi đua Quyết thắng (TĐQT) của quân đội nói chung, Trường Sĩ quan Lục quân 2 nói riêng là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có vai trò, ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng Nhà trường, quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nếu không có mô hình, ĐHTT thì phong trào thi đua chưa đạt được hiệu quả, chưa thực sự đi vào cuộc sống. Thời gian qua, quán triệt sâu sắc các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên về công tác thi đua, khen thưởng, nhất là việc xây dựng, nhân ĐHTT, Thường vụ, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã đề ra chương trình hành động, kế hoạch và hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng, xây dựng, nhân ĐHTT 5 năm (2015 - 2020). Theo đó, các cơ quan, khoa, đơn vị đã quán triệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc, tập trung xây dựng và biểu dương gương người tốt, việc tốt, các nhân tố mới, nhất là ĐHTT trong “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Những kinh nghiệm quý của các tập thể, cá nhân trên các mặt công tác của Nhà trường, những biện pháp bồi dưỡng và nhân ĐHTT của các cơ quan, khoa, đơn vị đã được phổ biến rộng rãi, nhân rộng trong toàn trường, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào TĐQT, làm chuyển biến các mặt công tác, đồng thời là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng Đảng bộ Nhà trường trong sạch, vững mạnh, Nhà trường vững mạnh toàn diện. Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phong trào thi đua, nhất là việc xây dựng, nhân ĐHTT ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, tác dụng của một số ĐHTT còn thấp, chưa tạo thành phong trào học tập, đuổi, vượt các gương ĐHTT trong các đợt thi đua. Một số cơ quan, khoa, đơn vị chưa chú trọng, nghiên cứu, xây dựng các mô hình, điển hình mới; phong trào thi đua đơn điệu. Nguyên nhân chính của thực trạng này là một số cơ quan, khoa, đơn vị chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc phát hiện, xây dựng, nhân ĐHTT, khi xét khen thưởng mới “đi tìm ĐHTT”; nhận thức, trách nhiệm một số cấp ủy, đảng viên chưa cao; nội dung, hình thức xây dựng, nhân ĐHTT chưa phong phú, chậm đổi mới... Thực tiễn cho thấy, để có được nhiều ĐHTT, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên quan tâm, chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, xây dựng và nhân rộng ĐHTT. ĐHTT không có sẵn mà là kết quả của cả một quá trình tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện kiên trì, bền bỉ, thông qua hoạt động thực tiễn trong học tập, công tác, sinh hoạt hàng ngày và các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Do đó, để không ngừng nâng cao hiệu quả xây dựng, nhân ĐHTT ở Nhà trường ta hiện nay, bài viết xin đề xuất một số biện pháp sau: Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn về việc xây dựng và nhân ĐHTT. Đây là nội dung biện pháp quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả xây dựng, nhân ĐHTT. Vì vậy, đảng ủy, các chi ủy, chi bộ khi ra nghị quyết lãnh đạo cần đánh giá đúng thực trạng ưu, khuyết điểm trong xây dựng, nhân ĐHTT, từ đó đề ra nội dung, biện pháp lãnh đạo chính xác, cụ thể, kịp thời. Mỗi đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong phong trào thi đua ở đơn vị. Đồng thời, thường xuyên củng cố, kiện toàn xây dựng Đảng bộ, các chi bộ nâng cao năng lực lãnh đạo đơn vị, thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng, nhất là việc xây dựng, nhân ĐHTT, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng việc ra nghị quyết đến tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết. Cùng với việc tổ chức quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), cần tiếp tục quán triệt sâu rộng nội dung, tinh thần cơ bản của Kết luận số 83-KL/TW ngày 30/8/2010 của Ban Bí thư Trung ương (Khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2010 của Bộ Chính trị (Khóa X); Chỉ thị số 692/CT-BQP, ngày 24/12/2010 của Quân ủy Trung ương; Kế hoạch số 510/KH-CT, ngày 22/4/2011; Hướng dẫn số 694/HD-CT, ngày 30/5/2011 của Tổng cục Chính trị và các kế hoạch, hướng dẫn của Nhà trường về xây dựng, nhân ĐHTT, gắn với việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thông qua đó, làm cho các cấp, các ngành và mọi người nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của thi đua yêu nước và phong trào TĐQT, tạo sự thống nhất cao trong toàn trường về vị trí, ý nghĩa của việc xây dựng, nhân ĐHTT, xem đây là việc làm thường xuyên, là nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đảng bộ, chi bộ, đơn vị; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng hơn nữa ý chí tự lực, tự cường, tinh thần tự giác sống vì mọi người, sống vì tập thể, đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Xây dựng động cơ thi đua trong sáng, đúng đắn, khơi dậy tinh thần vượt mọi khó khăn, gian khổ, ra sức thi đua trở thành những ĐHTT tiêu biểu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Nhà trường. Hai là, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức xây dựng, nhân ĐHTT trong tổ chức phong trào TĐQT. Đây là việc làm thường xuyên của cấp ủy Đảng, chính trị viên, người chỉ huy các tổ chức và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng, đảm bảo cho các ĐHTT luôn có sự phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của Nhà trường. Nội dung xây dựng, nhân ĐHTT cần quán triệt và bám sát Hướng dẫn của Nhà trường, từ việc lựa chọn, phát hiện, bồi dưỡng, xây dựng đến nhân rộng ĐHTT; yêu cầu phải đạt được tính thiết thực, sâu rộng, phát triển đều khắp và bao quát được toàn bộ các nhiệm vụ của từng cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị. Đặc biệt ở các khoa, cần quan tâm các đồng chí giảng viên trực tiếp giảng dạy, có cường độ huấn luyện cao; xây dựng các ĐHTT phải nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, chất lượng giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo sự chuyển biến vững chắc tình hình đơn vị, nhất là phải chuyển biến mạnh về dân chủ, kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy. Hình thức phải có tính uyển chuyển, linh hoạt, gắn với chủ đề của phong trào thi đua, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị, nội dung thi đua chung của Nhà trường và của toàn quân. Chú trọng đổi mới về phương pháp, tác phong công tác; khắc phục triệt để biểu hiện phô trương hình thức trong xây dựng, nhân ĐHTT. Khi tổ chức phong trào TĐQT cần kết hợp chặt chẽ giữa thi đua thường xuyên với thi đua đột kích, thi đua cao điểm, gắn với các cuộc vận động lớn để các ĐHTT thể hiện hết khả năng phấn đấu vươn lên. Thường xuyên tổ chức tốt việc kiểm tra, chấm điểm thi đua theo kế hoạch và đột xuất. Tổ chức sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để các ĐHTT trong phong trào thi đua liên tục được đổi mới và phát triển. Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân tích cực tham gia xây dựng, nhân ĐHTT. Các tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên, công đoàn, phụ nữ) và hội đồng quân nhân các cấp trong Nhà trường có vai trò hết sức quan trọng đối với việc xây dựng, nhân ĐHTT. Các tổ chức quần chúng trong Nhà trường là lực lượng đông đảo nhất, chiếm gần 80% quân số, là lực lượng chủ yếu, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Do đó các tổ chức quần chúng vững mạnh là điều kiện tiên quyết thực hiện thắng lợi các nội dung, chỉ tiêu thi đua đề ra. Thông qua hoạt động thực tiễn, các tổ chức quần chúng giúp lãnh đạo, chỉ huy tạo nguồn xây dựng những nhân tố mới, những ĐHTT để thúc đẩy phong trào TĐQT ngày càng phát triển. Do đó thông qua các phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “5 không, 3 sạch”, “Tuổi trẻ chung sức xây dựng nông thôn mới”... hướng hoạt động của các tổ chức quần chúng vào việc tuyên truyền vận động cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ tích cực tham gia đóng góp công sức, trí tuệ thực hiện các nội dung, chỉ tiêu của phong trào thi đua. Đồng thời, phát huy tốt vai trò của các tổ chức quần chúng trong tham gia đóng góp xây dựng kế hoạch, nội dung, biện pháp xây dựng, nhân ĐHTT. Bốn là, làm tốt công tác rút kinh nghiệm, phát động phong trào thi đua noi gương, học tập, làm theo ĐHTT. Thông qua sơ, tổng kết phong trào TĐQT để kịp thời nêu gương các ĐHTT, có thể tổ chức cho các ĐHTT đến từng đơn vị phổ biến kinh nghiệm, kể chuyện phấn đấu, rèn luyện. Sau khi tuyên dương, nêu gương các ĐHTT, các cơ quan, khoa, đơn vị phải tuyên truyền, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập, làm theo, đuổi kịp và vượt các gương ĐHTT. Kết hợp chặt chẽ thi đua với khen thưởng, lấy kết quả thi đua làm cơ sở để xét khen thưởng, phát huy tác dụng của khen thưởng để thúc đẩy phong trào thi đua. Phong trào TĐQT của Nhà trường luôn gắn với việc xây dựng, nhân ĐHTT, đó là động cơ chính để phát huy cao độ sức lực, tài năng và trí tuệ, sức sáng tạo của cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ, là một trong những biện pháp căn bản để nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào TĐQT, là việc làm thiết thực tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xây dựng Nhà trường vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Trần Chí HùngTrang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- …
- sau ›
- cuối cùng »