Diễn đàn

Hội thảo khoa học “Phát huy vai trò nòng cốt của quân đội anh hùng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”

TĐKT – Ngày 29/11, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học “Phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội anh hùng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo hội thảo. Dự hội thảo có: Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh; Đại tướng Phùng Quang Thanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; các đồng chí Thứ trưởng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; đại diện các bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các đồng chí tướng lĩnh, lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử cùng đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu tại Hội thảo Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng Ban Tổ chức hội thảo nhấn mạnh: Ngày 22/12/1944, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng Sam Cao, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của QĐND Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng. Suốt 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua gian lao thử thách, chấp nhận hy sinh, anh dũng chiến đấu, quân đội ta đã cùng nhân dân đấu tranh giành chính quyền thắng lợi, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Chặng đường đó đã viết nên truyền thống hào hùng, lập nên những chiến công rực rỡ, gắn liền với những thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, có ý nghĩa quốc tế và thời đại sâu sắc, là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, của toàn thể nhân dân. Để tiếp tục phát huy truyền thống của quân đội anh hùng, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW lấy ngày 22/12 - Ngày thành lập QĐND Việt Nam là Ngày hội quốc phòng toàn dân. Từ đây, ngày 22/12 hàng năm trở thành ngày hội bảo vệ Tổ quốc, tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, là dịp phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước có quyết sách đúng đắn, xử lý kiên quyết, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh. Đồng thời, thể hiện rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Cùng với nhiệm vụ chiến đấu, quân đội luôn đi đầu trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới... nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; luôn xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn... Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quân đội đã tích cực, chủ động hội nhập, thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng theo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đoàn Chủ tịch điều hành Hội thảo Phát biểu tại Hội thảo, Đại tướng Ngô Xuân Lịch yêu cầu các đại biểu tập trung nghiên cứu, khẳng định đường lối, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của QĐND Việt Nam; làm sâu sắc hơn những vấn đề có tính nguyên tắc, tính quy luật về quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QĐND Việt Nam; đúc rút những bài học lịch sử, bài học kinh nghiệm quý vận dụng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đồng thời khẳng định rõ vai trò, thành tựu và ý nghĩa của Ngày hội Quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và vai trò, trách nhiệm của các thành phần, lực lượng xã hội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Tại Hội thảo, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 90 bài tham luận của các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, các Bộ, Ban, ngành, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội. Mỗi tham luận là một công trình khoa học độc lập, đi sâu nghiên cứu theo từng vấn đề cụ thể và làm sáng tỏ, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của QĐND Việt Nam. Nhiều tham luận đã tôn vinh thành tựu, chiến công, làm sâu sắc hơn những vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc về những thắng lợi; đúc rút kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QĐND Việt Nam, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Bên cạnh việc khẳng định vai trò, thành tựu của Ngày hội Quốc phòng toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, các tham luận cũng làm rõ vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Hội thảo là một trong những hoạt động thiết thực hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày thành lập QĐND Việt Nam và 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; đồng thời cũng là dịp để rút ra những kinh nghiệm có giá trị trong việc phát huy truyền thống yêu nước, ý chí giữ vững độc lập tự do của dân tộc; truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam; vai trò của Ngày hội Quốc phòng toàn dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nguyên Hải

Bộ Thông tin và Truyền thông tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng năm 2019

TĐKT - Ngày 14/11, tại Hà Nội, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã tổ chức Hội nghị tuyên truyền tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT) năm 2019. Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm tham dự và chủ trì Hội nghị. Dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các đơn vị liên quan thuộc Bộ TT&TT, cùng đông đảo cán bộ, chuyên viên làm công TĐKT tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ. Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm phát biểu khai mạc Hội nghị Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm nhấn mạnh: Năm 2019, ngành TT&TT tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình, phát huy thuận lợi, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nỗ lực đổi mới vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu thực hiện mục tiêu “Nâng cao thứ hạng Việt Nam” với phương châm hành động “Người đứng đầu làm gương, nhân viên thì kỷ cương, làm việc có trọng tâm, suy nghĩ và hành động thì bứt phá”. Kết quả đạt được đến nay là rất đáng khích lệ và có sự đóng góp không nhỏ của công tác TĐKT. Thời gian tới, Bộ TT&TT cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa tính thiết thực, hiệu quả của công tác TĐKT thông qua các chương trình, hoạt động cụ thể; tăng cường công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền về những tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu, nhất là các nhân tố mới, các mô hình mới để cổ vũ, nêu gương, nhân rộng, tạo động lực phát triển và lan tỏa sâu rộng trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Việc biểu dương, khen thưởng phải kịp thời, khách quan, minh bạch, đúng người, đúng việc, lấy hiệu quả kinh tế, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo; chú trọng khen thưởng đột xuất và khen thưởng theo từng lĩnh vực, nhất là khen thưởng các tập thể, cá nhân trực tiếp sản xuất hoặc có thành tích đột phá, ứng dụng công nghệ 4.0 để phát triển sản phẩm, mô hình dịch vụ kinh doanh mới, đưa công nghệ thông tin vào các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội và phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Hội nghị tập huấn công tác TĐKT ngày hôm nay là rất thiết thực và ý nghĩa, giúp nâng cao chất lượng công tác TĐKT, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ TT&TT. Đồng thời đối với các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, thông qua việc tập huấn sẽ nhận thức sâu sắc, quán triệt đầy đủ ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng của công tác TĐKT để chỉ đạo, triển khai hiệu quả ở đơn vị mình. Thứ trưởng hi vọng hội nghị sẽ mang tới những kiến thức bổ ích, giúp các học viên nắm được sâu sắc hơn những vấn đề cơ bản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc; chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT; những kiến thức, kỹ năng trong việc chỉ đạo, tham mưu, đề xuất triển khai tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua, ứng dụng vào thực tế công việc. Từ đó đưa công tác TĐKT của ngành TT&TT ngày càng phát triển trong thời gian tới. Tại Hội nghị, các đại biểu được lắng nghe cơ sở lý luận từ chuyên đề “Tuyên truyền tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng” do PGS.TS, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thế Thắng, Trưởng khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Khu vực I, trình bày. Vụ trưởng Vụ TĐKT Phạm Minh Tiến phổ biến, trang bị các kỹ năng thực tế trong công tác phát hiện, giới thiệu, nhân rộng điển hình tiên tiến, tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt, các mô hình mới, nhân tố mới, cách làm hay, hiệu quả để nhân rộng, lan tỏa trong cơ quan, đơn vị và hướng dẫn lập hồ sơ trình xét khen thưởng cấp Bộ, cấp Nhà nước và một số nội dung cần lưu ý trong công tác thi đua, khen thưởng hiện nay. Ngoài ra, Hội nghị cũng dành thời gian cho các đại biểu trao đổi, thảo luận và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai công tác thi đua, khen thưởng trong thực tế. Thảo Anh  

Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay

TĐKT - Ngày 28/8, tại Hà Nội, Liên Hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) tổ chức diễn đàn khoa học “Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay”. Đến dự và chủ trì diễn đàn khoa học có Chủ tịch LHHVN Đặng Vũ Minh và Phó Chủ tịch LHHVN, đại biểu Quốc hội khóa 14 Nghiêm Vũ Khải. Diễn đàn nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay Phát biểu đề dẫn Diễn đàn, Phó Chủ tịch LHHVN, đại biểu Quốc hội khóa 14 Nghiêm Vũ Khải nhấn mạnh, đạo đức nghề nghiệp là những phẩm chất cần có của mỗi người theo đúng những quy tắc chuẩn mực của một nghề nhất định được cộng đồng xã hội thừa nhận. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc chi phối hành vi của một người hoặc một nhóm trong môi trường công việc. Giống như các giá trị, đạo đức nghề nghiệp cung cấp các quy tắc về cách một người nên hành động đối với người khác và các tổ chức trong một môi trường như vậy Để các quy định đạo đức nghề nghiệp đi vào thực tế, cần phải thiết lập một cơ chế để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cũng như xét xử các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Một hệ thống đầy đủ phải bao gồm tổ chức và quy chế, trong đó, tổ chức phải có khả năng hướng dẫn, giám sát, thu thập thông tin phản hồi và hoàn thiện các quy định. Chính vì vậy, tại Diễn đàn, các đại biểu cùng nhau tìm giải pháp để khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, nhất là trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, nhằm tạo ra môi trường làm việc trong sạch, lành mạnh, thúc đẩy hiệu quả năng suất lao động, củng cố niềm tin của nhân dân… Nhìn chung ở lĩnh vực, ngành nghề nào bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ thì vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế với những mức độ biểu hiện đa dạng, khác nhau. Để khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, nhất là trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước nhằm tạo ra môi trường làm việc trong sạch, lành mạnh, thúc đẩy hiệu quả năng suất lao động, củng cố niềm tin của nhân dân, trước hết cần phải thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản: Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức đạo đức nghề nghiệp cho người lao động để họ hiểu sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của ngành nghề, từ đó bồi đắp tình yêu và tinh thần trách nhiệm với công việc được giao. Thứ hai, hoàn thiện và kiện toàn hệ thống pháp luật của từng ngành nghề, tạo cơ sở hành lang pháp lý cho việc khen thưởng và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với người lao động cũng như cán bộ lãnh đạo quản lý. Thứ ba, các cơ quan, đơn vị sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, người lao động phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng ý thức, tinh thần đạo đức nghề nghiệp cho người lao động, không ngừng học tập kinh nghiệm quản lý nhân sự, nghệ thuật thu phục nhân tâm của các nước tiên tiến trên thế giới. La Giang

Hội thảo khoa học Quốc gia “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”

TĐKT - Ngày 28/8, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì Hội thảo. Các đồng chí chủ trì Hội thảo Tại Hội thảo, hơn  60 tham luận đã tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung, giá trị lý luận, thực tiễn và kết quả của việc thực hiện Di chúc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong 50 năm qua; trên cơ sở đó, tiếp tục khẳng định giá trị của bản Di chúc và rút ra những bài học kinh nghiệm, những giải pháp đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương khẳng định, bản Di chúc thiêng liêng của Người để lại một văn kiện lịch sử quý báu được kết tinh từ giá trị văn hóa dân tộc thể hiện sâu sắc nhất tinh hoa tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, phong cách và tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân. Đây là dịp để chúng ta nghiên cứu và nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, vai trò cương lĩnh, định hướng của bản Di chúc mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Đồng thời, qua Hội thảo này, chúng ta có dịp nhìn nhận, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những thành tựu nổi bật và cả những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục, sửa chữa qua chặng đường 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong 50 năm qua, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, luôn xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên và then chốt. Trong các kỳ Đại hội của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã nghiên cứu bổ sung nội dung xây dựng Đảng vào Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; ban hành các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng. Liên tục trong 2 nhiệm kỳ vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ” và điều này luôn được kết hợp trong việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cuộc vận động đã trở thành phong trào sinh hoạt chính trị sâu rộng khắp trên phạm vi cả nước. Kết quả, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các chi bộ cơ sở đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều chi bộ, Đảng bộ và cán bộ, đảng viên đã được nâng lên. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác quan điểm sai trái, thù địch; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Với quyết tâm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thường xuyên thiếu lương thực, thực phẩm, phải xin viện trợ và nhập khẩu, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong những nước phát triển và đứng đầu trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp trên thế giới. Theo số liệu thống kê, đến năm 2018, quy mô của nền kinh tế Việt Nam đạt 245 tỷ USD, đứng thứ 44 trên thế giới về GDP và đứng thứ 34 theo sức mua. GDP bình quân đầu người đạt 2.580 USD, khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam với các nước đã được thu hẹp. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết và hợp tác quốc tế trong thời kỳ mới, Đảng đã lãnh đạo xây dựng và “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Từ một nước bị bao vây cấm vận, đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước; đồng thời tích cực tham gia vào các công việc chung của cộng động quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế; được bầu làm thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, lần thứ hai trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc… Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, hiệu quả đã góp phần quan trọng vào giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình cho phát triển đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Những kết quả đó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã vận dụng thành công vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hưng Vũ

Đà Nẵng ban hành kế hoạch tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến, đại hội thi đua yêu nước các cấp

TĐKT - Thực hiện Kế hoạch số 19/KH-HĐTĐKT ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương về việc tổ chức Đại hội thi đua yêu nước các cấp tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, UBND TP Đà Nẵng đã ban hành Kế hoạch số 5144/KH-UBND về tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến, Đại hội thi đua yêu nước các cấp, tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ V và Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Theo đó, trong quý I/2020, cấp cơ sở (phường, xã, doanh nghiệp nhà nước) tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến. Tiếp đó, trong quý II/2020, các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể thành phố tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến (riêng đối với các quận, huyện, tổ chức đại hội thi đua yêu nước). Trên cơ sở đó, TP Đà Nẵng sẽ tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ V trong quý III/2020. Lãnh đạo TP Đà Nẵng khen thưởng các đơn vị xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước tại Đại hội thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ IV - 2015 Căn cứ Kế hoạch, UBND TP Đà Nẵng yêu cầu các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, cụm trưởng, khối trưởng cụm, khối thi đua tổ chức các hoạt động, phong trào thi đua thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Thi đua yêu nước thành phố lần thứ V, tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng các cấp, tập trung vào các hoạt động: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin truyền thông tập trung tuyên truyền về đại hội thi đua, biểu dương ghi nhận những thành quả của phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của thành phố; mở rộng nhiều hình thức tuyên truyền, biểu dương các điển hình tiên tiến, các nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt, tạo không khí sôi nổi, chào mừng các ngày kỷ niệm lớn trong năm 2019 và 2020, chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXII và Đại hội thi đua yêu nước thành phố lần thứ V. Phát động đợt thi đua đặc biệt, sôi nổi, sâu rộng, thiết thực, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020, đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, giảm thiểu tai nạn giao thông, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng bộ máy vững mạnh gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội. Tập trung triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua trọng tâm: “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”. Tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện và tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “TP Đà Nẵng chung sức xây dựng nông thôn mới”. Đồng thời, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu xuất sắc trong thực hiện các phong trào thi đua. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện tốt Luật Thi đua, khen thưởng và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, các quy định về công tác thi đua, khen thưởng của TP Đà Nẵng, nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm chấp hành tốt các pháp luật và các chính sách về thi đua, khen thưởng. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng, để công tác thi đua, khen thưởng thực sự là động lực mạnh mẽ trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Chú trọng việc phát hiện các điển hình tiên tiến và nhân tố mới thực sự tiêu biểu trong các phong trào thi đua yêu nước, được quần chúng, tập thể suy tôn để biểu dương, tôn vinh kịp thời và đề nghị các hình thức khen thưởng phù hợp, xứng đáng, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, nhân rộng để các điển hình tiên tiến tiêu biểu được lan tỏa thực sự hiệu quả trong cuộc sống. Trần Danh Nam

Mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý trong phát triển xã hội

TĐKT – Sáng 13/8, tại Hà Nội, Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) tổ chức Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý trong phát triển xã hội”. TS. Phùng Thảo, Viện trưởng Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý và GS.TS Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện kinh tế, pháp luật và Quản lý chủ trì Hội thảo. Toàn cảnh hội thảo Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Phùng Thảo nhấn mạnh: Kinh tế, pháp luật và quản lý là những phạm trù vô cùng rộng lớn, nhất là trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện nội dung, mối quan hệ giữa các phạm trù nói trên, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước ban hành nhiều bộ luật, nhiều chính sách, có nhiều giải pháp, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức kinh tế xã hội đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo, đưa ra nhiều kiến nghị, đề xuất giải pháp, song vẫn là không đủ để nền kinh tế nước ta với nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) vẫn còn gặp nhiều rào cản khó khăn, đồng thời pháp luật cũng còn khá nhiều kẽ hở... Đây là cuộc hội thảo đầu tiên của Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý nhằm trao đổi, thảo luận giữa các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành với sự tham gia của một số đại biểu là các nhà hoạt động xã hội, các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để bước đầu thống nhất nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế với pháp luật và quản lý trong phát triển bền vững và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất các khuyến nghị, phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ đa chiều, phức tạp mà chủ đề hội thảo đã xác định. Theo GS. TS Hoàng Chí Bảo: Ba lĩnh vực kinh tế, pháp luật và quản lý đều liên quan trực tiếp tới phương hướng, mục tiêu của đổi mới và phát triển ở nước ta, đặc biệt là hướng tới phát triển bền vững và hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới thể chế, cơ chế và chính sách, đổi mới phương thức huy động các nguồn lực và phân bổ nguồn lực cho phát triển. Để đạt được mục đích đó, tất yếu phải nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý. Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận về 3 vấn đề lớn: Thứ nhất, từ những hiểu biết chung về kinh tế, pháp luật và quản lý, để tập trung nghiên cứu vào mối quan hệ giữa ba lĩnh vực, ba thực thể này, cần giới hạn vấn đề, xác định rõ những điểm khu biệt. Đó là các giới thuyết khoa học cần thiết cho nghiên cứu. Về kinh tế, tập trung làm rõ vai trò của kinh tế thị trường hiện đại mà chúng ta đang xây dựng, đang nỗ lực định hình nó trong phát triển, hiện đại hóa đất nước thông qua đổi mới và hội nhập. Về pháp luật, tập trung làm rõ vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, trong quản lý kinh tế - xã hội, trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, liên quan trực tiếp tới phạm trù quản lý. Đây là phương diện xã hội (nghĩa hẹp) trong cấu trúc tổng thể của xã hội (nghĩa rộng). Quản lý nói ở đây là quản lý các vấn đề xã hội, từ cơ cấu xã hội đến chính sách xã hội và an sinh xã hội, vận động và biến đổi trong nền kinh tế thị trường, trong tác động, chi phối của thể chế dân chủ - pháp quyền. Thứ hai, tại hội thảo, các đại biểu, nhà khoa học cũng nêu lên những hướng tiếp cận khác nhau về mối quan hệ này để từ đó nhận biết các hình thái biểu hiện của quan hệ; các thuộc tính, đặc điểm của quan hệ; các cấp độ, phạm vi của quan hệ chi phối lẫn nhau đều tham chiếu vào mục tiêu phát triển, phát triển bền vững xã hội và con người; đánh giá thực trạng giải quyết các quan hệ đó ở nước ta từ thực tiễn đổi mới và hội nhập; những vấn đề đặt ra (tình huống và nghịch lý) cần được phát hiện để xử lý. Nội dung thứ ba mà các đại biểu đề cập, trao đổi đến là về những đề xuất, khuyến nghị các giải pháp, các điều kiện nhằm nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ. Đâu là khâu đột phá? Đâu là yêu cầu bức xúc, trước mắt, đâu là yêu cầu cơ bản, lâu dài? Ngoài ra, các đại biểu còn đề cập tới các khía cạnh khác liên quan đến chủ đề và hướng đích của hội thảo, góp phần làm rõ thêm bản chất, nội dung mối quan hệ theo những lý giải riêng của mình: Có thể vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển Mác xít, đặc biệt là tư duy và tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào để nhận biết và giải quyết mối quan hệ; có thể tiếp thu kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ trong phát triển từ trình độ và phương pháp quản lý của các nước tiên tiến như thế nào, vận dụng vào Việt Nam; ba chiều cạnh của phát triển bền vững mà thế giới đang quan tâm là kinh tế - xã hội và môi trường. Với Việt Nam, ngoài ba chiều cạnh đó, chiều cạnh chính trị (thể chế) và văn hóa có vai trò quan trọng ra sao trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhất là trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị. Việt Nam đang chú trọng phát triển kinh tế tư nhân với những nhận thức mới, đang ra sức siết chặt kỷ cương, luật pháp, đề cao đạo đức trong xây dựng Đảng, giáo dục đạo đức công chức và kỷ luật công vụ để đáp ứng đòi hỏi mới của phát triển đất nước. Điều đó có tác động như thế nào tới việc giải quyết mối quan hệ kinh tế - pháp luật - quản lý hiện nay... Mai Thảo

Quân đội nhân dân Việt Nam chung tay, chung sức vì một thế giới – một tương lai ngày mai tươi xanh

TĐKT - Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng trên các mặt báo và bảo vệ môi trường (BVMT) đang trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, một hoạt động có tính xã hội sâu sắc và nhận được sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành, mọi quốc gia trên thế giới. Bên cạnh nhiệm vụ chính trị, BVMT là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, đã, đang được triển khai sâu rộng ở các đơn vị trong toàn quân. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BVMT trong quân đội là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sức khỏe bộ đội và hiệu quả hoạt động quân sự, góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiệm vụ BVMT của quân đội được đặt ra trên cơ sở tính chất đặc thù của hoạt động quân sự như đóng quân, canh phòng, huấn luyện, diễn tập; sản xuất, sửa chữa, thử nghiệm vũ khí - khí tài quân dụng; niêm cất bảo quản vũ khí, khí tài, vật tư, trang thiết bị; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật... Phạm vi hoạt động của các đơn vị quân đội rất rộng lớn: trên đất liền, trên không, trên sông, biển, biên giới, hải đảo...; các hoạt động quân sự đặc thù này đều có những tác động nhất định đến môi trường sinh thái ở những mức độ khác nhau. Do đó, quân đội phải là lực lượng trực tiếp BVMT khu vực đóng quân, khu vực sản xuất, sửa chữa quốc phòng, trong các hoạt động y dược, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và diễn tập... Bên cạnh đó, trước yêu cầu nhiệm vụ có bước phát triển mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quân đội còn là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ BVMT quốc gia như: Khắc phục hậu quả tồn lưu bom, mìn, chất độc hóa học đioxin sau chiến tranh và ứng cứu sự cố môi trường… Thực trạng công tác BVMT trong quân đội thời gian qua Với phương châm “Ở đâu có hoạt động của bộ đội thì ở đó có hoạt động BVMT”, trong những năm qua, công tác BVMT đã được các cấp, các ngành trong toàn quân quan tâm và thu được những kết quả đáng kể. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm về BVMT được các đơn vị đặc biệt coi trọng, với nhiều hình thức phong phú. Bộ Quốc phòng đã ban hành các văn bản pháp quy và tổ chức triển khai học tập Luật BVMT, quán triệt Chỉ thị của Bộ trưởng về nhiệm vụ BVMT trong quân đội cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân. Nhiều đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, tọa đàm về BVMT, cuộc thi “Viết về môi trường trong quân đội”; tổ chức nhiều hoạt động hưởng ứng “Ngày môi trường thế giới 5/6”, “Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn”; phát động thi đua “Xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, xanh, sạch đẹp” giữa các đơn vị… Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực BVMT không ngừng được đẩy mạnh. Theo số liệu báo cáo của Cục Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng, từ năm 2005 đến nay đã có gần 200 công trình cấp Nhà nước và cấp Bộ Quốc phòng liên quan đến lĩnh vực BVMT được nghiên cứu và triển khai ứng dụng trong thực tiễn như: Xử lý chất thải công nghệp, chất thải độc hại ở các cơ sở sản xuất, sửa chữa quốc phòng; xử lý chất thải y tế ở các bệnh viện, chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh; xử lý nước sinh hoạt cho bộ đội… Bộ Quốc phòng đã triển khai, thành lập 3 trạm quan trắc môi trường thuộc mạng lưới quốc gia (Viện Hoá Học và Môi trường Quân sự - Bộ Tư lệnh Hóa học; Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường biển - Quân chủng Hải quân; Viện Nhiệt đới môi trường - Viện Khoa học và công nghệ quân sự) nhằm kịp thời phát hiện, kiểm soát, giám sát ô nhiễm môi trường và triển khai các biện pháp xử lý sự cố môi trường. Một số đơn vị, nhà máy, cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ quân sự đã tiến hành quan trắc môi trường quân sự và tham gia quan trắc môi trường quốc gia, nghiên cứu công nghệ xử lý môi trường và triển khai các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường. Bộ Quốc phòng cũng luôn tích cực, chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc tế về BVMT, ứng phó biến đổi khí hậu, đặc biệt với các nước ASEAN; xây dựng và tổ chức lực lượng làm nòng cốt trong phòng, chống thiên tai và khắc phục sự cố môi trường; tham gia tích cực công tác xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường, rà phá bom mìn và xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh. Đến nay các đơn vị hóa học đã điều tra được 283 huyện, quận, thị xã của 34 tỉnh và một số cụm kho, kho lớn của Tổng cục Kỹ thuật, các Quân khu: 4, 5, 7, 9; phát hiện, thu gom và xử lý hơn 344 tấn chất độc CS và vũ khí, đạn dược, phương tiện chứa chất độc CS (trong đó có hơn 160 tấn chất độc CS và trên 184 tấn vũ khí, đạn dược chứa CS). Các khu kinh tế quốc phòng đóng quân ở địa bàn biên giới đã trồng mới, chăm sóc và bảo vệ được hàng chục nghìn ha rừng, tạo thêm việc làm cho hàng chục ngàn lao động là nhân dân vùng cao, vùng xa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư, ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh… Những kết quả đạt được trong công tác BVMT của đơn vị quân đội đã góp phần cùng với các bộ, ngành và nhân dân giảm thiểu đảng kể tình trạng ô nhiễm, đảm bảo môi trường trong sạch cho phát triển kinh tế - xã hội và an ninh môi trường quốc gia. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác BVMT trong quân đội cũng đang gặp nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện và còn tồn tại một số hạn chế như: Hoạt động môi trường quân sự còn thiếu quy hoạch tổng thể; việc xử lý một số sự cố môi trường bức xúc ở các đơn vị, cơ sở sản xuất quốc phòng, bệnh viện còn chậm; việc lồng ghép giữa thực hiện nhiệm vụ chính trị đơn vị với việc thực hiện Luật BVMT và các quy định BVMT khác của Nhà nước còn nhiều bất cập; trình độ trang thiết bị, công nghệ sản xuất quốc phòng nhìn chung còn lạc hậu, có nơi công nghệ sản xuất quá cũ nên đã phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường, thậm chí có chất thải quân sự gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; việc đầu tư các nguồn lực cho công tác BVMT chưa tương xứng; nguồn nhân lực chuyên trách cho công tác BVMT còn mỏng, chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm; công tác BVMT ở một số đơn vị vẫn chưa thực sự trở thành hoạt động thường xuyên và được coi trọng đúng mức; nhận thức về công tác BVMT của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và chiến sĩ có nơi còn hạn chế, chưa ngang tầm… Phát huy vai trò của quân đội với nhiệm vụ BVMT Trước yêu cầu nhiệm vụ có bước phát triển mới đặt ra việc phải nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả BVMT trong quân đội. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Luật BVMT 2014; Điều lệ công tác BVMT và ứng phó với biết đổi khí hậu của Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 2015; Nghị quyết số 24-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; Chiến lược bảo vệ môi trường của Bộ quốc phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Văn kiện Đại hội XII của Đảng liên quan đến công tác BVMT và khắc phục thực trạng BVMT, các đơn vị trong toàn quân cần tập trung làm tốt một số giải pháp sau: Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác BVMT cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân; đưa nội dung BVMT thành chỉ tiêu thi đua ở các đơn vị. Các đơn vị tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng nắm chắc các văn bản quy định của Nhà nước liên quan đến BVMT, như: Luật BVMT, các nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ giao nhiệm vụ cho quân đội tham gia BVMT... Khẳng định BVMT đối với quân đội là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên - “một nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”. Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức tuyên truyền về công tác BVMT thông qua: Tuyên truyền miệng, các hội thi, hội thao, các hoạt động văn hóa văn nghệ…, lồng ghép giáo dục về BVMT trong các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ ở đơn vị mình. Phát động các phong trào thi đua xây dựng “doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”; trồng cây gây rừng... Xây dựng, bồi dưỡng điển hình, kịp thời biểu dương các đơn vị, doanh nghiệp quân đội đạt chuẩn quốc tế về môi trường, đủ điều kiện cấp chứng chỉ ISO 14001/2004; kiên quyết đấu tranh phê phán những việc làm sai trái, những hành vi phá hoại môi trường sinh thái, thực hiện quy định “Người gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền xử lý BVMT”. Trong chương trình, nội dung đào tạo của các nhà trường quân đội, với tư cách là những đơn vị cơ sở, cần chú ý lồng ghép với nội dung BVMT và tích cực đầu tư xây dựng cảnh quan môi trường mẫu mực, trực quan sinh động, phục vụ cho quá trình học tập của học viên. Hai là, củng cố, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy và kiện toàn các tổ chức BVMT ở các đơn vị trong toàn quân. Thường xuyên nghiên cứu ban hành, cập nhật, rà soát, bổ sung, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT theo thẩm quyền. Kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội về hoạt động BVMT phù hợp với điều kiện hoạt động của các đơn vị cơ sở. Hoàn thiện hệ thống văn bản, pháp quy về BVMT, nhằm tạo ra hành lang pháp lý cần thiết bảo đảm cho các đơn vị cơ sở đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác BVMT. Nghiên cứu đặc điểm môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực đóng quân, dự báo những vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe và hoạt động của bộ đội, qua đó có biện pháp BVMT sát thực. Cơ quan chức năng cần biên soạn, cung cấp tài liệu cho công tác học tập, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về vấn đề môi trường cho các đơn vị cơ sở. Trong điều kiện không có cơ quan chuyên trách về công tác môi trường ở các đơn vị cơ sở, cần phải lồng ghép các hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, nhân viên theo chức trách với hoạt động BVMT một cách linh hoạt, sáng tạo. Ba là, xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ BVMT trong tất cả các hoạt động quân sự ở các cơ quan, đơn vị. Với tính chất đặc thù của các đơn vị quân đội, trong tất cả các nhiệm vụ thường xuyên cũng như đột xuất đều cần phải tính toán đến các tác động tiêu cực đến môi trường từ đó đặt ra các tiêu chí, nhiệm vụ BVMT. Với vai trò là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ khắc phục sự cố BVMT quốc gia, quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh khắc phục hậu quả chất độc hóa học, bom, mìn và vật nổ còn sót sau chiến tranh do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; gương mẫu đi đầu trong giữ gìn, bảo tồn, phục hồi tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học: trồng, bảo vệ rừng, cải tạo cảnh quan, phát triển các mô hình kinh tế kết hợp với quốc phòng; nghiên cứu các giải pháp phòng và chống khủng bố môi trường, phòng chỗng vũ khí hoá học, sinh học và hạt nhân… Bốn là, xây dựng các tiêu chí cụ thể về BVMT sinh thái đối với các khu vực sản xuất, sửa chữa, thử nghiệm vũ khí, khí tài, trang bị và nơi ăn ở, sinh hoạt của các đơn vị cơ sở. Đây chính là hành lang pháp lý quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị cơ sở. Việc thực hiện đầy đủ các tiêu chí về BVMT sinh thái là một nội dung thi đua, bình xét khen thưởng hàng năm của các đơn vị cơ sở. Năm là, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, các chuyên gia về lĩnh vực BVMT. Các cơ quan chuyên môn cần tham mưu cho Thủ trưởng Bộ Quốc phòng xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo và huấn luyện nội dung BVMT trong các nhà trường quân đội; liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục về lĩnh vực môi trường cả trong và ngoài nước. Các đơn vị trong toàn quân cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ bồi dưỡng kiến thức, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo với đào tạo lại đối với cán bộ làm công tác BVMT, đặc biệt là những cán bộ trẻ. Có nhiều chính sách quan tâm đến đội ngũ cán bộ chuyên trách, đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật cao có kinh nghiệm trong thực tiễn, có nhiều đóng góp cho công tác BVMT. Sáu là, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ BVMT và nâng cao năng lực  quản lý Nhà nước về BVMT. Các cấp, ngành, đơn vị quân đội cần tăng cường đầu tư hệ thống quan trắc, xử lý ô nhiễm môi trường, chất thải quân sự, sử dụng nguồn năng lượng sạch, xử lý nguồn nước theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Tích cực nghiên cứu khoa học và ứng dụng phát triển công nghệ phục vụ BVMT, ưu tiên giải quyết những yêu cầu bức bách về cải thiện chất lượng cung cấp nước sinh hoạt cho bộ đội, các giải pháp bảo đảm vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, chuyển dịch các công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm sang công nghệ sạch và thân thiện môi trường; thực hiện điều tra cơ bản và quan trắc môi trường ở các trung tâm, cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp quân đội. Xây dựng các trạm quan trắc môi trường thuộc Viện Hoá Học và Môi trường Quân sự; Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường biển; Viện Nhiệt đới môi trường đủ năng lực phục vụ công tác BVMT cho các hoạt động quân sự và BVMT quốc gia. Nâng cao năng lực tham gia hoạt động quan trắc và giám sát môi trường (chất độc hóa học, phóng xạ, môi trường biển) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng và quốc gia. BVMT trong quân đội là vấn đề rất cấp thiết, là nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội, các đơn vị trong toàn quân cần quán triệt triển khai đầy đủ các nội dung cơ bản về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từng đơn vị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, cùng với thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cần kết hợp chặt chẽ với công tác BVMT; mở rộng hợp tác, tăng cường phối hợp hoạt động BVMT với các bộ, ngành, địa phương và quốc tế nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động BVMT ở đơn vị mình, phấn đấu xứng đáng là lực lượng nòng cốt, và thực sự xứng đáng với chức năng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất”, tiên phong trong hoạt động BVMT, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Đỗ Phú

Hội thảo “Công đoàn Việt Nam – 90 năm xây dựng và phát triển”

TĐKT - Sáng 24/7 tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Công đoàn Việt Nam – 90 năm xây dựng và phát triển”. Hội thảo là sự kiện lớn nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 90 năm thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2019). Dự Hội thảo có các đồng chí: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Bùi Văn Cường. Toàn cảnh Hội thảo Phát biểu khai mạc, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Bùi Văn Cường cho biết, từ khi thành lập đến nay, với những tên gọi phù hợp hoàn cảnh của mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Công đoàn Việt Nam luôn phát huy vai trò, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của cách mạng Việt Nam. Theo ông Bùi Văn Cường, trong bối cảnh mới, Công đoàn Việt Nam phải tiếp tục phát huy những kinh nghiệm và lợi thế đang có, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập, tập trung đổi mới đồng bộ cả về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động công đoàn để hoàn thành tốt vai trò tổ chức đại diện cho giai cấp công nhân và người lao động, đồng thời là thành viên tích cực trong hệ thống chính trị Việt Nam. "Trên cơ sở nhìn lại chặng đường 90 năm đã qua của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đúc rút các thành tựu, bài học kinh nghiệm đã đạt được, Hội thảo khoa học Quốc gia “Công đoàn Việt Nam – 90 năm xây dựng và phát triển” tạo tiền đề vững chắc về lý luận, là một trong những cơ sở để tổ chức công đoàn vững bước tiến vào giai đoạn phát triển mới" - ông Bùi Văn Cường cho biết. Hội thảo được tổ chức thành 3 phiên với các chủ đề: Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức Công đoàn Việt Nam; đóng góp xuất sắc của tổ chức Công đoàn Việt Nam trong 90 năm xây dựng và phát triển; thời cơ, thách thức và những định hướng lớn đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Các đại biểu đã tập trung phân tích, tiếp tục làm rõ, sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận, lịch sử về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam; xác định vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị; làm rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn Việt Nam đối với đoàn viên, người lao động, với việc xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh, với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và việc giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Hội thảo cũng khái quát và khẳng định những cống hiến nổi bật, những thành tựu xuất sắc trong hoạt động công đoàn và phong trào công nhân Việt Nam suốt 90 năm qua; hướng đến đánh giá cơ hội, thách thức và đề xuất định hướng, giải pháp quan trọng cho hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới. Tại Hội thảo, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng khẳng định, trải qua chặng đường vẻ vang 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được rèn luyện và vượt qua nhiều thử thách, các thế hệ công nhân và người lao động Việt Nam đã không ngừng cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, anh dũng chiến đấu và cống hiến cả cuộc đời mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Theo Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trước những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng của bối cảnh quốc tế và đất nước, nhất là trước tác động của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tổ chức công đoàn cùng với giai cấp công nhân và người lao động đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức rất mới. Bối cảnh đó cũng đang đặt ra những yêu cầu mới cho sứ mệnh và vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Đoàn Minh Huấn cho rằng, trải qua gần một thế kỷ, giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu cùng với nhân dân cả nước viết nên trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của dân tộc, xứng đáng là giai cấp tiên phong, lãnh đạo trong mỗi thời kỳ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, tổ chức công đoàn không ngừng lớn mạnh, tiếp tục phát huy vai trò là người đại diện tin cậy của người lao động, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với người lao động, cùng với toàn dân tộc khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh. Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Đoàn Minh Huấn cho rằng, thời gian tới, tổ chức công đoàn cần tiếp tục nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động công nhân; tạo động lực cho công nhân phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt của khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đổi mới hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của công đoàn để nâng cao sức hấp dẫn, đoàn kết, vận động, tập hợp công nhân, mở rộng đối tượng lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức. Mai Thảo

Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần – Biện pháp hiệu quả trong giáo dục cải tạo phạm nhân

TĐKT – Trại giam Thanh Lâm (thuộc Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng – Bộ Công an) đóng quân trên địa bàn vùng núi phía Tây của tỉnh Thanh Hóa, cách xa trung tâm văn hóa, xã hội tỉnh gần 100 km, làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục phạm nhân. Những năm trở lại đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ công an, của Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Trại giam Thanh Lâm đã đổi thay về nhiều mặt, trong đó phải kể đến công tác thực hiện chế độ chính sách nâng cao đời sống tinh thần cho phạm nhân, giúp họ an tâm chấp hành án, tích cực lao động, học tập để sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và làm lại cuộc đời.  Trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người rất cần có tinh thần khích lệ, tạo đà làm việc và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Song đối với phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam thì món ăn tinh thần lớn nhất cho họ là nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao. Với quan điểm “Thông đầu, ấm bụng, tâm an”, Đảng ủy, Ban giám thị đã đề ra Nghị quyết chuyên đề nhằm nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho phạm nhân. Quy mô giam giữ 5.000 phạm nhân, tại 6 phân trại, một khu sản xuất, các phân trại lại đóng xa trung tâm chỉ huy, giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về mùa mưa lũ, đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác chỉ huy điều hành, kiểm tra, hướng dẫn và chỉ đạo. Song, với tinh thần đoàn kết một lòng, từ lãnh đạo chỉ huy cho đến cán bộ, chiến sĩ, đã vượt qua những khó khăn để tổ chức thực hiện nghiêm túc chế độ, chính sách cho phạm nhân. Do đặc thù riêng của đơn vị, lãnh đạo đơn vị thường xuyên chỉ đạo các đội nghiệp vụ kiểm tra, hướng dẫn các phân trại, khu sản xuất tổ chức thực hiện nghiêm túc chế độ, chính sách đối với phạm nhân. Với mục tiêu để mỗi bữa ăn của phạm nhân đảm bảo có chất, đủ định lượng, tại các cuộc họp, Đảng ủy đề ra biện pháp, cách thức và quy đổi những thực phẩm mà Nhà nước cấp phù hợp với thực tế, điều kiện của mỗi phân trại, khu sản xuất, như trích 3kg gạo từ chế độ 17kg/phạm nhân/tháng hoán đổi thành 3kg bột mỳ để tổ chức ăn sáng cho phạm nhân toàn trại bằng bánh mỳ, từ nước mắm quy đổi thành bột nêm, cá khô quy đổi thành trứng hoặc lạc, thịt lợn hoán đổi sang thịt gà… Trong một tuần ít nhất phạm nhân được ăn bữa trứng luộc, lạc rang, thịt lợn, cá tươi, đậu phụ. Đặc biệt trong các ngày lễ tết, với chế độ mà Nhà nước cấp, đơn vị đã tổ chức cho phạm nhân ăn theo đúng quy định như thịt gà, thịt lợn, canh măng xương hoặc miến, giò nạc, giò chả… Vì vậy trong các bữa ăn hàng ngày của phạm nhân đều có chất, đảm bảo sức khỏe cho họ lao động và cải tạo. Đại tá Nguyễn Đình Giang - Giám thị Trại giam Thanh Lâm trực tiếp kiểm tra việc tổ chức thực hiện chế độ, tiêu chuẩn ăn cho phạm nhân tại các phân trại Song song với công tác thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho người tù, Trại giam Thanh Lâm còn tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, văn hóa, văn nghệ, thể thể thao cho phạm nhân. Vào dịp Tết Nguyên đán, Trại tổ chức cho phạm nhân thi gói “Bánh chưng xanh nhanh và đẹp”, “bày mâm ngũ quả ngày xuân”, thi “gói giò chả”, tổ chức cho phạm nhân hát tại hội trường phạm nhân, các trò chơi dân gian như kéo co, bịt mắt bắt vịt, cờ tướng, cờ người… Vào các dịp ngày lễ 30/4, 1/5, tổ chức giao lưu văn nghệ, giao hữu bóng đá mini, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông giữa các phân trại, khu sản xuất. Bên cạnh đó, để khuyến khích những phạm nhân có năng khiếu, tăng cường sức khỏe và tạo không khí thi đua sôi nổi giữa các nhân phạm nhân, các đội phạm nhân, giữa các phân trại, khu sản xuất, hàng năm đơn vị tổ chức Hội thao các môn như bóng chuyền, bóng đá mini, kéo co, co tay xà đơn, nhảy xa…, tổ chức thi viết báo tường vào dịp 19/5 ngày sinh nhật Bác Hồ, dịp quốc khánh 2/9, tổ chức thi viết về hình tượng người chiến sỹ cảnh sát trại giam vào dịp 7/11. Nhằm nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, đặc biệt là sự chia sẻ của phạm nhân, đơn vị đã lựa chọn trong hơn 3.460 lá thư trong phong trào “viết thư gửi lời xin lỗi” để biên tập thành ấn phẩm “Thư xin lỗi, con đường của sự hoàn lương” để chuyển vào thư viện cho phạm nhân toàn trại đọc. Mặt khác, chủ động sưu tầm các phim tài liệu về chiến thắng 30/4 ngày thống nhất đất nước, quá trình bôn ba tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những phút giây cuối cùng của Bác, những câu chuyện có thật trong chương trình “Phía sau bản án”…. Bên cạnh đó, đơn vị tự xây dựng kịch bản về quá trình học tập, lao động, cải tạo, những gương phạm nhân cải tạo tiến bộ, những chia sẻ của người trong cuộc, sự cảm thông đùm bọc của gia đình làm phim phóng sự để chiếu cho toàn thể phạm nhân xem vào các ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, Hội nghị đại biểu gia đình phạm nhân, vào dịp sơ kết, tổng kết phong trào thi đua chấp hành án phạt tù hàng năm. Phạm nhân Trại giam Thanh Lâm chăm chú xem phóng sự về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp Quốc khánh 2/9 Trại giam xác định Hội nghị gia đình phạm nhân là nhịp cầu của nhân ái, của sự cảm thông sẻ chia, thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của Đảng, qua đó tạo điều kiện cho gia đình, thân nhân phạm nhân hiểu, nhận thức và biết được đều kiện chấp hành án của con em mình, phối hợp với Trại giam giáo dục con em sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, hàng năm Trại đều tổ chức Hội nghị gia đình phạm nhân ngay tại các phân trại. Các đơn vị có số lượng phạm nhân ít thì vào các dịp sơ kết, tổng kết phong trào thi đua chấp hành án phạt tù mời đại diện thân nhân gia đình đến dự. Tổ chức giao lưu bóng chuyền phạm nhân giữa các phân trại nhân dịp nghỉ lễ 30/4 -  01/5 Tục ngữ có câu “Tư tưởng không thông, vác bình tông cũng không nổi”, những ngày đầu tiên phạm nhân vào trại chấp hành án, trong họ sẽ có nhiều suy nghĩ, lo lắng, mặc cảm, thiếu tự tin. Thấu hiếu những điều đó, Đảng ủy Ban giám thị chỉ đạo Đội giáo dục hồ sơ, đội quản giáo tổ chức giáo dục công dân, tuyên truyền đường lối, chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, các chế độ, định lượng, tiêu chuẩn, chế độ ăn, mặc, thăm gặp, liên lạc, khám, chữa bệnh, được nghỉ và vui chơi giải trí vào các dịp lễ tết… để từ đó họ an tâm tư tưởng, chấp hành bản án. Cùng với đó, phối hợp với các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn cơ sở tặng quà cho phạm nhân bản thân là thương binh, con liệt sĩ, con của Mẹ Việt Nam Anh hùng nhân dịp 27/7. Tổ chức phát động cán bộ, chiến sĩ và phạm nhân ủng hộ Quỹ Tấm lòng vàng để trao tặng cho phạm nhân có điều kiện hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, không ai thăm nuôi. Phát động tinh thần tương thân, tương ái làm cho số phạm nhân có điều kiện tự trích tiền lưu ký của mình ủng hộ cho những phạm nhân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hơn, từ đó, giúp họ ăn năn hối cải, nhận tội lỗi của bản thân và định hướng cho mình con đường lao động cải tạo đúng đắn nhất, sớm về đoàn tụ với gia đình và làm lại cuộc đời. Công tác giáo dục phạm nhân là một nhiệm vụ hết sức nặng nề và rất cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành, sự đoàn kết thống nhất của cả tập thể. Đặc biệt, phải tổ chức thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách, quy trình công tác, các quy định của ngành. Bên cạnh đó phải quan tâm đến đời sống tinh thần cho mỗi phạm nhân, làm cho họ yên tâm tư tưởng, từ đó chấp hành tốt nội quy trại giam, tự giác lao động, học tập và rèn luyện. Đó cũng là một biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo an ninh an toàn trại giam trong mọi tình huống. Trung tá Lê Văn Thụ

Cục Thi đua – Khen thưởng nước CHDCND Lào thăm và làm việc tại VietinBank và Viettel

TĐKT – Ngày 4/7, Cục Thi đua – Khen thưởng (TĐKT) nước CHDCND Lào do Cục trưởng Dia Lo - Chia Va làm trưởng đoàn đã tới thăm và làm việc tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinbBank) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội Việt Nam (Viettel). Ông Nguyễn Khắc Hà, Vụ trưởng Vụ TĐKT các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương phát biểu khai mạc chương trình làm việc tại VietinBank Phát biểu tại các buổi làm việc, ông Nguyễn Khắc Hà, Vụ trưởng Vụ TĐKT các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương (Ban TĐKT Trung ương, Việt Nam) khẳng định: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam và Lào luôn đặt công tác TĐKT có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc của cả hai dân tộc. Đồng thời, hai Nhà nước cũng luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước đối với công tác TĐKT trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Đoàn cán bộ và lãnh đạo của Cục TĐKT nhà nước Lào sang thăm, làm việc và trao đổi kinh nghiệm về công tác TĐKT tại Việt Nam lần này với những nội dung chính: Nghiên cứu về chính sách khen thưởng, kinh nghiệm công tác tổ chức phong trào thi đua hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác TĐKT và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Đồng thời, đoàn công tác cũng mong muốn tiếp nhận những đề xuất của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Tập đoàn Viễn thông Quân đội về đề nghị khen thưởng của Nhà nước Lào đối với những tập thể, cá nhân của các đơn vị đã góp phần nhỏ bé của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc của nhân dân các bộ tộc Lào trước đây và hiện nay. Phát biểu tại buổi làm việc, ông Dia Lo - Chia Va, Cục trưởng Cục TĐKT nhà nước Lào bày tỏ sự xúc động trước sự đón tiếp nồng nhiệt, ấm cúng của ban lãnh đạo Vietinbank, Viettel. Mục đích chuyến đi của Đoàn nhằm tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lĩnh vực TĐKT của các bộ, ban, ngành. Tin tưởng rằng trong chuyến thăm, làm việc lần này, Đoàn sẽ thu hái được những kinh nghiệm quý báu để phục vụ cho công việc khi trở về nước. Lãnh đạo VietinBank tặng hoa chúc mừng Đoàn công tác Trao đổi với đoàn công tác, bà Trần Thu Huyền, thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) kiêm Giám đốc Khối Nhân sự VietinBank đã thông tin một số nét chính về lịch sử hình thành và phát triển cũng như tình hình hoạt động của VietinBank; đồng thời nêu bật những thành tựu, kết quả cũng như bài học của VietinBank trong thực hiện công tác TĐKT. Theo đó, năm 2018, dưới sự chỉ đạo sát sao, định hướng rất cụ thể, thường xuyên, kịp thời của Thường vụ Đảng ủy, HĐQT và Ban Lãnh đạo VietinBank, công tác TĐKT toàn hệ thống đã đổi mới toàn diện và sâu sắc. Các hoạt động TĐKT luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và hoạt động kinh doanh, khuyến khích và động viên được toàn thể cán bộ, người lao động phát huy tinh thần đoàn kết, lao động hăng say, tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào thi đua, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa hệ thống VietinBank hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước giao. Có thể nói, công tác TĐKT trong năm 2018 đã thực sự tạo động lực giúp hệ thống VietinBank đổi mới toàn diện và phát triển bền vững. Cục trưởng Cục TĐKT nhà nước Lào Dia Lo - Chia Va phát biểu trong buổi làm việc với Viettel Tại Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Thượng tá Tào Đức Thắng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn đã giới thiệu với Đoàn phương pháp, cách làm công tác TĐKT tại Viettel. Mỗi tập thể, mỗi cá nhân ở Viettel đã thực hiện phong trào thi đua với các cách làm sáng tạo, khác biệt. Mỗi phong trào thi đua đều gắn liền với kết quả đo đếm được, không khuếch trương, không hô khẩu hiệu. Các chủ đề, nội dung thi đua luôn được cụ thể hóa, ánh xạ vào văn hóa Viettel, luôn định hướng hành động và không ngừng đổi mới. Thượng tá Tào Đức Thắng cho biết: Ở Viettel, không có những lời phát động, kêu gọi chung chung mà thi đua phải thấm sâu vào từng người, thi đua là công việc hàng ngày, nhưng hôm nay tốt hơn hôm qua, mới hơn ngày hôm qua. Các khối thi đua được chia nhỏ theo tính chất nhiệm vụ tương đồng, thi đua không chỉ theo diện rộng, bề ngang mà còn theo chiều dọc, ngành dọc, theo từng lĩnh vực công tác. Thượng tá Tào Đức Thắng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel giới thiệu với Đoàn phương pháp, cách làm công tác TĐKT tại Viettel. Đáng chú ý, trong triển khai thi đua, cùng với cách làm “từ trên xuống”, Viettel đã kết hợp “làm từ dưới lên”. Các đơn vị phía dưới sẽ chọn khâu đột phá, sát với thực tiễn đăng ký gửi về công ty của mình, các công ty lại đánh giá, chọn lọc rồi gửi về Tập đoàn phê duyệt, sau đó mới phát động. Viettel đã lượng hóa tiêu chí đánh giá hiệu quả các phong trào thi đua và ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào theo dõi kết quả thi đua đến từng tập thể, cá nhân làm cơ sở cho bình xét, tôn vinh, chính sách phúc lợi, quy hoạch, đào tạo cán bộ lâu dài. Một số những cách làm hiệu quả khác tại Viettel: Thi đua với “Mục tiêu cao, tìm đột phá, giải pháp mạnh”; thi đua làm “việc mới, việc khó”; thi đua tập trung vào cải thiện những việc còn yếu để nhanh chóng phát triển và phát triển bền vững; tổ chức thực hiện thi đua “3 cùng”… Viettel theo đuổi quan điểm: Khen thưởng “công khai, công bằng”, “xứng tầm, xứng đáng”, khen phải kịp thời, trang trọng, có sức tôn vinh, lan tỏa rộng; thưởng phải tương xứng cống hiến, tạo động lực thôi thúc mỗi cá nhân, tập thể. Đoàn công tác Cục TĐKT nhà nước Lào, đại diện Ban TĐKT Trung ương và Tập đoàn Viettel chụp ảnh lưu niệm Tại các buổi làm việc, Đoàn cùng các đơn vị đã có những trao đổi, thảo luận nhằm học hỏi kinh nghiệm trong công tác TĐKT. Đại diện VietinBank mong muốn phía Cục TĐKT nói riêng và các cơ quan Nhà nước Lào nói chung tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ VietinBank Lào kinh doanh hiệu quả; đồng thời khẳng định VietinBank sẵn sàng hỗ trợ Cục TĐKT Lào trong việc ứng dụng công nghệ vào công tác TĐKT. Nhân dịp này, đại diện Tập đoàn Viettel đề nghị Cục TĐKT nhà nước Lào xem xét, tham mưu đề xuất với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ nước CHDCND Lào xét khen thưởng cho Tập đoàn Viettel, Tổng công ty Đầu tư quốc tế Viettel và các cá nhân có công lao to lớn đóng góp cho sự phát triển của Công ty Unitel, công tác an sinh, xã hội cũng như tạo việc làm cho người dân Lào, góp phần giữ gìn, phát triển mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa hai quốc gia. Đề nghị Ban TĐKT Trung ương, Hội đồng TĐKT Bộ Quốc phòng tạo điều kiện giúp đỡ Viettel, đặc biệt là việc xem xét, khen thưởng đối với các công ty tại thị trường nước ngoài của Viettel. Phương Thanh

Trang