Diễn đàn

Phát huy thế mạnh của từng đơn vị trong các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp

TĐKT - Chiều 17/12, tại Hà Nội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (UBTƯ MTTQ) Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp năm 2019. Dự Hội nghị, có: Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hà cùng đại diện lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp. Năm 2019, hoạt động của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp đã bám sát chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và hướng dẫn của UBTƯ MTTQ Việt Nam. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua được quan tâm. Các đơn vị đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Các tổ chức thành viên đã chủ động, sáng tạo trong tổ chức triển khai các phong trào thi đua, các cuộc vận động với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, có chủ đề, mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, phù hợp với điều kiện, đặc điểm và tình hình thực tiễn của tổ chức, đã từng bước phát triển cả bề rộng và chiều sâu; bám sát nhiệm vụ chính trị của từng tổ chức, về cơ bản đảm bảo các nội dung của giao ước thi đua đã ký kết. Hội nghị tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức liên hiệp năm 2019 của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam 9/9 tổ chức thành viên tiếp tục cụ thể hoá 3 phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động; 1 phong trào và 2 cuộc vận động do UBTƯ MTTQ Việt Nam Việt Nam phát động thành các phong trào thi đua, cuộc vận động của tổ chức với nhiều tên gọi cụ thể, phù hợp với đối tượng hội viên, đoàn viên, chiến sĩ của tổ chức mình. Tiêu biểu là: Phong trào thi đua “Doanh nghiệp Quân đội hội nhập và phát triển” của QĐND Việt Nam; Tổng LĐLĐ Việt Nam triển khai phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, phong trào “Đổi mới sáng tạo hiệu quả trong hoạt động của tổ chức Công đoàn” và Cuộc vận động “Cán bộ, công chức, viên chức nói không với tiêu cực”; Hội LHPN Việt Nam với 3.500 Chi hội phụ nữ triển khai cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” tại 46 tỉnh, thành… Công tác giám sát, phản biện xã hội cũng được các đơn vị thành viên tích cực thực hiện. Hầu hết các đơn vị đã chủ động xây dựng kế hoạch/chương trình giám sát, phản biện xã hội và triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Trong năm, các cấp Hội Cựu chiến binh đã phối hợp với cơ quan chức năng giám sát 876 cuộc, nội dung tập trung vào giám sát thực hiện nghị quyết của Đảng khóa XII, vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, giám sát, đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước, giám sát cán bộ đảng viên. Hội Nông dân Việt Nam tổ chức 597 đoàn giám sát, phối hợp tổ chức 782 đoàn liên ngành giám sát việc thực hiện pháp luật về sản xuất, buôn bán vật tư nông nghiệp, trong đó tập trung giám sát cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm, tham gia 646 đoàn giám sát do HĐND, Ủy ban MTTQ, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì; tiếp thu phản ánh, kiến nghị của hội viên, nông dân… Tại Hội nghị, các đơn vị trong cụm đã trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong tổ chức triển khai các phong trào thi đua, các cuộc vận động với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, có chủ đề, mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện, đặc điểm và tình hình thực tiễn của tổ chức. Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn phát biểu tại Hội nghị Trong năm 2020, các tổ chức trong cụm tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình phối hợp và thống nhất hành động năm 2020; phát động và tổ chức triển khai thực hiện đợt thi đua đặc biệt lập thành tích chào mừng các ngày kỷ niệm lớn của đất nước trong năm 2020, chào mừng Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; tiếp tục tuyên tuyền, biểu dương thành tích của các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, các nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt trong thực hiện phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, biểu dương, chú trọng tuyên truyền rộng rãi thông qua các kênh truyền thông, mạng xã hội để phát hiện, cổ vũ, động viên, lan tỏa các điển hình tiên tiến... Phát biểu tại Hội nghị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn đề nghị, năm 2020, Cụm thi đua tiếp tục hướng các phong trào về cơ sở; quan tâm đến việc xây dựng và phát huy, nhân rộng các mô hình, điển hình; đồng thời, chia sẻ những cách làm hay, sáng tạo của tổ chức trong triển khai các phong trào thi đua.  Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp cần tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; triển khai hiệu quả các hoạt động giám sát và phản biện xã hội theo Quyết định 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị. “Mỗi tổ chức trong Cụm thi đua sẽ vận dụng sáng tạo, có nhiều sáng kiến có tính đột phá, đề ra các nhóm nhiệm vụ tiêu biểu và đặc thù tương ứng để tạo nên nét riêng, bản sắc, phát huy thế mạnh, khả năng, tính ưu việt của từng tổ chức để triển khai thành công giao ước thi đua được ký kết. Đặc biệt, tập trung nhiều hơn vào một số lĩnh vực nổi cộm được nhân dân quan tâm như bảo đảm an toàn thực phẩm; chống và giảm ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn và ô nhiễm nguồn nước ở các vùng nông thôn; phòng, chống cháy nổ; giảm thiểu tai nạn giao thông; nâng cao chất lượng và điều kiện làm việc cho công nhân ở các khu công nghiệp…” Chủ tịch Trần Thanh Mẫn lưu ý. Tại Hội nghị, Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp đã thực hiện việc bình xét các danh hiệu để đề nghị Hội đồng Thi đua - Khen thưởng của UBTƯ MTTQ Việt Nam xem xét, quyết định. Hội nghị cũng đã thống nhất suy tôn Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam làm Cụm trưởng Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp năm 2020. Mai Thảo

Kiểm tra, giám sát công tác thi đua, khen thưởng tại TP Hồ Chí Minh

TĐKT - Chiều 12/12, đoàn công tác của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (TĐKT) Trung ương do đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng TĐKT Trung ương làm trưởng đoàn đã đến kiểm tra, giám sát công tác TĐKT tại TP Hồ Chí Minh. Cùng dự buổi làm việc, có các đồng chí: Trần Thị Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương; Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Lê Thanh Liêm, Phó Chủ tịch Thường trực UBND, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng TĐKT TP Hồ Chí Minh; Tô Thị Bích Châu, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP Hồ Chí Minh cùng đại diện lãnh đạo HĐND, UBND... Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng TĐKT Trung ương phát biểu tại buổi làm việc. Báo cáo kết quả thực hiện công tác TĐKT trong năm 2019, ông Huỳnh Công Hùng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT, Trưởng Ban TĐKT TP Hồ Chí Minh cho biết: Thành phố không ngừng đổi mới nội dung, phương thức tổ chức phong trào thi đua, công tác TĐKT. Các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể và Hội đồng TĐKT các cấp luôn quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện các phong trào thi đua, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, hưởng ứng, tạo được không khí thi đua sôi nổi, tạo sự lan tỏa rộng lớn trong các lĩnh vực đời sống xã hội của thành phố. Việc triển khai phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 - 2020 đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố phối hợp với các cấp, các ngành tích cực hỗ trợ cho 56 xã trên 4 lĩnh vực như: An sinh xã hội; phát triển sản xuất; hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao và làm đường giao thông, đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho các hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn. Đến hết tháng 11/2019. đã có 54/56 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo tiêu chí mới, đạt tỷ lệ 96,4%. Có 3/5 huyện đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Huyện đạt chuẩn nông thôn mới: Củ Chi, Hóc Môn và Nhà Bè; bình quân số tiêu chí đạt trên 1 xã là 18,66/19 tiêu chí. Dự kiến đến cuối quý I/2020, 56/56 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo tiêu chí mới. Trong triển khai phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, thành phố đã huy động được hơn 11.453 tỷ đồng để thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững. Qua đó, giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo so với kế hoạch, kéo giảm các chiều thiếu hụt của hộ nghèo, hộ cận nghèo. Tổng số hộ nghèo, cận nghèo toàn thành phố tính đến nay là 3.767 hộ, chiếm tỷ lệ 0,19% tổng dân số thành phố. Thành phố không còn hộ nghèo có thu nhập trong chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016 - 2020. Triển khai phong trào thi đua “Cải cách hành chính”, đã có 574 sáng kiến giải pháp trong lĩnh vực cải cách hành chính do các sở, ban, ngành, quận, huyện, phường, xã, thị trấn trên địa bàn thành phố đăng ký thực hiện; 157 giải pháp, sáng kiến đăng ký của khối Đảng, đoàn thể... Qua sơ kết, đã có 307/574 công trình cải cách hành chính được hoàn thành (đạt tỷ lệ 53,48%). Thành phố luôn quan tâm thiết thực công tác khen thưởng, đặc biệt là quan tâm khen thưởng đối với công nhân, nông dân và người trực tiếp lao động với (tỷ lệ năm 2018 chiếm tỷ lệ 41%, trong năm 2019 chiếm tỷ lệ 43%). Từ đầu năm 2019 đến nay, tổng số tiền chi khen thưởng là hơn 52 tỷ đồng. Đánh giá cao những hoạt động nổi bật trong triển khai các phong trào thi đua và công tác khen thưởng kịp thời, đúng người, đúng việc của thành phố, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn cho rằng, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy, sự điều hành chủ động, hiệu quả của HĐND, UBND thành phố, sự nỗ lực phấn đấu quyết tâm cao của các cấp, các ngành và nhân dân thành phố đã tạo nên không khí thi đua sôi nổi trên khắp thành phố. Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, là trung tâm văn hóa, lịch sử, du lịch, thể thao, là đô thị lớn nhất cả nước với quy mô dân số hơn 8,6 triệu người, thu ngân sách thành phố chiếm 27% cả nước, số doanh nghiệp chiếm 50%, lượng khách quốc tế chiếm 48%, kiều hối chiếm 50% của cả nước, GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 6.400 USD, cao gấp 2,34 lần mức trung bình cả nước. Thành phố đã luôn đổi mới công tác TĐKT với nhiều cách làm bài bản, sáng tạo thông qua các phong trào phong phú như: Phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào “Doanh nghiệp hội nhập và phát triển”, phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”… Cách làm của thành phố là cơ sở để Trung ương nghiên cứu đổi mới và phổ biến, chia sẻ kinh nghiệm cho các địa phương khác”, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh. Nhắc tới những vấn đề nổi cộm của thành phố hiện nay như xử lý rác thải, ô nhiễm môi trường, an ninh trật tự, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn cho rằng, khi phát động các phong trào thi đua cần gắn với quyền và lợi ích của người dân, để sau mỗi phong trào thi đua, người dân sẽ được hưởng không khí trong lành, an ninh trật tự được đảm bảo, tệ nạn xã hội được đẩy lùi và những thành quả trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đến gần với nhân dân hơn. “Làm sao để có nhiều điển hình và mô hình sáng tạo trên lĩnh vực kinh tế - văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh. Phải hành động kịp thời để đẩy lùi được tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, vì nếu không vào cuộc thì 10 năm tới 20 năm nữa, thế hệ trẻ của thành phố sẽ bị ma túy hủy hoại”, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn trăn trở. Đề cập tới công tác khen thưởng, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn đề nghị, Hội đồng TĐKT thành phố phải luôn công khai, minh bạch và dân chủ, phải khen trúng, khen đúng; đồng thời, hồ sơ khen thưởng phải đảm bảo đúng, đầy đủ thủ tục và phải có sự đồng thuận trong cơ quan, tổ chức và đơn vị đề xuất. Cán bộ làm công tác TĐKT phải nắm chắc các văn bản, Quy định, Nghị định của Đảng, Nhà nước và của thành phố về công tác TĐKT. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ phải luôn thuộc bài, làm đúng vai để công tác thi đua từng bước đi vào nền nếp và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Ban TĐKT Trung ương cần có những kiến nghị, đề xuất với Chính phủ nhằm tiếp tục sửa đổi Luật TĐKT để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của các địa phương. Để hoạt động thi đua tạo động lực cho kinh tế - xã hội phát triển, an ninh xã hội được đảm bảo, củng cố niềm tin trong nhân dân, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn đề nghị thành phố trong thời gian tới cần tiếp tục quán triệt thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TĐKT, nhất là thực hiện tốt Chỉ thị số 34 ngày 7/4/2014 của Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới công tác TĐKT. Gắn các phong trào thi đua yêu nước với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Đào Xuân Phúc

Hội nghị lấy ý kiến dự thảo Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi)

TĐKT - Sáng 6/12, tại Trung tâm Hội nghị TP Hồ Chí Minh, Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị lấy ý kiến về dự thảo Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi). Chủ trì Hội nghị có các đồng chí: Nguyễn Thanh Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương; Trần Thị Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban TĐKT Trung ương. Quang cảnh Hội nghị Tại Hội nghị, các đại biểu đã đóng góp ý kiến vào Dự án Luật thi đua Khen thưởng sửa đổi Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 phù hợp với thực tiễn. Theo đó, sau 15 năm thực hiện, Luật Thi đua, khen thưởng đã và đang đi vào cuộc sống, được các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần được nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với tình hình hiện nay. Một số phong trào thi đua còn hình thức, có phát động nhưng tổ chức thực hiện chưa hiệu quả, việc sơ kết, tổng kết và khen thưởng chưa kịp thời, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân. Tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua chưa cụ thể, rõ ràng, việc bình xét danh hiệu thi đua còn nể nang, cào bằng. Về công tác thi đua, khen thưởng, Luật có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan đến cả hệ thống chính trị nhưng điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng chủ yếu vào đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, các cơ quan nhà nước; chưa bao quát đối tượng đông đảo là người trực tiếp lao động, sản xuất trong cả nước công nhân, nông dân, trí thức. Các quy định về tiêu chuẩn còn định tính, phải điều chỉnh bằng Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện ở vùng miền, lĩnh vực khác nhau còn nhiều bất cập, vì vậy việc khen thưởng cho đối tượng này chưa được nhiều. Về thủ tục, hồ sơ khen thưởng, một số quy định về thủ tục, hồ sơ còn rườm rà, phức tạp, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính cụ thể. Một số hồ sơ đề nghị khen thưởng phải làm từ dưới cơ sở qua nhiều cấp mới lên đến cấp bộ, cấp tỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ. Luật chưa quy định cụ thể về quy trình thủ tục, hồ sơ khen thưởng đối với tập thể, cá nhân khi cấp trên phát hiện có thành tích đột xuất tiêu biểu xuất sắc. Thay mặt, ban tổ chức Hội nghị, đồng chí Trần Thị Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban TĐKT Trung ương, ghi nhận, đánh giá cao và tổng hợp, tiếp thu tất cả các ý kiến của các đại biểu để trình Chính phủ và Quốc hội vào tháng 6 năm 2020. Đào Xuân Phúc

Hội thảo khoa học “Phát huy vai trò nòng cốt của quân đội anh hùng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”

TĐKT – Ngày 29/11, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học “Phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội anh hùng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo hội thảo. Dự hội thảo có: Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh; Đại tướng Phùng Quang Thanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; các đồng chí Thứ trưởng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; đại diện các bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các đồng chí tướng lĩnh, lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử cùng đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu tại Hội thảo Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng Ban Tổ chức hội thảo nhấn mạnh: Ngày 22/12/1944, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng Sam Cao, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của QĐND Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng. Suốt 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua gian lao thử thách, chấp nhận hy sinh, anh dũng chiến đấu, quân đội ta đã cùng nhân dân đấu tranh giành chính quyền thắng lợi, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Chặng đường đó đã viết nên truyền thống hào hùng, lập nên những chiến công rực rỡ, gắn liền với những thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, có ý nghĩa quốc tế và thời đại sâu sắc, là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, của toàn thể nhân dân. Để tiếp tục phát huy truyền thống của quân đội anh hùng, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW lấy ngày 22/12 - Ngày thành lập QĐND Việt Nam là Ngày hội quốc phòng toàn dân. Từ đây, ngày 22/12 hàng năm trở thành ngày hội bảo vệ Tổ quốc, tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, là dịp phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, QĐND Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước có quyết sách đúng đắn, xử lý kiên quyết, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh. Đồng thời, thể hiện rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Cùng với nhiệm vụ chiến đấu, quân đội luôn đi đầu trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới... nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; luôn xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn... Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quân đội đã tích cực, chủ động hội nhập, thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng theo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đoàn Chủ tịch điều hành Hội thảo Phát biểu tại Hội thảo, Đại tướng Ngô Xuân Lịch yêu cầu các đại biểu tập trung nghiên cứu, khẳng định đường lối, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của QĐND Việt Nam; làm sâu sắc hơn những vấn đề có tính nguyên tắc, tính quy luật về quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QĐND Việt Nam; đúc rút những bài học lịch sử, bài học kinh nghiệm quý vận dụng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đồng thời khẳng định rõ vai trò, thành tựu và ý nghĩa của Ngày hội Quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và vai trò, trách nhiệm của các thành phần, lực lượng xã hội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Tại Hội thảo, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 90 bài tham luận của các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, các Bộ, Ban, ngành, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội. Mỗi tham luận là một công trình khoa học độc lập, đi sâu nghiên cứu theo từng vấn đề cụ thể và làm sáng tỏ, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của QĐND Việt Nam. Nhiều tham luận đã tôn vinh thành tựu, chiến công, làm sâu sắc hơn những vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc về những thắng lợi; đúc rút kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của QĐND Việt Nam, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Bên cạnh việc khẳng định vai trò, thành tựu của Ngày hội Quốc phòng toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, các tham luận cũng làm rõ vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Hội thảo là một trong những hoạt động thiết thực hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày thành lập QĐND Việt Nam và 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; đồng thời cũng là dịp để rút ra những kinh nghiệm có giá trị trong việc phát huy truyền thống yêu nước, ý chí giữ vững độc lập tự do của dân tộc; truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam; vai trò của Ngày hội Quốc phòng toàn dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nguyên Hải

Bộ Thông tin và Truyền thông tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng năm 2019

TĐKT - Ngày 14/11, tại Hà Nội, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) đã tổ chức Hội nghị tuyên truyền tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT) năm 2019. Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm tham dự và chủ trì Hội nghị. Dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các đơn vị liên quan thuộc Bộ TT&TT, cùng đông đảo cán bộ, chuyên viên làm công TĐKT tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ. Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm phát biểu khai mạc Hội nghị Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm nhấn mạnh: Năm 2019, ngành TT&TT tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình, phát huy thuận lợi, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nỗ lực đổi mới vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu thực hiện mục tiêu “Nâng cao thứ hạng Việt Nam” với phương châm hành động “Người đứng đầu làm gương, nhân viên thì kỷ cương, làm việc có trọng tâm, suy nghĩ và hành động thì bứt phá”. Kết quả đạt được đến nay là rất đáng khích lệ và có sự đóng góp không nhỏ của công tác TĐKT. Thời gian tới, Bộ TT&TT cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa tính thiết thực, hiệu quả của công tác TĐKT thông qua các chương trình, hoạt động cụ thể; tăng cường công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền về những tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu, nhất là các nhân tố mới, các mô hình mới để cổ vũ, nêu gương, nhân rộng, tạo động lực phát triển và lan tỏa sâu rộng trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Việc biểu dương, khen thưởng phải kịp thời, khách quan, minh bạch, đúng người, đúng việc, lấy hiệu quả kinh tế, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo; chú trọng khen thưởng đột xuất và khen thưởng theo từng lĩnh vực, nhất là khen thưởng các tập thể, cá nhân trực tiếp sản xuất hoặc có thành tích đột phá, ứng dụng công nghệ 4.0 để phát triển sản phẩm, mô hình dịch vụ kinh doanh mới, đưa công nghệ thông tin vào các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội và phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Hội nghị tập huấn công tác TĐKT ngày hôm nay là rất thiết thực và ý nghĩa, giúp nâng cao chất lượng công tác TĐKT, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ TT&TT. Đồng thời đối với các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, thông qua việc tập huấn sẽ nhận thức sâu sắc, quán triệt đầy đủ ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng của công tác TĐKT để chỉ đạo, triển khai hiệu quả ở đơn vị mình. Thứ trưởng hi vọng hội nghị sẽ mang tới những kiến thức bổ ích, giúp các học viên nắm được sâu sắc hơn những vấn đề cơ bản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc; chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT; những kiến thức, kỹ năng trong việc chỉ đạo, tham mưu, đề xuất triển khai tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua, ứng dụng vào thực tế công việc. Từ đó đưa công tác TĐKT của ngành TT&TT ngày càng phát triển trong thời gian tới. Tại Hội nghị, các đại biểu được lắng nghe cơ sở lý luận từ chuyên đề “Tuyên truyền tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng” do PGS.TS, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thế Thắng, Trưởng khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Khu vực I, trình bày. Vụ trưởng Vụ TĐKT Phạm Minh Tiến phổ biến, trang bị các kỹ năng thực tế trong công tác phát hiện, giới thiệu, nhân rộng điển hình tiên tiến, tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt, các mô hình mới, nhân tố mới, cách làm hay, hiệu quả để nhân rộng, lan tỏa trong cơ quan, đơn vị và hướng dẫn lập hồ sơ trình xét khen thưởng cấp Bộ, cấp Nhà nước và một số nội dung cần lưu ý trong công tác thi đua, khen thưởng hiện nay. Ngoài ra, Hội nghị cũng dành thời gian cho các đại biểu trao đổi, thảo luận và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai công tác thi đua, khen thưởng trong thực tế. Thảo Anh  

Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay

TĐKT - Ngày 28/8, tại Hà Nội, Liên Hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) tổ chức diễn đàn khoa học “Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay”. Đến dự và chủ trì diễn đàn khoa học có Chủ tịch LHHVN Đặng Vũ Minh và Phó Chủ tịch LHHVN, đại biểu Quốc hội khóa 14 Nghiêm Vũ Khải. Diễn đàn nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay Phát biểu đề dẫn Diễn đàn, Phó Chủ tịch LHHVN, đại biểu Quốc hội khóa 14 Nghiêm Vũ Khải nhấn mạnh, đạo đức nghề nghiệp là những phẩm chất cần có của mỗi người theo đúng những quy tắc chuẩn mực của một nghề nhất định được cộng đồng xã hội thừa nhận. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc chi phối hành vi của một người hoặc một nhóm trong môi trường công việc. Giống như các giá trị, đạo đức nghề nghiệp cung cấp các quy tắc về cách một người nên hành động đối với người khác và các tổ chức trong một môi trường như vậy Để các quy định đạo đức nghề nghiệp đi vào thực tế, cần phải thiết lập một cơ chế để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cũng như xét xử các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Một hệ thống đầy đủ phải bao gồm tổ chức và quy chế, trong đó, tổ chức phải có khả năng hướng dẫn, giám sát, thu thập thông tin phản hồi và hoàn thiện các quy định. Chính vì vậy, tại Diễn đàn, các đại biểu cùng nhau tìm giải pháp để khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, nhất là trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, nhằm tạo ra môi trường làm việc trong sạch, lành mạnh, thúc đẩy hiệu quả năng suất lao động, củng cố niềm tin của nhân dân… Nhìn chung ở lĩnh vực, ngành nghề nào bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ thì vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế với những mức độ biểu hiện đa dạng, khác nhau. Để khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, nhất là trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước nhằm tạo ra môi trường làm việc trong sạch, lành mạnh, thúc đẩy hiệu quả năng suất lao động, củng cố niềm tin của nhân dân, trước hết cần phải thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản: Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức đạo đức nghề nghiệp cho người lao động để họ hiểu sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của ngành nghề, từ đó bồi đắp tình yêu và tinh thần trách nhiệm với công việc được giao. Thứ hai, hoàn thiện và kiện toàn hệ thống pháp luật của từng ngành nghề, tạo cơ sở hành lang pháp lý cho việc khen thưởng và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với người lao động cũng như cán bộ lãnh đạo quản lý. Thứ ba, các cơ quan, đơn vị sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, người lao động phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng ý thức, tinh thần đạo đức nghề nghiệp cho người lao động, không ngừng học tập kinh nghiệm quản lý nhân sự, nghệ thuật thu phục nhân tâm của các nước tiên tiến trên thế giới. La Giang

Hội thảo khoa học Quốc gia “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”

TĐKT - Ngày 28/8, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Đặng Thị Ngọc Thịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì Hội thảo. Các đồng chí chủ trì Hội thảo Tại Hội thảo, hơn  60 tham luận đã tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung, giá trị lý luận, thực tiễn và kết quả của việc thực hiện Di chúc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong 50 năm qua; trên cơ sở đó, tiếp tục khẳng định giá trị của bản Di chúc và rút ra những bài học kinh nghiệm, những giải pháp đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương khẳng định, bản Di chúc thiêng liêng của Người để lại một văn kiện lịch sử quý báu được kết tinh từ giá trị văn hóa dân tộc thể hiện sâu sắc nhất tinh hoa tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, phong cách và tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân. Đây là dịp để chúng ta nghiên cứu và nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, vai trò cương lĩnh, định hướng của bản Di chúc mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Đồng thời, qua Hội thảo này, chúng ta có dịp nhìn nhận, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những thành tựu nổi bật và cả những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục, sửa chữa qua chặng đường 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong 50 năm qua, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, luôn xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên và then chốt. Trong các kỳ Đại hội của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã nghiên cứu bổ sung nội dung xây dựng Đảng vào Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; ban hành các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng. Liên tục trong 2 nhiệm kỳ vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ” và điều này luôn được kết hợp trong việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cuộc vận động đã trở thành phong trào sinh hoạt chính trị sâu rộng khắp trên phạm vi cả nước. Kết quả, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các chi bộ cơ sở đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều chi bộ, Đảng bộ và cán bộ, đảng viên đã được nâng lên. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác quan điểm sai trái, thù địch; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Với quyết tâm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thường xuyên thiếu lương thực, thực phẩm, phải xin viện trợ và nhập khẩu, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong những nước phát triển và đứng đầu trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp trên thế giới. Theo số liệu thống kê, đến năm 2018, quy mô của nền kinh tế Việt Nam đạt 245 tỷ USD, đứng thứ 44 trên thế giới về GDP và đứng thứ 34 theo sức mua. GDP bình quân đầu người đạt 2.580 USD, khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam với các nước đã được thu hẹp. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết và hợp tác quốc tế trong thời kỳ mới, Đảng đã lãnh đạo xây dựng và “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Từ một nước bị bao vây cấm vận, đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước; đồng thời tích cực tham gia vào các công việc chung của cộng động quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế; được bầu làm thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, lần thứ hai trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc… Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, hiệu quả đã góp phần quan trọng vào giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình cho phát triển đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Những kết quả đó đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã vận dụng thành công vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hưng Vũ

Đà Nẵng ban hành kế hoạch tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến, đại hội thi đua yêu nước các cấp

TĐKT - Thực hiện Kế hoạch số 19/KH-HĐTĐKT ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương về việc tổ chức Đại hội thi đua yêu nước các cấp tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, UBND TP Đà Nẵng đã ban hành Kế hoạch số 5144/KH-UBND về tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến, Đại hội thi đua yêu nước các cấp, tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ V và Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X. Theo đó, trong quý I/2020, cấp cơ sở (phường, xã, doanh nghiệp nhà nước) tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến. Tiếp đó, trong quý II/2020, các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể thành phố tổ chức hội nghị điển hình tiên tiến (riêng đối với các quận, huyện, tổ chức đại hội thi đua yêu nước). Trên cơ sở đó, TP Đà Nẵng sẽ tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ V trong quý III/2020. Lãnh đạo TP Đà Nẵng khen thưởng các đơn vị xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước tại Đại hội thi đua yêu nước TP Đà Nẵng lần thứ IV - 2015 Căn cứ Kế hoạch, UBND TP Đà Nẵng yêu cầu các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, cụm trưởng, khối trưởng cụm, khối thi đua tổ chức các hoạt động, phong trào thi đua thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Thi đua yêu nước thành phố lần thứ V, tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng các cấp, tập trung vào các hoạt động: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin truyền thông tập trung tuyên truyền về đại hội thi đua, biểu dương ghi nhận những thành quả của phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của thành phố; mở rộng nhiều hình thức tuyên truyền, biểu dương các điển hình tiên tiến, các nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt, tạo không khí sôi nổi, chào mừng các ngày kỷ niệm lớn trong năm 2019 và 2020, chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXII và Đại hội thi đua yêu nước thành phố lần thứ V. Phát động đợt thi đua đặc biệt, sôi nổi, sâu rộng, thiết thực, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020, đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, giảm thiểu tai nạn giao thông, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng bộ máy vững mạnh gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội. Tập trung triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua trọng tâm: “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”. Tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện và tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “TP Đà Nẵng chung sức xây dựng nông thôn mới”. Đồng thời, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu xuất sắc trong thực hiện các phong trào thi đua. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện tốt Luật Thi đua, khen thưởng và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, các quy định về công tác thi đua, khen thưởng của TP Đà Nẵng, nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm chấp hành tốt các pháp luật và các chính sách về thi đua, khen thưởng. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng, để công tác thi đua, khen thưởng thực sự là động lực mạnh mẽ trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Chú trọng việc phát hiện các điển hình tiên tiến và nhân tố mới thực sự tiêu biểu trong các phong trào thi đua yêu nước, được quần chúng, tập thể suy tôn để biểu dương, tôn vinh kịp thời và đề nghị các hình thức khen thưởng phù hợp, xứng đáng, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, nhân rộng để các điển hình tiên tiến tiêu biểu được lan tỏa thực sự hiệu quả trong cuộc sống. Trần Danh Nam

Mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý trong phát triển xã hội

TĐKT – Sáng 13/8, tại Hà Nội, Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) tổ chức Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý trong phát triển xã hội”. TS. Phùng Thảo, Viện trưởng Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý và GS.TS Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện kinh tế, pháp luật và Quản lý chủ trì Hội thảo. Toàn cảnh hội thảo Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Phùng Thảo nhấn mạnh: Kinh tế, pháp luật và quản lý là những phạm trù vô cùng rộng lớn, nhất là trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện nội dung, mối quan hệ giữa các phạm trù nói trên, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước ban hành nhiều bộ luật, nhiều chính sách, có nhiều giải pháp, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức kinh tế xã hội đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo, đưa ra nhiều kiến nghị, đề xuất giải pháp, song vẫn là không đủ để nền kinh tế nước ta với nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) vẫn còn gặp nhiều rào cản khó khăn, đồng thời pháp luật cũng còn khá nhiều kẽ hở... Đây là cuộc hội thảo đầu tiên của Viện Kinh tế, Pháp luật và Quản lý nhằm trao đổi, thảo luận giữa các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành với sự tham gia của một số đại biểu là các nhà hoạt động xã hội, các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để bước đầu thống nhất nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế với pháp luật và quản lý trong phát triển bền vững và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất các khuyến nghị, phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ đa chiều, phức tạp mà chủ đề hội thảo đã xác định. Theo GS. TS Hoàng Chí Bảo: Ba lĩnh vực kinh tế, pháp luật và quản lý đều liên quan trực tiếp tới phương hướng, mục tiêu của đổi mới và phát triển ở nước ta, đặc biệt là hướng tới phát triển bền vững và hiện đại hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới thể chế, cơ chế và chính sách, đổi mới phương thức huy động các nguồn lực và phân bổ nguồn lực cho phát triển. Để đạt được mục đích đó, tất yếu phải nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế, pháp luật và quản lý. Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận về 3 vấn đề lớn: Thứ nhất, từ những hiểu biết chung về kinh tế, pháp luật và quản lý, để tập trung nghiên cứu vào mối quan hệ giữa ba lĩnh vực, ba thực thể này, cần giới hạn vấn đề, xác định rõ những điểm khu biệt. Đó là các giới thuyết khoa học cần thiết cho nghiên cứu. Về kinh tế, tập trung làm rõ vai trò của kinh tế thị trường hiện đại mà chúng ta đang xây dựng, đang nỗ lực định hình nó trong phát triển, hiện đại hóa đất nước thông qua đổi mới và hội nhập. Về pháp luật, tập trung làm rõ vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, trong quản lý kinh tế - xã hội, trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, liên quan trực tiếp tới phạm trù quản lý. Đây là phương diện xã hội (nghĩa hẹp) trong cấu trúc tổng thể của xã hội (nghĩa rộng). Quản lý nói ở đây là quản lý các vấn đề xã hội, từ cơ cấu xã hội đến chính sách xã hội và an sinh xã hội, vận động và biến đổi trong nền kinh tế thị trường, trong tác động, chi phối của thể chế dân chủ - pháp quyền. Thứ hai, tại hội thảo, các đại biểu, nhà khoa học cũng nêu lên những hướng tiếp cận khác nhau về mối quan hệ này để từ đó nhận biết các hình thái biểu hiện của quan hệ; các thuộc tính, đặc điểm của quan hệ; các cấp độ, phạm vi của quan hệ chi phối lẫn nhau đều tham chiếu vào mục tiêu phát triển, phát triển bền vững xã hội và con người; đánh giá thực trạng giải quyết các quan hệ đó ở nước ta từ thực tiễn đổi mới và hội nhập; những vấn đề đặt ra (tình huống và nghịch lý) cần được phát hiện để xử lý. Nội dung thứ ba mà các đại biểu đề cập, trao đổi đến là về những đề xuất, khuyến nghị các giải pháp, các điều kiện nhằm nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ. Đâu là khâu đột phá? Đâu là yêu cầu bức xúc, trước mắt, đâu là yêu cầu cơ bản, lâu dài? Ngoài ra, các đại biểu còn đề cập tới các khía cạnh khác liên quan đến chủ đề và hướng đích của hội thảo, góp phần làm rõ thêm bản chất, nội dung mối quan hệ theo những lý giải riêng của mình: Có thể vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển Mác xít, đặc biệt là tư duy và tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào để nhận biết và giải quyết mối quan hệ; có thể tiếp thu kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ trong phát triển từ trình độ và phương pháp quản lý của các nước tiên tiến như thế nào, vận dụng vào Việt Nam; ba chiều cạnh của phát triển bền vững mà thế giới đang quan tâm là kinh tế - xã hội và môi trường. Với Việt Nam, ngoài ba chiều cạnh đó, chiều cạnh chính trị (thể chế) và văn hóa có vai trò quan trọng ra sao trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhất là trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị. Việt Nam đang chú trọng phát triển kinh tế tư nhân với những nhận thức mới, đang ra sức siết chặt kỷ cương, luật pháp, đề cao đạo đức trong xây dựng Đảng, giáo dục đạo đức công chức và kỷ luật công vụ để đáp ứng đòi hỏi mới của phát triển đất nước. Điều đó có tác động như thế nào tới việc giải quyết mối quan hệ kinh tế - pháp luật - quản lý hiện nay... Mai Thảo

Quân đội nhân dân Việt Nam chung tay, chung sức vì một thế giới – một tương lai ngày mai tươi xanh

TĐKT - Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng trên các mặt báo và bảo vệ môi trường (BVMT) đang trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, một hoạt động có tính xã hội sâu sắc và nhận được sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành, mọi quốc gia trên thế giới. Bên cạnh nhiệm vụ chính trị, BVMT là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, đã, đang được triển khai sâu rộng ở các đơn vị trong toàn quân. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BVMT trong quân đội là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sức khỏe bộ đội và hiệu quả hoạt động quân sự, góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiệm vụ BVMT của quân đội được đặt ra trên cơ sở tính chất đặc thù của hoạt động quân sự như đóng quân, canh phòng, huấn luyện, diễn tập; sản xuất, sửa chữa, thử nghiệm vũ khí - khí tài quân dụng; niêm cất bảo quản vũ khí, khí tài, vật tư, trang thiết bị; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật... Phạm vi hoạt động của các đơn vị quân đội rất rộng lớn: trên đất liền, trên không, trên sông, biển, biên giới, hải đảo...; các hoạt động quân sự đặc thù này đều có những tác động nhất định đến môi trường sinh thái ở những mức độ khác nhau. Do đó, quân đội phải là lực lượng trực tiếp BVMT khu vực đóng quân, khu vực sản xuất, sửa chữa quốc phòng, trong các hoạt động y dược, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và diễn tập... Bên cạnh đó, trước yêu cầu nhiệm vụ có bước phát triển mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quân đội còn là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ BVMT quốc gia như: Khắc phục hậu quả tồn lưu bom, mìn, chất độc hóa học đioxin sau chiến tranh và ứng cứu sự cố môi trường… Thực trạng công tác BVMT trong quân đội thời gian qua Với phương châm “Ở đâu có hoạt động của bộ đội thì ở đó có hoạt động BVMT”, trong những năm qua, công tác BVMT đã được các cấp, các ngành trong toàn quân quan tâm và thu được những kết quả đáng kể. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm về BVMT được các đơn vị đặc biệt coi trọng, với nhiều hình thức phong phú. Bộ Quốc phòng đã ban hành các văn bản pháp quy và tổ chức triển khai học tập Luật BVMT, quán triệt Chỉ thị của Bộ trưởng về nhiệm vụ BVMT trong quân đội cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân. Nhiều đơn vị đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, tọa đàm về BVMT, cuộc thi “Viết về môi trường trong quân đội”; tổ chức nhiều hoạt động hưởng ứng “Ngày môi trường thế giới 5/6”, “Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn”; phát động thi đua “Xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, xanh, sạch đẹp” giữa các đơn vị… Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực BVMT không ngừng được đẩy mạnh. Theo số liệu báo cáo của Cục Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng, từ năm 2005 đến nay đã có gần 200 công trình cấp Nhà nước và cấp Bộ Quốc phòng liên quan đến lĩnh vực BVMT được nghiên cứu và triển khai ứng dụng trong thực tiễn như: Xử lý chất thải công nghệp, chất thải độc hại ở các cơ sở sản xuất, sửa chữa quốc phòng; xử lý chất thải y tế ở các bệnh viện, chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh; xử lý nước sinh hoạt cho bộ đội… Bộ Quốc phòng đã triển khai, thành lập 3 trạm quan trắc môi trường thuộc mạng lưới quốc gia (Viện Hoá Học và Môi trường Quân sự - Bộ Tư lệnh Hóa học; Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường biển - Quân chủng Hải quân; Viện Nhiệt đới môi trường - Viện Khoa học và công nghệ quân sự) nhằm kịp thời phát hiện, kiểm soát, giám sát ô nhiễm môi trường và triển khai các biện pháp xử lý sự cố môi trường. Một số đơn vị, nhà máy, cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ quân sự đã tiến hành quan trắc môi trường quân sự và tham gia quan trắc môi trường quốc gia, nghiên cứu công nghệ xử lý môi trường và triển khai các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường. Bộ Quốc phòng cũng luôn tích cực, chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc tế về BVMT, ứng phó biến đổi khí hậu, đặc biệt với các nước ASEAN; xây dựng và tổ chức lực lượng làm nòng cốt trong phòng, chống thiên tai và khắc phục sự cố môi trường; tham gia tích cực công tác xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường, rà phá bom mìn và xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh. Đến nay các đơn vị hóa học đã điều tra được 283 huyện, quận, thị xã của 34 tỉnh và một số cụm kho, kho lớn của Tổng cục Kỹ thuật, các Quân khu: 4, 5, 7, 9; phát hiện, thu gom và xử lý hơn 344 tấn chất độc CS và vũ khí, đạn dược, phương tiện chứa chất độc CS (trong đó có hơn 160 tấn chất độc CS và trên 184 tấn vũ khí, đạn dược chứa CS). Các khu kinh tế quốc phòng đóng quân ở địa bàn biên giới đã trồng mới, chăm sóc và bảo vệ được hàng chục nghìn ha rừng, tạo thêm việc làm cho hàng chục ngàn lao động là nhân dân vùng cao, vùng xa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư, ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh… Những kết quả đạt được trong công tác BVMT của đơn vị quân đội đã góp phần cùng với các bộ, ngành và nhân dân giảm thiểu đảng kể tình trạng ô nhiễm, đảm bảo môi trường trong sạch cho phát triển kinh tế - xã hội và an ninh môi trường quốc gia. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác BVMT trong quân đội cũng đang gặp nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện và còn tồn tại một số hạn chế như: Hoạt động môi trường quân sự còn thiếu quy hoạch tổng thể; việc xử lý một số sự cố môi trường bức xúc ở các đơn vị, cơ sở sản xuất quốc phòng, bệnh viện còn chậm; việc lồng ghép giữa thực hiện nhiệm vụ chính trị đơn vị với việc thực hiện Luật BVMT và các quy định BVMT khác của Nhà nước còn nhiều bất cập; trình độ trang thiết bị, công nghệ sản xuất quốc phòng nhìn chung còn lạc hậu, có nơi công nghệ sản xuất quá cũ nên đã phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường, thậm chí có chất thải quân sự gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; việc đầu tư các nguồn lực cho công tác BVMT chưa tương xứng; nguồn nhân lực chuyên trách cho công tác BVMT còn mỏng, chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm; công tác BVMT ở một số đơn vị vẫn chưa thực sự trở thành hoạt động thường xuyên và được coi trọng đúng mức; nhận thức về công tác BVMT của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và chiến sĩ có nơi còn hạn chế, chưa ngang tầm… Phát huy vai trò của quân đội với nhiệm vụ BVMT Trước yêu cầu nhiệm vụ có bước phát triển mới đặt ra việc phải nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả BVMT trong quân đội. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Luật BVMT 2014; Điều lệ công tác BVMT và ứng phó với biết đổi khí hậu của Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 2015; Nghị quyết số 24-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; Chiến lược bảo vệ môi trường của Bộ quốc phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Văn kiện Đại hội XII của Đảng liên quan đến công tác BVMT và khắc phục thực trạng BVMT, các đơn vị trong toàn quân cần tập trung làm tốt một số giải pháp sau: Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác BVMT cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng trong toàn quân; đưa nội dung BVMT thành chỉ tiêu thi đua ở các đơn vị. Các đơn vị tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng nắm chắc các văn bản quy định của Nhà nước liên quan đến BVMT, như: Luật BVMT, các nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ giao nhiệm vụ cho quân đội tham gia BVMT... Khẳng định BVMT đối với quân đội là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên - “một nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”. Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức tuyên truyền về công tác BVMT thông qua: Tuyên truyền miệng, các hội thi, hội thao, các hoạt động văn hóa văn nghệ…, lồng ghép giáo dục về BVMT trong các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ ở đơn vị mình. Phát động các phong trào thi đua xây dựng “doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”; trồng cây gây rừng... Xây dựng, bồi dưỡng điển hình, kịp thời biểu dương các đơn vị, doanh nghiệp quân đội đạt chuẩn quốc tế về môi trường, đủ điều kiện cấp chứng chỉ ISO 14001/2004; kiên quyết đấu tranh phê phán những việc làm sai trái, những hành vi phá hoại môi trường sinh thái, thực hiện quy định “Người gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền xử lý BVMT”. Trong chương trình, nội dung đào tạo của các nhà trường quân đội, với tư cách là những đơn vị cơ sở, cần chú ý lồng ghép với nội dung BVMT và tích cực đầu tư xây dựng cảnh quan môi trường mẫu mực, trực quan sinh động, phục vụ cho quá trình học tập của học viên. Hai là, củng cố, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy và kiện toàn các tổ chức BVMT ở các đơn vị trong toàn quân. Thường xuyên nghiên cứu ban hành, cập nhật, rà soát, bổ sung, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT theo thẩm quyền. Kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội về hoạt động BVMT phù hợp với điều kiện hoạt động của các đơn vị cơ sở. Hoàn thiện hệ thống văn bản, pháp quy về BVMT, nhằm tạo ra hành lang pháp lý cần thiết bảo đảm cho các đơn vị cơ sở đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác BVMT. Nghiên cứu đặc điểm môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực đóng quân, dự báo những vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe và hoạt động của bộ đội, qua đó có biện pháp BVMT sát thực. Cơ quan chức năng cần biên soạn, cung cấp tài liệu cho công tác học tập, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về vấn đề môi trường cho các đơn vị cơ sở. Trong điều kiện không có cơ quan chuyên trách về công tác môi trường ở các đơn vị cơ sở, cần phải lồng ghép các hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, nhân viên theo chức trách với hoạt động BVMT một cách linh hoạt, sáng tạo. Ba là, xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ BVMT trong tất cả các hoạt động quân sự ở các cơ quan, đơn vị. Với tính chất đặc thù của các đơn vị quân đội, trong tất cả các nhiệm vụ thường xuyên cũng như đột xuất đều cần phải tính toán đến các tác động tiêu cực đến môi trường từ đó đặt ra các tiêu chí, nhiệm vụ BVMT. Với vai trò là lực lượng nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ khắc phục sự cố BVMT quốc gia, quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh khắc phục hậu quả chất độc hóa học, bom, mìn và vật nổ còn sót sau chiến tranh do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; gương mẫu đi đầu trong giữ gìn, bảo tồn, phục hồi tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học: trồng, bảo vệ rừng, cải tạo cảnh quan, phát triển các mô hình kinh tế kết hợp với quốc phòng; nghiên cứu các giải pháp phòng và chống khủng bố môi trường, phòng chỗng vũ khí hoá học, sinh học và hạt nhân… Bốn là, xây dựng các tiêu chí cụ thể về BVMT sinh thái đối với các khu vực sản xuất, sửa chữa, thử nghiệm vũ khí, khí tài, trang bị và nơi ăn ở, sinh hoạt của các đơn vị cơ sở. Đây chính là hành lang pháp lý quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị cơ sở. Việc thực hiện đầy đủ các tiêu chí về BVMT sinh thái là một nội dung thi đua, bình xét khen thưởng hàng năm của các đơn vị cơ sở. Năm là, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, các chuyên gia về lĩnh vực BVMT. Các cơ quan chuyên môn cần tham mưu cho Thủ trưởng Bộ Quốc phòng xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo và huấn luyện nội dung BVMT trong các nhà trường quân đội; liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục về lĩnh vực môi trường cả trong và ngoài nước. Các đơn vị trong toàn quân cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ bồi dưỡng kiến thức, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo với đào tạo lại đối với cán bộ làm công tác BVMT, đặc biệt là những cán bộ trẻ. Có nhiều chính sách quan tâm đến đội ngũ cán bộ chuyên trách, đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật cao có kinh nghiệm trong thực tiễn, có nhiều đóng góp cho công tác BVMT. Sáu là, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ BVMT và nâng cao năng lực  quản lý Nhà nước về BVMT. Các cấp, ngành, đơn vị quân đội cần tăng cường đầu tư hệ thống quan trắc, xử lý ô nhiễm môi trường, chất thải quân sự, sử dụng nguồn năng lượng sạch, xử lý nguồn nước theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Tích cực nghiên cứu khoa học và ứng dụng phát triển công nghệ phục vụ BVMT, ưu tiên giải quyết những yêu cầu bức bách về cải thiện chất lượng cung cấp nước sinh hoạt cho bộ đội, các giải pháp bảo đảm vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, chuyển dịch các công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm sang công nghệ sạch và thân thiện môi trường; thực hiện điều tra cơ bản và quan trắc môi trường ở các trung tâm, cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp quân đội. Xây dựng các trạm quan trắc môi trường thuộc Viện Hoá Học và Môi trường Quân sự; Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường biển; Viện Nhiệt đới môi trường đủ năng lực phục vụ công tác BVMT cho các hoạt động quân sự và BVMT quốc gia. Nâng cao năng lực tham gia hoạt động quan trắc và giám sát môi trường (chất độc hóa học, phóng xạ, môi trường biển) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng và quốc gia. BVMT trong quân đội là vấn đề rất cấp thiết, là nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội, các đơn vị trong toàn quân cần quán triệt triển khai đầy đủ các nội dung cơ bản về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từng đơn vị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, cùng với thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cần kết hợp chặt chẽ với công tác BVMT; mở rộng hợp tác, tăng cường phối hợp hoạt động BVMT với các bộ, ngành, địa phương và quốc tế nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động BVMT ở đơn vị mình, phấn đấu xứng đáng là lực lượng nòng cốt, và thực sự xứng đáng với chức năng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất”, tiên phong trong hoạt động BVMT, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Đỗ Phú

Trang