Xây dựng nông thôn mới

Xã Hòa Thắng (huyện Phú Hòa, Phú Yên) đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

TĐKT - Ngày 3/12, UBND huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên tổ chức Lễ công bố xã Hòa Thắng đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2020. Đây là xã thứ 3 của huyện Phú Hòa, sau Hòa Quang Bắc và Hòa Quang Nam đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Lãnh đạo tỉnh Phú Yên trao bằng công nhận xã nông thôn mới nâng cao cho xã Hòa Thắng. Theo Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới xã Hòa Thắng, qua 5 năm (từ năm 2015), kể từ khi hoàn thành 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đến nay xã thực hiện đạt chuẩn 15/15 tiêu chí nông thôn mới nâng cao. Đến nay, 100% đường xã, thôn, liên thôn và đường ngõ xóm trong xã được trải nhựa, cứng hóa với chiều dài 9,2km; các tuyến đường đều có đèn điện chiếu sáng. 5 thôn của xã được đầu tư xây dựng nhà văn hóa thôn, bảo đảm hoạt động thể thao, văn hóa, văn nghệ của nhân dân. 5 năm liền xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; gần 95% người dân trong xã tham gia bảo hiểm y tế. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 của xã đạt gần 46 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,39%. Tổng kinh phí thực hiện chương trình trên 285 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương và ngân sách cấp tỉnh trên 8,8 tỷ đồng, ngân sách huyện trên 42,4 tỷ đồng, ngân sách xã và nhân dân đóng góp trên 111,3 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2020 - 2025, cán bộ và nhân dân xã Hòa Thắng quyết tâm giữ vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới nâng cao đã đạt được; xây dựng hoàn thành khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu thôn Mỹ Thành, tiến tới xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu, tạo bộ mặt nông thôn xã Hòa Thắng thật sự đổi mới, góp phần nâng cao chất lượng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã. Dịp này, UBND tỉnh tặng xã Hòa Thắng 200 triệu đồng để triển khai công trình phúc lợi của xã. Minh Phương

Thúc đẩy xây dựng nông thôn mới hiệu quả, bền vững ở các vùng đặc biệt khó khăn

TĐKT - Ngày 3/12, tại Yên Bái, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị tổng kết xây dựng nông thôn mới vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020, định hướng giai đoạn 2021 - 2025. Đồng chủ trì Hội nghị có các Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, Phó Trưởng ban Chỉ đạo. Cùng dự, có đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương, các tổ chức quốc tế và 47 tỉnh, thành phố có xã, thôn, bản ấp đặc biệt khó khăn. Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Hội nghị Những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm của hệ thống chính trị và nỗ lực vươn lên của người dân, chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) tại những địa phương vùng đặc biệt khó khăn bao gồm các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các huyện nghèo giai đoạn 2016 - 2020 đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đến nay, có 8/64 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và 14/30 huyện nghèo được hưởng cơ chế theo Nghị quyết 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn nhưng chưa có huyện được công nhận đạt chuẩn NTM. Có 315/2.430 xã đặc biệt khó khăn, xã ATK thuộc Chương trình 135, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đạt chuẩn NTM (đạt 13%). Ngoài ra, có 15/108 xã (13,9%) thuộc 4 đề án xây dựng NTM đặc thù (Điện Biên, Lào Cai, Bắc Kạn, Nghệ An) đã đạt chuẩn NTM... Ước tính đến hết năm 2020 có khoảng 25% thôn, bản được công nhận đạt chuẩn NTM. Tổng nguồn lực huy động đầu tư xây dựng NTM trên địa bàn đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 đạt 791.909 tỷ đồng (bằng 38,1% của cả nước), trong đó, cộng đồng và người dân tự nguyện đóng góp khoảng 4,4%. Kinh tế nông thôn có chuyển biến tích cực. Một số địa phương đã chủ động phát huy tiềm năng, lợi thế vùng, miền, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả sang các cây, con có giá trị kinh tế cao, hình thành vùng sản xuất quy mô tập trung. Đặc biệt 100% các địa phương đã ban hành Đề án triển khai Chương trình OCOP cấp tỉnh. Trên địa bàn các tỉnh thuộc vùng đặc biệt khó khăn đã chuẩn hóa khoảng 1.061 sản phẩm OCOP (chiếm 50,8% của cả nước). Kết quả trên đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giai đoạn 2016 - 2020 là 1,55%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm 5,65%/năm, các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm bình quân khoảng 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo khu vực nông thôn đến cuối năm 2018 tăng khoảng 1,4 lần so với cuối năm 2015, dự kiến đến cuối năm 2020 tăng khoảng 1,6 lần. Tại Hội nghị, lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, chuyên gia, nhà khoa học và lãnh đạo các địa phương đã tập trung thảo luận, chia sẻ những bài học kinh nghiệm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo trong xây dựng NTM. Bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp cơ bản thúc đẩy xây dựng NTM hiệu quả, bền vững ở các vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021 - 2025. Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh, việc triển khai xây dựng NTM tại các xã đặc biệt khó khăn phải có cách làm sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện của từng địa phương...; tiếp tục tuyên truyền, vận động, quán triệt sâu rộng tới các cấp chính quyền và người dân phương châm xây dựng NTM là của dân, do dân, người dân hưởng lợi, dân làm, nhà nước hỗ trợ, tránh tâm lý ỷ lại vào ngân sách Trung ương, đồng thời người dân cũng cần nâng cao sự tự chủ để cuộc sống khá giả hơn. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhất là vai trò lãnh đạo của người đứng đầu. Việc xây dựng nông thôn mới tại khu vực đặc biệt khó khăn phải gắn với đẩy mạnh đầu tư phát triển vùng. Cùng với đó, các địa phương cần tập trung rà soát lại các quy hoạch; các quy hoạch này phải kết nối với các vùng đặc biệt khó khăn, nhất là quy hoạch giao thông, thủy lợi, công nghiệp... Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương triển khai việc lập quy hoạch đánh giá các khu vực dễ sạt lở đất, khu vực nguy hiểm làm cơ sở để quy hoạch phân bố lại dân cư ở khu vực đặc biệt khó khăn, di dời người dân ra khỏi nơi nguy hiểm. Các địa phương cần tiếp tục thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế của mỗi vùng và tại mỗi địa bàn huyện, xã. Cấu trúc kinh tế của thôn, xã không tách rời với của toàn tỉnh. Đặc biệt tạo môi trường để thu hút các nhà đầu tư vào khu vực đặc biệt khó khăn, trong đó tập trung 3 yếu tố: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp; hạ tầng và nhân lực… Trang Lê

Hiệu quả từ mô hình tạo phân compost từ rác hữu cơ

TĐKT - Tích cực hưởng ứng tham gia phong trào xây dựng nông thôn mới tại địa phương, thời gian qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Vĩnh Lợi (Bạc Liêu) đã xây dựng, triển khai nhiều mô hình hiệu quả. Trong đó, nổi bật là mô hình sử dụng thùng nhựa tạo phân compost từ rác hữu cơ, góp phần xây dựng cảnh quan nông thôn xanh - sạch - đẹp và thực hiện tiêu chí môi trường. Phân hữu cơ được ủ sẽ được sử dụng để bón cho rau màu Bà Khưu Thị Phong, Chủ tịch Hội LHPN huyện Vĩnh Lợi cho biết: Thực hiện chủ trương của Hội LHPN tỉnh Bạc Liêu, năm 2014, Hội LHPN huyện đã phối hợp với Hội LHPN tỉnh và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện triển khai thí điểm mô hình sử dụng thùng nhựa ủ rác hữu cơ trong sinh hoạt hàng ngày chuyển hóa thành phân compost để bón cho cây trồng và bảo vệ môi trường. Mô hình được triển khai đầu tiên tại xã Châu Thới với sự tham gia của 32 hộ. Sau 6 năm triển khai thực hiện, mô hình đã đạt được những kết quả tích cực. Trước đây, rác thải được xem là thứ bỏ đi, không có giá trị sử dụng. Từ khi thực hiện mô hình ủ phân compost từ rác hữu cơ, rác thải, rác đã trở thành một sản phẩm có giá trị trong trồng trọt đối với người dân huyện Vĩnh Lợi. Đồng thời qua đó, ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, xử lý rác thải cũng được nâng lên một cách rõ rệt. Hiện tại, mô hình đã được nhân rộng đến Hội LHPN các xã, thị trấn trong huyện với số lượng 400 cái thùng compost. “Phân compost không gây ra mùi hôi thối, ô nhiễm. Nếu thùng ủ phân có mùi thì có thể dùng cỏ, lá cây hay giấy báo đậy lên trên bề mặt rác sẽ làm giảm mùi, rồi tiếp tục cho rác hữu cơ vào thùng. Mô hình này không chỉ có tác dụng đối với môi trường, với nhận thức của người dân mà còn có ý nghĩa về kinh tế khi giá cả các mặt hàng gia tăng như hiện nay, đặc biệt là với phân bón.”- bà Phong cho biết thêm. Để giúp các chị em có thể nắm kiến thức thực hiện mô hình, bên cạnh công tác vận động, tuyên truyền, Hội LHPN huyện đã phối hợp với các đơn vị tổ chức tập huấn về kỹ thuật sử dụng thùng nhựa tạo phân compost từ rác hữu cơ. Là một trong những hộ tham gia mô hình, chị Trần Thanh Bình chia sẻ: Trước đây, tôi thường gom rác để đốt. Trong đó, có một số rác không phân hủy (như chai lọ, túi nylon) gây mất vệ sinh xung quanh nhà. Nay nhờ tập huấn cách phân biệt, xử lý rác nên tôi biết loại rác vô cơ và loại rác hữu cơ. Kỹ thuật tạo thùng nhựa tạo phân compost từ rác hữu cơ cũng rất đơn giản. Thùng nhựa sẽ được đục nhiều lỗ nhỏ xung quanh để có không khí, có hai cửa phía dưới để lấy phân thành phẩm ra ngoài. Rác hữu cơ bỏ vào trong thùng là các loại thức ăn thừa, phần bỏ đi của rau, củ quả, lá cây, cỏ… Hàng ngày, tôi có thể bỏ các loại rác hữu cơ vào thùng. Nếu trong thùng khô quá thì cho thêm một ít nước để tăng độ ẩm. Rác hữu cơ sẽ được phân hủy và xẹp dần xuống. Sau 60 ngày, rác sẽ phân hủy thành phân compost có độ mịn, tơi xốp, màu đen, không mùi. Phân này đem bón cho cây, hoa màu rất tốt. Theo bà Khưu Thị Phong, khi triển khai thực hiện mô hình, điều bà mong muốn trước tiên là người dân tự giác bỏ rác hữu cơ vào thùng. “Đó là điều quan trọng nhất, vì có bỏ rác vào thùng mới làm được phân để bón cho cây, đem lại hiệu quả cho việc trồng trọt, từ đó người dân mới nhận thức đầy đủ được hiệu quả của việc làm này và tiếp tục thực hiện trong thời gian dài” - bà Phong chia sẻ. Để phát huy hiệu quả hơn nữa của mô hình, thời gian tới, Hội LHPN huyện sẽ tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn người dân về cách phân loại và quy trình xử lý rác thải, nhân rộng mô hình này. Điểm thuận lợi trong việc nhân rộng mô hình này là nhà ai cũng có rác hữu cơ mỗi ngày và việc thực hiện làm phân hữu cơ không khó, người nông dân có thể dùng phân để trồng cây, bón cho rau màu; người sống ở thành thị có thể dùng phân để bón cho các loại hoa, cây cảnh trong vườn nhà. Bảo Linh  

Huyện Yên Thành (tỉnh Nghệ An) đạt chuẩn nông thôn mới

TĐKT – Tối 1/12, tại quảng trường Phan Đăng Lưu, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An tổ chức Lễ công bố huyện đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) năm 2019 và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba giai đoạn 2016 - 2019. Dự Lễ công bố, có các Ủy viên Trung ương Đảng: Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư; Nguyễn Đắc Vinh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Nguyễn Thế Kỷ, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; đồng chí Thái Thanh Quý, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An; cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; đại diện Quân khu 4, tỉnh Nghệ An và huyện Yên Thành. Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường trao Bằng công nhận huyện đạt chuẩn NTM cho huyện Yên Thành Lễ công bố huyện Yên Thành đạt chuẩn NTM là sự kiện chính trị quan trọng của địa phương. Đây cũng là dịp để tuyên truyền, quảng bá tiềm năng, thế mạnh, các giá trị văn hóa đặc sắc của huyện Yên Thành với nhân dân trong và ngoài tỉnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; tạo không khí phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thể hiện sức mạnh của cả hệ thống chính trị, cùng chung sức xây dựng huyện Yên Thành ngày càng phát triển. Sự kiện còn là động lực để tuyên truyền, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn huyện phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2020 - 2025. Sau 10 năm triển khai thực hiện chương trình xây dựng NTM, diện mạo nông thôn Yên Thành đã có sự thay đổi mạnh mẽ, kinh tế phát triển theo hướng bền vững, chuyển dịch tích cực. Đời sống vật chất, tinh thần người dân được nâng cao, thu nhập bình quân đạt 47,51 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,5%; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đầu tư đồng bộ và ngày càng hoàn thiện, trật tự, an toàn xã hội luôn được ổn định và giữ vững, hệ thống chính trị không ngừng củng cố. Tổng nguồn vốn huy động xây dựng NTM đạt gần 5.500 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp gần 1.800 tỷ đồng... Đến cuối năm 2019, 38/38 xã của huyện đạt chuẩn nông thôn mới; thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị. Huyện hoàn thành 9/9 tiêu chí, được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới năm 2019 và được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba giai đoạn 2016 - 2019. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước tặng huyện Yên Thành Với những thành quả đã đạt được, trong thời gian tiếp theo, UBND huyện Yên Thành tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí NTM đã đạt được một cách thực chất, bền vững. Tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần người dân nông thôn. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng bền vững một cách hiệu quả. Tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, chất lượng, an toàn thực phẩm, phát huy các lợi thế của từng vùng. Tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để thích ứng, ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển nông nghiệp theo hướng sạch, bền vững và áp dụng quy trình sản xuất VietGAP, GlobalGAP... trên một số cây trồng như rau, bưởi, cam, vật nuôi như gà, lợn. Bên cạnh đó, tập trung thu hút đầu tư, đẩy mạnh phát triển các ngành nghề nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tập trung mọi nguồn lực để tiếp tục xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, như đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, dịch vụ, phát triển các làng nghề, mở rộng các loại hình dịch vụ, chú trọng dịch vụ phục vụ sản xuất, du lịch và đời sống dân sinh. Kết hợp du lịch tâm linh, du lịch sinh thái với du lịch trải nghiệm nông thôn mới. Thực hiện xã hội hóa đầu tư các công trình cấp nước sạch, chợ nông thôn, công trình thu gom, xử lý rác thải và một số công trình công ích khác... Với mục tiêu xây dựng Yên Thành trở thành huyện nông thôn mới kiểu mẫu, theo lộ trình đến năm 2025, Yên Thành phấn đấu 50 - 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, ít nhất 3-5 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Minh Phương        

Xã Mường Bo (Sa Pa) đạt chuẩn nông thôn mới

TĐKT - Ngày 28/11, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai tổ chức Lễ công bố xã Mường Bo đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020. Trao Bằng công nhận xã Mường Bo đạt chuẩn nông thôn mới Năm 2019, Mường Bo được hình thành trên cơ sở sáp nhập giữa 2 xã Thanh Phú và Suối Thầu, theo Nghị quyết 767 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Sau sáp nhập, điều kiện kinh tế - xã hội xã Mường Bo còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức: hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm, trình độ nhận thức của nhân dân không đồng đều, nguồn lực đầu tư của nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu trong khi điều kiện kinh tế của các hộ gia đình còn rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm trên16 %; thu nhập bình quân đầu người 30,5 triệu đồng/người/năm... xã mới đạt 10 tiêu chí với tỷ lệ 52,63% tiêu chí nông thôn mới. Với quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức đến tháng 10/2020, xã Mường Bo đã hoàn thành 19/19 tiêu chí của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trong đó có một số chỉ tiêu vượt kế hoạch đề ra: Trên 96% hộ dân có nhà ở đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, không còn hộ dân phải sống trong nhà tạm, nhà dột nát; thu nhập bình quân đầu người của xã đạt trên 36 triệu đồng/năm, tăng trên 26 triệu đồng so với 2011; tỷ lệ hộ nghèo còn 10,73%, giảm 51,5% so với năm 2011,… Hệ thống điện, đường, trường, trạm ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống cho nhân dân. Đặc biệt hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và phát triển. Để có được thành công đó, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới xã Mường Bo đã quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của nhân dân trong thi đua phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Nhờ đó, cùng với nguồn lực đầu tư của các cấp, các ngành, người dân địa phương đã đóng góp trên 23 tỷ đồng tham gia thực hiện các tiêu chí trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Tại buổi lễ, nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc được tuyên dương, khen thưởng. Thùy Linh

Châu Thành A: Điểm sáng nông thôn mới của tỉnh Hậu Giang

TĐKT - Với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng bộ và nhân dân huyện Châu Thành A không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; vượt qua nhiều khó khăn, thử thách trong xây dựng và phát triển, đưa Châu Thành A từ một huyện khó khăn trở thành đơn vị dẫn đầu về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang. Đời sống của người dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần. Đặc biệt, Châu Thành A là đơn vị đạt chuẩn huyện nông thôn mới (NTM) năm 2019 đầu tiên của tỉnh.   Lễ công bố huyện Châu Thành A đạt chuẩn nông thôn mới và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba Những con số ấn tượng Đến nay, toàn huyện Châu Thành A có 6/6 xã được công nhận xã đạt chuẩn NTM; hoàn thành 9/9 tiêu chí huyện NTM; 4 thị trấn được công nhận đạt chuẩn văn minh đô thị. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 6,93%, tăng 1,55% so với năm 2010; dẫn đầu so với các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh Hậu Giang. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 4,36 lần so với năm 2008 (năm 2008 là 10,27 triệu đồng; năm 2020 là 50 triệu đồng). Tổng thu ngân sách tăng gấp 5,05 lần so với năm 2008 (năm 2008 là 39,492 tỷ đồng; năm 2020 (199,615 tỷ đồng). Về phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư, huyện đã có 238 doanh nghiệp thành lập mới, tăng so với năm 2008 là 144 doanh nghiệp. Riêng Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh  có 38 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 3.810 tỷ đồng và 110 triệu USD, giải quyết việc làm cho trên 15.000 lao động. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2008 là 1.535 tỷ đồng; năm 2020 là 4.142 tỷ đồng, tăng 2.607 tỷ đồng. Trên địa bàn huyện có 7 nhà máy chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Huyện có vùng cây ăn trái đặc sản như: Xoài, chanh không hạt, sầu riêng, nhãn Ido, măng cụt… đem về thu nhập cho người dân từ 100 triệu đồng/mô hình năm 2008, tăng lên trên 1 tỷ đồng/mô hình năm 2020. Có 79/79 nhà văn hóa ấp được trang bị Wifi miễn phí cho nhân dân sử dụng và tủ sách hướng dẫn sản xuất nông nghiệp từ cơ bản đến nâng cao. Từ năm 2008 - 2020, huyện xây dựng mới 692.593 m2 đường bê tông xi măng, 18.290 m2 cầu bê tông cốt thép, với tổng kinh phí 345,96 tỷ đồng (vốn nhà nước 194,11 tỷ đồng, vốn xã hội hóa 151,85 tỷ đồng). Hệ thống chiếu sáng công cộng được triển khai tại 56,3/72,7 km đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện hộ; các tuyến đường liên ấp, ngõ, xóm có 46,5 km đèn chiếu sáng công cộng được đầu tư bằng nguồn vốn xã hội hóa. Trên 70% diện tích đất nông nghiệp đều có đê bao khép kín; 100% diện tích được ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa…; có 267 km đường được trồng hoa kiểng và cây xanh. Huyện có 32/4 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm 72,73%, tăng 27 trường so với năm 2008.; có 10 đơn vị đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã, 1 Trung tâm Y tế huyện, 2 phòng khám đa khoa khu vực, 8 trạm y tế, 2 bệnh viện tư nhân có 250 giường bệnh, đạt 25,61 giường/1.000 dân, với 173 bác sĩ, đạt 17,72 bác sĩ/1.000 dân. Trang thiết bị phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh đầy đủ, hiện đại hóa, đảm bảo nhu cầu của nhân dân trong và ngoài huyện. Công tác phòng, chống dịch bệnh được thực hiện tốt, không có dịch bệnh phát sinh và không có ca tử vong do dịch bệnh. Về ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, từ năm 2008 đến nay, huyện Châu Thành A có 3.202 đề tài sáng kiến được áp dụng vào trong lao động sản xuất, học tập, công tác. Đặc biệt, nghiên cứu thành công đề tài khoa học xử lý xoài ra hoa nghịch vụ và bao trái xoài, nhân rộng diện tích trên 582 ha; đề tài đã giúp cho người dân thu nhập trên 500 triệu đồng/ha; sản lượng bình quân hàng năm 11.640 tấn, trị giá 291 tỷ đồng, tăng 80% giá trị sản xuất. Được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, huyện đã tổ chức vận động Quỹ “Vì người nghèo” với tổng số tiền 472,469 tỷ đồng. Bên cạnh đó, huyện đã thực hiện việc chăm lo tết cho người nghèo, người gặp khó khăn, trẻ mồ côi, học sinh nghèo với tổng trị giá 48,608 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện đến nay giảm còn 1,94%. Hiện huyện không còn gia đình chính sách và đảng viên thuộc diện hộ nghèo. Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn được huyện đặc biệt quan tâm, mỗi năm hàng nghìn lao động được đào tạo tại chỗ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các khu công nghiệp lớn đóng trên địa bàn, góp phần giảm nghèo bền vững. Hiện huyện có 3 cơ sở đào tạo nghề cho công nhân như: Lái xe, may công nghiệp và kỹ thuật xây dựng…   Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang được xếp loại xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ liên tục từ năm 2008 đến nay. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt từ 90% trở lên. Quyền lợi chính sách của nhân dân được đảm bảo thực hiện đầy đủ. Không xảy ra tai nạn lao động trên địa bàn; không có khiếu kiện đông người; tài sản và tính mạng người dân luôn được đảm bảo tuyệt đối… Huyện Châu Thành A là đơn vị đầu tiên của tỉnh Hậu Giang hoàn thành nhiệm vụ khen thưởng thành tích kháng chiến cho cán bộ và nhân dân vào năm 2006. Những con số ấn tượng về xây dựng nông thôn mới là minh chứng cho quyết tâm của người dân và sự chỉ đạo hoàn toàn đúng hướng của lãnh đạo địa phương thời gian qua. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước Các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, đặc biệt là các phong trào thi đua luôn nhận được sự đồng tình hưởng ứng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu là phong trào xây dựng mô hình ấp kiểu mẫu “5 không, 4 có”. Về 5 không: Không phạm pháp hình sự, không xảy ra phạm pháp hình sự nghiêm trọng; không tệ nạn xã hội, không điểm nóng tệ nạn xã hội phức tạp; không xây dựng nhà ở và công trình trái phép, sai phép và chưa chuyển đổi mục đích sử dụng, vi phạm quy hoạch; không tai nạn giao thông và trật tự an toàn giao thông; không xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng (chết người) và vi phạm trật tự hành lang an toàn giao. Về 4 có: Có Chi bộ được xếp loại xuất sắc, đoàn thể vững mạnh; có 3 sạch theo tiêu chí của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động (sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ); có ít nhất 1 mô hình theo chuỗi giá trị sản xuất đầu vào, đầu ra ổn định; 100% dân số của ấp có mặt tại địa phương tham gia bảo hiểm y tế; có câu lạc bộ thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ hoạt động có chất lượng; có gắn 2 camera an ninh tại các ấp, loa truyền thanh, tổ chức việc cưới, việc tang theo quy định. Ấp phải có mô hình doanh thu 1 tỷ đồng/ha/năm. Bên cạnh đó là phong trào thực hiện mô hình “Một trách nhiệm, ba có, ba không” trong công tác cải cách hành chính. Một trách nhiệm là: Trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn; thủ trưởng các ngành huyện có liên quan đến công tác cải cách hành chính của huyện không để tỉnh trừ điểm cải cách hành chính thuộc đơn vị mình phụ trách; được tỉnh đánh giá xếp loại xuất sắc. Ba có: Có thái độ phục vụ nhân dân lịch sự, hướng dẫn tận tình; có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao; có duy trì và triển khai thực hiện đúng quy định mô hình chính quyền thân thiện, mô hình 4 xin, 4 luôn (xin chào, xin hỏi, xin lỗi, xin cảm ơn, luôn mỉm cười, luôn lắng nghe, luôn nhẹ nhàng, luôn giúp đỡ). Có đầy đủ các văn bản thực hiện  2 mô hình trên. Có cách làm hay, sáng tạo trong thực hiện 2 mô hình; có phối hợp với Bưu điện trả kết quả một số thủ tục hành chính đến tận nhà dân; có cán bộ, công chức làm đầu mối tiếp nhận tất cả các thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa; hồ sơ tiếp nhận tại bộ phận một cửa được nhập trên cổng dịch vụ công trực tuyến 100%; niêm yết thủ tục hành chính đúng quy định; ký số trong phần mềm quản lý văn bản 100%. Tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 được nhập, giải quyết trên tổng số hồ sơ tiếp nhận 40%, mức độ 4 là 30%. Ba không: Không gây phiền hà tổ chức và công dân; không có hồ sơ tồn đọng, hồ sơ trễ hẹn; không để dân chờ. Phong trào làm theo Bác để “Lợi nhuận tăng - Lao động giỏi - Tiết kiệm hay - Công tác tốt” cũng được huyện phát động nhằm đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một phong trào hành động thật sự trong mỗi người dân huyện Châu Thành A. Qua đó, nâng cao tinh thần trong lao động, học tập và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân; phát triển sản xuất, kinh doanh trong từng hộ gia đình, trong từng cá nhân để góp phần xây dựng quê hương Châu Thành A ngày càng giàu đẹp. Kết quả, huyện kịp thời nhân rộng và biểu dương khen thưởng cho 1.050 mô hình làm ăn có hiệu quả và gương điển hình tiên tiến. Bên cạnh đó là các phong trào: Tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ; xây dựng giao thông nông thôn - thủy lợi và trồng cây; phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; tặng sổ tiết kiệm từ 5 - 10 triệu đồng/sổ tiết kiệm cho thanh niên lên đường nhập ngũ để tạo điều kiện cho thanh niên làm ăn sau khi xuất ngũ; phong trào tham gia bảo hiểm y tế toàn dân… Các phong trào thi đua đã phát huy được tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, từ đó nhân dân đồng tình, hưởng ứng, thực hiện, đem lại hiệu quả to lớn cho huyện Châu Thành A trong quá trình xây dựng và phát triển. Phương Thanh

Nông dân Bạc Liêu với internet

TĐKT - Sau 3 năm triển khai Dự án “Nâng cao năng lực sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet cho cán bộ, hội viên Hội Nông dân”, đã có nhiều nông dân trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu được tiếp cận và sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào thực tiễn đời sống, sản xuất. Hội Nông dân tỉnh đã phối hợp tổ chức nhiều lớp tập huấn sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet cho hội viên Ông Phạm Tuấn Tài, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: Năm 2017, Bạc Liêu là 1 trong 9 tỉnh được Hội Nông dân Việt Nam chọn thực hiện Dự án Google. Dự án được Tập đoàn Google thông qua quỹ từ thiện Tides tài trợ. Theo đó, Hội Nông dân tỉnh triển khai thực hiện Dự án Google, thành lập CLB “Nông dân với internet”. Qua 3 năm đi vào hoạt động, CLB đã thực sự trở thành cầu nối thông tin, giúp hội viên, nông dân tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và kết nối tiêu thụ hàng hóa. Khi tham gia CLB, các thành viên được hướng dẫn, chia sẻ kiến thức về sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và truy cập internet; được tham quan học tập thực tế kinh nghiệm tại các mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Nhiều hội viên nông dân còn chia sẻ cho nhau kinh nghiệm từ những mô hình mới, hiệu quả kinh tế cao thông qua mạng xã hội Zalo, Facebook. Bên cạnh đó, các thành viên còn được hướng dẫn khai thác tìm hiểu thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan thiết thực tới nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thông tin về giá cả thị trường; nơi cung cấp, nơi bán sản phẩm nông nghiệp gia đình đang sản xuất, kinh doanh hoặc sản phẩm được người dân ưa chuộng đem lại giá trị kinh tế cao ở nơi mình đang sinh sống và các nơi khác. Chia sẻ về hiệu quả đạt được khi được tham gia CLB “Nông dân với internet”, ông Nguyễn Trọng Khiêm (xã Vĩnh Trạch, TP Bạc Liêu) cho biết: Được tham gia các lớp tập huấn do CLB tổ chức, tôi đã biết cách truy cập mạng để tham khảo và ứng dụng từ việc chọn đúng địa chỉ cung cấp tôm giống sạch đến cách xử lý ao nuôi theo đúng quy trình, kỹ thuật nuôi tôm sạch trong tất cả các khâu... Từ năm 2019 đến nay, mô hình nuôi tôm sạch của gia đình tôi nhờ vậy luôn đạt hiệu quả kinh tế cao. Hiện trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có 21 CLB “Nông dân với internet” với gần 400 thành viên, trong đó chủ yếu là những hội viên nông dân đang tham gia ở các tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp. Mỗi CLB đều được trang bị máy in, máy tính kết nối internet; thành viên tham gia tập huấn kỹ năng sử dụng, cách truy cập thông tin trên internet và sau đó hướng dẫn lại cho nông dân trên địa bàn. “Thực tế cho thấy, nhiều nông dân đã nhanh chóng áp dụng những kiến thức học được từ internet vào sản xuất và đạt hiệu quả. Không những thế, từ thông tin trên internet, nhiều nông dân còn mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả kinh tế cao.” - ông Tài cho biết. Đặc biệt, hiện nay, có một số nông dân đã biết gửi thư điện tử để trao đổi thông tin với các cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học nhằm tìm kiếm thông tin về cách phòng, chữa bệnh cho cây trồng, vật nuôi; các nguồn vốn, tổ chức cho vay; địa chỉ cung cấp hàng hóa và các chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Những hiệu quả đạt được từ 38 mô hình điển hình áp dụng ứng dụng điện thoại thông minh, máy tính, internet vào sản xuất ở các địa phương trong tỉnh trong thời gian qua đã khẳng định sự hữu ích và thành công bước đầu của Dự án. Thời gian tới, Hội Nông dân tỉnh sẽ tiếp tục triển khai thực hiện Dự án để hội viên nông dân nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng và chia sẻ thông tin, kiến thức, kinh nghiệm trong việc sử dụng máy tính, điện thoại thông minh, internet góp phần đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Bảo Linh

Xã Yên Viên (huyện Gia Lâm, Hà Nội) đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2020

TĐKT - Sáng 24/11, xã Yên Viên, huyện Gia Lâm (Hà Nội) tổ chức Lễ đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao; khánh thành công trình “Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng Yên Viên”, biểu dương, khen thưởng các điển hình tiên tiến 5 năm 2015 - 2020. Xã Yên Viên nằm ở phía Bắc của huyện Gia Lâm, có diện tích tự nhiên 376,3ha, dân số hơn 14.000 nhân khẩu. Không phải là xã điểm xây dựng NTM của huyện Gia Lâm trong giai đoạn đầu tiên (2011- 2015), song bằng sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân địa phương, năm 2013, Yên Viên đã được UBND TP Hà Nội ra quyết định công nhận đạt chuẩn NTM. Trong thời gian qua, Chương trình xây dựng NTM nâng cao của xã đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm đều vượt kế hoạch. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế tăng bình quân 13,6%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hàng năm tăng cao. Công tác quản lý nhà nước luôn được tăng cường; cải cách hành chính được đẩy mạnh; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh. Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Gia Lâm Lê Anh Quân trao bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM nâng cao cho xã Yên Viên Trong 5 năm (2015 - 2020), xã Yên Viên được huyện đầu tư trên 100 tỷ đồng để phát triển, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị và hạ tầng khung trên địa bàn. Đến nay, 100% trục đường chính xã; trục đường thôn, liên thôn được nhựa hóa; 100% đường ngõ xóm được bê tông hóa; 100% tuyến đường từ 2m trở lên được lắp đặt chiếu sáng. Các thiết chế văn hóa, trạm y tế xã được đầu tư đồng bộ: 9/9 thôn, tổ dân phố đều có nhà văn hóa được cải tạo nâng cấp, khang trang, sạch đẹp; trạm y tế được xây dựng mới hoàn thành năm 2019; 100% dân số được sử dụng nước sạch; 4/4 trường học trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 2 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2; 91,15% người dân tham gia bảo hiểm y tế. Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, tiến bộ hơn; cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người năm 2019 đạt 55,2 triệu đồng/người (tăng 18,2 triệu so với năm 2015); không còn hộ nghèo… Với các kết quả đạt được, ngày 3/8/2020, xã Yên Viên được Chủ tịch UBND TP Hà Nội ra quyết định công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2020 (đợt 1). Đây là một trong 2 xã đầu tiên của huyện “cán đích” NTM nâng cao năm 2020. Cũng tại buổi lễ, xã Yên Viên đã cắt băng khánh thành công trình “Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng Yên Viên”. Công trình được khởi công xây dựng từ ngày 9/2/2020. Đình làng tọa lạc trên khuôn viên rộng 295,5 m2, hướng Tây Bắc, với hình thức chữ Đinh gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian 6 hàng chân cột, mái đao; hậu cung là nếp nhà bít đốc đấu mái. Tu bổ, tôn tạo nhà Tả mạc, Hữu mạc đối diện phía trước đình với diện tích mỗi nhà 36,6 m2; sân trước đình lát toàn bộ bằng gạch bát. Ngoài đại đình còn có nhà bia, nhà khách, tường bao, cổng đình tam môn - tứ trụ, hồ bán nguyệt... Đến nay, các hạng mục công trình đã hoàn thành theo đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, mỹ thuật theo đúng thiết kế. Nhân dịp này, UBND huyện Gia Lâm đã khen thưởng 3 tập thể, 3 cá nhân có thành tích trong phong trào thi đua xây dựng NTM nâng cao tại xã Yên Viên. UBND xã khen thưởng 21 tập thể, 39 gia đình và 25 cá nhân điển hình tiên tiến, có thành tích trong các phong trào thi đua giai đoạn 2015 - 2020. Thục Anh

Viết tiếp ước mơ làm giàu trên mảnh đất khó

TĐKT - Trong một vài năm gần đây, cây tam thất đã trở thành một sản phẩm được nhiều người ưa chuộng, có nhu cầu sử dụng cao. Đây là một loại cây dược liệu quý hiếm đồng thời là cây có giá trị kinh tế cao so với các loại cây trồng khác. Nhận thấy điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương phù hợp với việc trồng cây tam thất, chị Vũ Thị Nhung, thôn Sảng Mản Thẩn, xã Mản Thẩn là người đầu tiên đầu tư phát triển mô hình này tại huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Chị Vũ Thị Nhung thường xuyên theo dõi, chăm sóc cây hàng ngày Vào năm 2014, gia đình chị Vũ Thị Nhung đầu tư trồng vườn tam thất đầu tiên với tổng diện tích 0,3 ha, tuy nhiên do chưa có kinh nghiệm chọn đất, kỹ thuật trồng, cách xử lý đất, tạo luống cho tới việc làm mái che, khâu chăm sóc chưa đúng cách nên sản lượng không cao. Sau khi thu hoạch vườn trồng năm 2014, chị tiếp tục học hỏi kỹ thuật trồng và chăm sóc tam thất qua mạng internet, sách báo và trực tiếp tại các vùng trồng tam thất khác. Đặc biệt, chị còn học hỏi kinh nghiệm ươm giống tam thất để chủ động nguồn giống phục vụ gia đình cũng như cung cấp giống cho nông dân khác. Chị cho biết: Để cây tam thất phát triển tốt, cần tạo hệ thống thổ nhưỡng như làm luống cao nhằm tránh úng nước; lợp mái che bằng lưới đen (lưới Đài Loan) hoặc bằng lá thông gai; che phủ mặt luống bằng lá cây tế hoặc lá cây thông dầu để giữ ẩm cho đất nhằm hạn chế sự phát triển của cây cỏ dại. Ngoài ra, phải thường xuyên theo dõi, chăm sóc cây hàng ngày để nhổ cỏ, nhặt bỏ những cây thối, lá rụng, không làm ảnh hưởng đến cây khác. Sau khi rút kinh nghiệm từ vườn trước, đến tháng 12/2018, gia đình chị đã mạnh dạn vay vốn để xây dựng lại mô hình trồng cây tam thất với tổng diện tích là 0,7 ha, trong đó, có 0,3 ha là vườn ươm cây giống, 0,4 ha là vườn trồng củ khai thác lấy nụ, củ và thân. Do phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương nên cây sinh trưởng và phát triển khá tốt. Chị mạnh dạn làm hồ sơ tham gia Ngày hội Phụ nữ khởi nghiệp của huyện, tỉnh và được chọn là 1 trong 3 ý tưởng xuất sắc nhất lọt vào vòng thi cấp Trung ương. Ngoài trồng cây tam thất, năm 2015, gia đình chị đã đầu tư trồng và chăm sóc 200 gốc mận Tả Van, hiện nay đã cho thu hoạch; từ năm 2017 đến nay, trồng trên 700 gốc lê Tai Nung; năm 2018 xây dựng thêm 1 mô hình chăn nuôi gà Mông địa phương (gà lông trắng thịt đen và gà lông màu) theo hướng trang trại. Năm 2019, tổng số tiền gia đình chị thu về từ các mô hình là 309.260.000 đồng. Trong đó, thu từ nụ, lá và cây giống tam thất là 211.945.000 đồng; thu từ cây ăn quả, trang trại gà, lợn là 97.315.000 đồng. Mong muốn tạo thêm công ăn việc làm cho chị em phụ nữ ở trong thôn, sẵn có kinh nghiệm nên tháng 12/2019, chị đã mở rộng diện tích trồng mới 0,4 ha tam thất với phương châm “vừa sản xuất giống, vừa trồng củ” để đảm bảo nhu cầu của khách hàng. Mô hình đã tạo công ăn việc làm cho nhiều chị em phụ nữ trong thôn, xã Mô hình trồng cây tam thất của gia đình chị đã tạo công ăn việc làm cho các chị em phụ nữ trong thôn, xã trên 900 ngày công, với tiền thuê nhân công là 170.000 đồng/ngày, chi phí thuê nhân công trên 150 triệu đồng. Với những thành quả ban đầu của mô hình trồng cây tam thất, đã có nhiều đoàn khách đến tham quan, học tập kinh nghiệm về cách làm của gia đình chị. Chỉ riêng trong năm 2019 đã có hơn 30 đoàn lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các huyện, thành phố, các cơ quan ban, ngành thuộc tỉnh Lào Cai; đoàn tham quan của tỉnh Điện Biên, Quảng Ninh... các đoàn phóng viên đưa tin và các cá nhân đến tham quan, học hỏi tại vườn tam thất. Để nâng cao giá trị các cây dược liệu sẵn có của địa phương, chị và các thành viên trong hợp tác xã Mản Thẩn do chị quản lý đã bàn bạc và thống nhất mua máy móc về sản xuất, chế biến các loại cây dược liệu thành các sản phẩm dễ sử dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, hợp tác xã đã xây dựng và thiết kế xong bộ mẫu mã bao bì đóng gói cho các sản phẩm từ cây tam thất Si Ma Cai như trà túi lọc tam thất, bột tam thất… Trà tam thất đã được chọn là 1 trong 10 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu tỉnh Lào Cai năm 2020. Theo chị, để tiếp tục nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình tại địa phương, huyện cần có phương thức hỗ trợ phù hợp như hỗ trợ về vốn, mở các lớp tập huấn về kỹ thuật chăm sóc, nuôi trồng… Huyện cần đăng ký thương hiệu đối với cây tam thất Si Ma Cai để làm cơ sở quáng bá, giới thiệu các sản phẩm này đến với người tiêu dùng trong nước; tiếp tục quy hoạch vùng sản xuất tập trung, vùng chuyên canh về cây tam thất để phát triển sản xuất quy mô lớn, nhằm thu hút các doanh nghiệp vào thu mua và đầu tư liên kết với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tam thất. Chị tin tưởng rằng việc quan tâm xây dựng thương hiệu sản phẩm, tìm đầu ra cho sản phẩm sẽ là hướng thoát nghèo bền vững cho người nông dân ở nơi vùng cao còn nhiều gian khó này. Phương Thanh

Học Bác, góp sức xây dựng quê hương

TĐKT - Với tinh thần tiên phong, cán bộ, đảng viên và nhân dân thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang. Nhờ đó, đã tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, đẩy mạnh phát kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng đảng và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện. Chi bộ thôn phối hợp với Đồn Biên phòng Bản Máy tuần tra đường biên mốc giới trên địa bàn thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Thôn Bản Máy nằm tại trung tâm xã Bản Máy, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, có 118 hộ với 507 khẩu, gồm 4 dân tộc cùng sinh sống với 3 cụm dân cư tự quản, trong đó dân tộc Tày chiếm đa số. 100% hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người 23 triệu/người/năm. Cuộc sống nhân dân nơi đây vẫn còn vô vàn khó khăn, số hộ nghèo trong thôn là 26 hộ, chiếm đến 22,03%. Để tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo Bác gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đi vào chiều sâu và có sức lan tỏa, chi bộ thôn luôn chú trọng tuyên truyền, phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xác định rõ vai trò của người đứng đầu trong việc nêu gương; mạnh dạn đóng góp ý kiến trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đặc biệt là quan tâm bồi dưỡng tạo nguồn phát triển đảng viên mới, đưa nội dung chuyên đề học tập và làm theo Bác hằng năm lồng ghép vào các cuộc họp thôn, sinh hoạt chi bộ. Qua đó, đảng viên và nhân dân trong thôn được tiếp thu tư tưởng, những đức tính tốt đẹp của Bác, gắn việc học tập và làm theo Bác với các phong trào thi đua yêu nước để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới… Xác định phát triển kinh tế là trọng tâm, căn cứ tình hình thực tiễn của thôn thuần nông, thu nhập chính của các hộ dân đều từ sản xuất nông nghiệp, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân đưa các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng tốt để thay thế căn bản giống địa phương, chú ý tới việc triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng cường thâm canh, tăng năng suất, chuyển diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng 25ha cỏ chăn nuôi, 5ha quả hồng không hạt, 1ha quả mận máu, trồng 230 trụ quả thanh long ruột đỏ… Mô hình chăn nuôi trâu của hộ gia đình ông Hoàng Xín Phủ, thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Các chương trình dự án đầu tư có trọng điểm đã được chi bộ thôn lãnh đạo thực hiện có hiệu quả như Chương trình 135/TTg hỗ trợ hộ 5 hộ chăn nuôi bò luân chuyển; chương trình hỗ trợ hội nông dân chăn nuôi bò luân chuyển 16 con (mỗi hộ 1 con), đến nay đã luân chuyển được 16 hộ (mỗi hộ 1 con bò). Từ đó, góp phần tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân trong thôn. Hiện nay trên địa bàn toàn thôn có 325 con trâu bò, hộ nuôi ít nhất là 2 con, hộ nuôi nhiều nhất là 12 con. Trong thôn đã xuất hiện nhiều gương điển hình trong xây dựng kinh tế như: Mô hình chăn nuôi trâu hộ gia đình ông Hoàng Xín Phủ, duy trì thường xuyên 7 con trâu (4 con trâu cái), mỗi năm bán 2 con trâu mang lại thu nhập tăng thêm 43 triệu đồng. Mô hình chăn nuôi bò, dê của hộ gia đình bà Nguyễn Thị Thúy Tình, duy trì thường xuyên 12 con bò, thu nhập tăng thêm mỗi năm 70 triệu đồng. Mô hình nuôi chim cút của hộ gia đình ông Lục Xuân Hương, Bí thư chi bộ thôn Bản Máy, mỗi năm nuôi 2 lứa, mỗi lứa 800 con, bình quân mỗi năm thu nhập tăng thêm 15 triệu đồng. Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính của hộ gia đình ông Hoàng Quốc Chung với quy mô hơn 2.000 con, thu nhập tăng thêm bình quân 12 triệu đồng… Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên thôn Bản Máy đều thể hiện rõ vai trò tiền phong, gương mẫu, nhất là trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới. Mọi việc từ huy động sức dân đóng góp tiền, ngày công, hiến đất đều được đưa ra bàn bạc theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân đóng góp, dân hưởng lợi”. Nhiều hộ gia đình đã thấm nhuần lời dạy của Bác “luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân” không chỉ tự nguyện hiến đất, góp tiền mà còn tích cực đóng góp ngày công tham gia làm đường giao thông nông thôn. Trong 5 năm qua, đảng viên, nhân dân trong thôn Bản Máy đã hiến 15.000m2 đất để làm các công trình phúc lợi xã hội, phục vụ nhân dân trong thôn; huy động được trên 1.386 ngày công, 26 triệu đồng và mở mới được 3.850m, đổ được 848,5m đường bê tông nông thôn và đường xuống cụm dân cư Hoa Si Pan phục vụ nhu cầu đi lại cho nhân dân trong cụm dân cư Phù Lá (dân tộc ít người). Hiện nay, hệ thống đường giao thông trong thôn cơ bản được bê tông hóa, giúp việc đi lại, vận chuyển hàng hóa được thuận lợi. Ngoài ra, chương trình nhà sạch, vườn đẹp, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư… cũng được chi bộ vận động nhân dân tích cực triển khai và đạt nhiều thành tích đáng kể, toàn thôn có 85/118 hộ có nhà tắm, nhà vệ sinh; 118/118 hộ có bể nước hợp vệ sinh. Nhân dân đóng góp ngày công trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thôn Ngoài chỉ đạo nhân dân thực hiện tốt việc sản xuất, thôn còn chú trọng công tác an sinh xã hội. Thôn đã huy động nhân dân đóng góp được 130 ngày công giúp được 7 hộ khó khăn xây dựng nhà ở. Các tổ chức đoàn thể xã, đồn biên phòng Bản Máy, các đơn vị đóng chân trên địa bàn giúp đỡ hộ gia đình ông Lục Phát Thu di chuyển chuồng trại chăn nuôi để giải phóng mặt bằng xây dựng nhà văn hóa cho dân tộc Phù Lá. Phong trào xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài được nhân dân trong thôn hưởng ứng và tích cực thực hiện. Đời sống văn hóa tinh thần có nhiều khởi sắc, hằng năm vào dịp hội xuân, thôn đều tổ chức các hoạt động thể thao như: Kéo co, bóng chuyền, bóng đá, đẩy gậy, ném còn… Từ những hoạt động này, tình làng nghĩa xóm được thắt chặt, tình hình an ninh trật tự ổn định, nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Một trong những dấu ấn đậm nét trong việc học tập và làm theo Bác ở chi bộ thôn Bản Máy đó là tuyên truyền, vận động các thành viên trong ban quản lý thôn, đảng viên, đoàn viên và toàn thể nhân dân trong thôn sẵn sàng tham gia các hoạt động bảo vệ an ninh biên giới với nhiều hoạt động thiết thực: Tổ chức tuyên truyền cho nhân dân trong thôn về Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 9/1/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc tổ chức phong trào toàn dân bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới; phối hợp với lực lượng Bộ đội biên phòng Bản Máy tham gia tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc; chỉ đạo lực lượng dân quân phối hợp với bộ đội biên phòng tham gia các chốt chặn, đường mòn, lối mở ngăn chặn người dân vượt biên trái phép, thực hiện công tác phòng, chống dịch Covid-19, tuyên truyền đến các hộ dân trong thôn không đi lao động trái phép, không phá rừng, đốt nương, chống xâm canh, xâm cư, tích cực tham gia tố giác tội phạm. Đồng thời, chỉ đạo các hộ có diện tích đất canh tác giáp biên giới thường xuyên nắm bắt tình hình để không bị động, bất ngờ khi có tình huống bất ổn xảy ra trên tuyến biên giới. Với những cách làm thiết thực, hiệu quả, sự gương mẫu đi đầu của mỗi đảng viên, chi bộ thôn Bản Máy luôn giữ vững lòng tin sâu sắc của nhân dân với Đảng, phát huy được sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh phát kinh tế - xã hội toàn thôn. Trong năm 2020, chi bộ thôn Bản Máy đã vinh dự được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2016 - 2020. Trang Lê

Trang