Kinh tế

Khai mạc triển lãm VIETWATER 2019

TĐKT - Sáng 24/7, tại Trung tâm Triển lãm quốc tế I.C.E Hà Nội, triển lãm quốc tế hàng đầu về ngành cấp, thoát nước, công nghệ lọc nước và xử lý nước thải VIETWATER 2019 Hà Nội đã chính thức khai mạc. Đây là sự kiện thương mại ngành nước duy nhất, được chủ trì bởi Hội Cấp Thoát nước Việt Nam và hỗ trợ bởi Bộ Xây dựng Việt Nam.VIETWATER cũng nằm trong chuỗi triển lãm ngành nước và xử lý nước, do công ty UBM Asia - đơn vị tổ chức thương mại hàng đầu tại châu Á tổ chức. Lễ khai mạc triển lãm Trong những năm qua, cùng với sự đi lên của kinh tế xã hội, hệ thống đô thị đang ngày càng mở rộng cả về quy mô và số lượng. Cùng với đó, những thách thức đặt ra cho ngành nước trong công cuộc quản lý các nguồn tài nguyên một cách bền vững, xử lý nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp là một trong những yếu tố cấp bách cho sự phát triển của cả ngành công nghiệp và quản lý đô thị. Có thể thấy, chìa khóa của sự phát triển bền vững chính là đầu tư phát triển hệ thống cấp, thoát nước, thu gom, xử lý nước thải, tìm kiếm các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực cấp, thoát nước, xử lý môi trường, đặc biệt là hướng tới đổi mới công nghệ hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát biểu tại Lễ khai mạc triển lãm, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Đình Toàn cho biết: Bộ Xây dựng đánh giá cao việc tổ chức các hoạt động của triển lãm hàng năm và hy vọng sự thành công của triển lãm sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam giao trong các Định hướng về cấp, thoát nước đô thị vag khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn 2050; Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; các mục tiêu và nhiệm vụ của Chương trình Quốc gia bảo đảm cấp nước an toàn... Diễn ra từ ngày 24 - 26/7, với tổng diện tích hơn 3.500 m2, triển lãm năm nay thu hút hơn 200 đơn vị tham gia, đến từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc... Các sản phẩm được trưng bày tại triển lãm thu hút sự quan tâm của khách tham quan VIETWATER 2019 Hà Nội hứa hẹn chào đón hơn 7000 khách tham quan, là các chuyên gia đầu ngành cùng nhiều hiệp hội và tổ chức đến tham quan và mở rộng hoạt động kết nối, giao thương. Triển lãm có sự tham gia của 6 nhóm hàng quốc tế và những đơn vị triển lãm nổi bật như: Tsurumi, Goshu Kohsan, JFE, Organo, Metawater... cùng nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước khác. Trong khuôn khổ triển lãm, Hội thảo ngành nước VIETWATER 2019 tại Hà Nội sẽ mang đến nội dung "Quản lý nước hướng tới mục tiêu phát triển bền vững" vào ngày 25/7. Hướng đến những đề tài nóng của ngành nước tại Việt Nam, Hội thảo tập trung khai thác những nội dung liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của thay đổi môi trường nước hiện nay. Bên cạnh đó, Hội thảo kỹ thuật VIETWATER 2019 tại Hà Nội, sự kiện bên lề quen thuộc của triển lãm VIETWATER sẽ diễn ra vào ngày 24 và 25/7. Đây được xem là một cơ hội, một không gian tiếp cận gần gũi được Ban Tổ chức dành riêng cho các đơn vị triển lãm có thể giới thiệu nhiều hơn các sản phẩm và công nghệ của mình đến khách tham quan. Phương Thanh  

Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam thi đua hoàn thành kế hoạch được giao

TĐKT - Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ than trong nước (chủ yếu là than phẩm cấp thấp, cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, đạm, xi măng…), trong 6 tháng đầu năm 2019, Tập đoàn Công nghiệp nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã thi đua hoàn thành kế hoạch được giao. Cụ thể, 6 tháng đầu năm 2019, Tập đoàn đã hoàn thành 55 - 57% kế hoạch năm. Tất cả các khối kinh doanh đều có lãi, đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động với mức thu nhập tăng trên 6 - 7% so với năm 2018. Cùng với đó, các chỉ tiêu tài chính của TKV đạt tốt, việc triển khai đề án tái cơ cấu giai đoạn 2017 – 2020 được thực hiện quyết liệt, đảm bảo tiến độ. Trong 6 tháng đầu năm 2019, Tập đoàn đã hoàn thành 55 - 57% kế hoạch Đáng chú ý, trong 6 tháng đầu năm, trước áp lực nhu cầu than ngày một tăng cao, Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị tập trung sản xuất ở nhịp độ cao, gia tăng tối đa sản lượng than khai thác và huy động mọi nguồn lực để chế biến, pha trộn than đáp ứng kịp thời nhu cầu than cho các hộ tiêu thụ đã ký cam kết. TKV luôn ý thức cao trách nhiệm cung ứng than cho nền kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Kết quả, 6 tháng đầu năm, sản lương than khai thác của Tập đoàn đạt 21,85 triệu tấn, bằng 54 % kế hoạch năm, tăng 1,42 triệu tấn so với cùng kỳ. Than tiêu thụ: 22,82 triệu tấn, bằng 54 % kế hoạch và tăng 4 % so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, than tiêu thụ hộ điện là 18,47 triệu tấn, đạt 55 % kế hoạch và tăng 16 % so với cùng kỳ, tương ứng tăng 2,5 triệu tấn. Cũng trong 6 tháng đầu năm, Tập đoàn đã giao cho EVN 2,8 triệu tấn than pha trộn giữa than sản xuất trong nước và than nhập khẩu, đạt 58% kế hoạch. Bên cạnh than, các lĩnh vực sản xuất điện, khoáng sản, vật liệu nổ công nghiệp đều đạt và vượt kế hoạch 6 tháng đề ra. Doanh thu toàn Tập đoàn 6 tháng đầu năm ước đạt 67.735 tỷ đồng, đạt 53 % kế hoạch năm, bằng 103,2 % so với cùng kỳ 2018. Lợi nhuận ước đạt 1,7 ngàn tỷ đồng, bằng 56 % kế hoạch năm. Nộp ngân sách Nhà nước thực hiện 9,5 ngàn tỷ đồng, bằng 55,3% kế hoạch; tăng 4,2% so với cùng kỳ. Tiền lương bình quân toàn Tập đoàn đạt 11,47 triệu đồng Cùng với đó,  6 tháng đầu năm 2019, TKV đã trồng cây, phủ xanh thêm 75 ha bãi thải, nâng tổng diện tích bãi thải được trồng cây, phủ xanh là 200 ha trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; duy trì hoạt động 50 trạm xử lý nước thải đã xây dựng đảm bảo quy chuẩn môi trường. Dự báo nhu cầu than tiêu thụ quý III và 6 tháng cuối năm vẫn ở mức rất cao, trong khi điều kiện sản xuất của Tập đoàn ngày một khó khăn hơn. Nhất là trong tháng 7 -  thời gian cao điểm mưa bão. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn và các đơn vị. Tuy nhiên, TKV sẽ tiếp tục chủ động, linh hoạt trong điều hành sản xuất trên cơ sở bám sát nhu cầu thị trường, tiếp tục phát huy và giữ vững nhịp độ sản xuất như hiện nay; đồng thời rà soát lại năng lực sản xuất các khu vực khai thác, cũng như của các đơn vị để huy động tăng năng suất, tăng tối đa sản lượng các sản phẩm khoáng sản, hoá chất, điện thương phẩm, nhất là sản lượng than khai thác, chế biến, trên tinh thần sẵn sàng đáp ứng, đảm bảo đủ nguồn hàng cho các hộ tiêu thụ đã ký kết hợp đồng với TKV. Tập đoàn phấn đấu 9 tháng đầu năm hoàn thành trên 75% kế hoạch với các chỉ tiêu cụ thể: Than NK sản xuất: 8 triệu tấn, phấn đấu ở mức cao hơn. Tiêu thụ than: 10 triệu tấn - Sản phẩm Alumina 350.000 tấn, tinh quặng đồng: 40 ngàn tấn, đồng tấm: 4.400 tấn, kẽm thỏi 2.500 tấn, tinh quặng sắt 40.000 tấn…  Sản xuất điện: 2,2 tỷ Kwh.Vật liệu nổ công nghiệp: Sản xuất thuốc nổ: 18 ngàn tấn; cung ứng thuốc nổ: 32 ngàn tấn, sản xuất và tiêu thụ Amon Nitrat: 44 ngàn tấn. Phát huy thành tích đã đạt được, TKV đưa ra 6 nhiệm vụ trọng tâm: Tập trung sản xuất, chế biến than đáp ứng yêu cầu thị trường; đặc biệt là đảm bảo than cho điện, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm khoáng sản chính như alumin, đồng, kẽm, phôi thép khi giá bán sản phẩm và thị trường đang tốt. Tăng cường cơ giới hóa tự động hóa, đồng bộ dây chuyền sản xuất với phương châm “làm than thông minh hơn, làm việc sáng tạo hơn” để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Siết chặt công tác quản lý an toàn, an ninh trật tự ranh giới mỏ. Tiếp tục thực hiện việc sắp xếp hợp lý hóa sản xuất theo hướng tinh gọn theo Đề án tái cơ cấu TKV giai đoạn 2017 – 2020. Tiếp tục thực hiện các chế độ chính sách khuyến khích, động viên cho người lao động, đặc biệt thợ lò, thợ kỹ thuật bậc cao. Song song với việc tập trung cho sản xuất, Tập đoàn chỉ đạo các đơn vị làm tốt công tác môi trường và công tác phòng, chống mưa bão. Đồng thời, tăng cường công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để giảm thiểu ảnh hưởng của chỉ số giá tiêu dùng tác động lên giá thành sản xuất đảm bảo cân đối lợi nhuận. Mặt khác, phải tiếp tục chủ động phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát, bảo vệ tài nguyên trong ranh giới đã được cấp phép khai thác và ranh giới quản lý tài nguyên... Hồng Thiết

Ngành hải quan đấu tranh chống gian lận xuất xứ

TĐKT - Chiều 19/7, Tổng cục Hải quan tổ chức họp báo chuyên đề về công tác đấu tranh chống gian lận xuất xứ của ngành hải quan. Quyền Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan Âu Anh Tuấn cho biết, qua công tác kiểm tra, giám sát, quản lý khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu và kiểm tra sau thông quan, thanh tra của cơ quan hải quan đã phát hiện các phương thức, thủ đoạn gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa. Họp báo chuyên đề công tác đấu tranh chống gian lận xuất xứ của ngành hải quan Đối với ghi nhãn hàng hóa, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa được sản xuất tại nước ngoài khi nhập khẩu về Việt Nam đã ghi sẵn dòng chữ “Made in Vietnam”, “sản xuất tại Việt Nam”, “xuất xứ Việt Nam”… hoặc trên sản phẩm và/hoặc bao bì sản phẩm, phiếu bảo hành thể hiện bằng tiếng Việt các thông tin về nhãn hiệu, địa chỉ trụ sở doanh nghiệp, trang web, trung tâm bảo hành tại Việt Nam để tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu. Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài, dán nhãn hàng hóa hoặc ghi xuất xứ hàng hóa được sản xuất tại nước ngoài hoặc không thể hiện nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa nhưng khi đưa ra lưu thông, tiêu thụ nội địa thì doanh nghiệp thay nhãn mới ghi “Made in Vietnam” hoặc “sản xuất tại Việt Nam” hoặc “xuất xứ Việt Nam”… Đáng lo ngại, các doanh nghiệp còn lợi dụng văn bản quy phạm pháp luật chưa bắt buộc dán nhãn phụ ngay tại khâu thông quan để nhập khẩu các mặt hàng có thương hiệu nổi tiếng, sau đó không dán nhãn phụ theo quy định mà thay đổi nhãn mác, bao bì, tên thương hiệu để tiêu thụ nội địa; nhập khẩu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu đã được đăng ký bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; lợi dụng loại hình quá cảnh để vận chuyển hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, giả mạo xuất xứ Việt Nam. Đối với xuất xứ hàng hóa, thủ đoạn thường gặp là doanh nghiệp Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp FDI) nhập khẩu nguyên vật liệu, bán thành phẩm, linh kiện, cụm linh kiện, phụ tùng để sản xuất, gia công, lắp ráp nhưng hàng hóa không trải qua công đoạn gia công, sản xuất hoặc chỉ trải qua công đoạn gia công, sản xuất, lắp ráp đơn giản không đáp ứng tiêu chí xuất xứ theo quy định nhưng khi xuất khẩu khai xuất xứ Việt Nam trên nhãn hàng hóa hoặc hợp thức hóa bộ hồ sơ để xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ của Việt Nam. Thủ đoạn nữa là thành lập nhiều công ty, mỗi công ty nhập khẩu một số cụm linh kiện, phụ tùng hoặc bộ phận tháo rời để lắp ráp hoặc bán cho công ty khác thực hiện gia công, lắp ráp công đoạn đơn giản không đáp ứng tiêu chí xuất xứ theo quy định nhưng ghi sản xuất tại Việt Nam hoặc xuất xứ Việt Nam để tiêu thụ tại thị trường trong nước nhằm đánh lừa người tiêu dùng hoặc xuất khẩu. Các đối tượng vi phạm cũng lợi dụng hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài chuyển tải qua Việt Nam để hợp thức hóa hồ sơ hoặc xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ sau đó xuất khẩu sang nước thứ ba; sử dụng C/O giả hoặc C/O không hợp lệ, khai sai xuất xứ hàng hóa để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt theo các Hiệp định thương mại tự do khi làm thủ tục hải quan. Đặc biệt, trước diễn biến khó lường của cuộc chiến tranh thương mại giữa các nước lớn, để phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước ngoài trung chuyển qua Việt Nam gian lận, giả mạo xuất xứ Việt Nam để xuất khẩu hoặc tiêu thụ tại thị trường nội địa gây thiệt hại cho người tiêu dùng, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Tổng cục Hải xây dựng văn bản chỉ đạo chung cho các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các đơn vị có liên quan trong Tổng cục nhằm tăng cường chống gian lận, giả mạo xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, ghi nhãn hàng hóa. Trong đó quy định cụ thể trách nhiệm, sự phối hợp của các đơn vị nghiệp vụ thuộc Tổng cục Hải quan trong việc thu thập, phân tích thông tin, xác định mặt hàng, doanh nghiệp có rủi ro cao nghi vấn gian lận, giả mạo xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp để áp dụng các biện pháp kiểm soát phù hợp; trách nhiệm của Cục Hải quan các tỉnh, thành phố trong việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Hải quan sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra xuất xứ đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc nhưng trên nhãn hàng hóa thể hiện “Made in Vietnam” tại công văn số 3083/TCHQ-GSQL ngày 20/5/2019; tăng cường kiểm tra hoạt động tạm nhập, tái xuất tại công văn số 4307/TCHQ-GSQL ngày 28/6/2019. Đồng thời, xem xét chuyển luồng kiểm tra thực tế hàng hóa đối với nhóm mặt hàng này để kiểm soát chặt chẽ xuất xứ hàng hóa. Đại diện ngành hải quan cho hay, hiện nay các nước trong khu vực và trên thế giới đã có những chính sách thay đổi lớn như tăng thuế, áp dụng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước, trong hoạt động thương mại, đặc biệt các cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…. có tác động rất lớn đến nền kinh tế của Việt Nam. Mặt khác Việt Nam đã và đang chịu tác động bởi các Hiệp định thương mai tự do FTA, do đó hàng hóa từ các nước bị áp thuế suất cao có khả năng sẽ tìm cách chuyển tải bất hợp pháp vào Việt Nam, giả mạo hợp thức hóa xuất xứ Việt Nam sau đó xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản… để lẩn tránh mức thuế suất cao do các nước này áp dụng. Hành vi này dẫn đến nguy cơ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị các nước điều tra, áp thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ, thuế trợ cấp ở mức rất cao, gây thiệt hại cho các nhà sản xuất Việt Nam, mất uy tín trên thị trường quốc tế hoặc bị hạn chế xuất khẩu vào các thị trường này nếu bị nước nhập khẩu phát hiện và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Về phương hướng, giải pháp, đại diện cơ quan hải quan nhấn mạnh, toàn ngành đã xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện quy trình kiểm tra, giám sát, kiểm soát hàng hóa có nguy cơ gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa, chuyển tải bất hợp pháp trong đó quy định cụ thể trách nhiệm, sự phối hợp của các đơn vị nghiệp vụ thuộc Tổng cục trong việc thu thập, phân tích thông tin, xác định mặt hàng, doanh nghiệp có rủi ro cao nghi vấn gian lận, giả mạo xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp để áp dụng các biện pháp kiểm soát phù hợp; trách nhiệm của Cục Hải quan các tỉnh, thành phố trong việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Các Cục Hải quan các tỉnh, thành phố tăng cường công tác kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu khi làm thủ tục hải quan nhằm ngăn chặn tình trạng gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa, chuyển tải bất hợp pháp. Cơ quan Hải quan cũng mở rộng điều tra các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu mặt hàng gỗ ván ép, gỗ dán có số lượng tăng đột biến, bên cạnh đó tiếp tục điều tra xác minh làm rõ hành vi vi phạm đối với các công ty trên để xử lý theo theo quy định pháp luật; tiếp tục đẩy mạnh thu thập thông tin, kiểm tra đối với các lô hàng có dấu hiệu nghi vấn giả mạo C/O, đối với một số mặt hàng trọng điểm có kim ngạch xuất, nhập khẩu lớn… Cơ quan Hải quan cũng đề nghị Bộ Công thương, VCCI siết chặt công tác quản lý cấp giấy chứng nhận xuất xứ theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 31/2018/NĐ-CP đối với trường hợp qua kết quả kiểm tra, thanh tra xác định hành vi gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa, chuyển tải bất hợp pháp. Chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường công tác kiểm tra sản xuất hàng hoá xuất khẩu nhất là đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu, bán thành phẩm về sản xuất thành phẩm để xuất khẩu. Đồng thời kiến nghị với Bộ Tài chính, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường quản lý, ngăn chặn tình trạng xác nhận khống nguyên liệu đầu vào cấu thành sản phẩm xuất khẩu nhằm ngăn chặn việc gian lận xuất xứ. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền tới người dân, doanh nghiệp về hành vi, thủ đoạn, tác hại, hậu quả của gian lận thương mại đối với sản xuất trong nước, cũng như hoạt động xuất khẩu. Đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước cũng như bảo vệ thương hiệu hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hồng Thiết

Nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp

TĐKT - Ngày 20/7, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã (KTTT, HTX) trong lĩnh vực nông nghiệp. Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển KTTT, HTX dự và chỉ đạo Hội nghị. Cùng dự, có: Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường; Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo; lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, Ủy ban của Quốc hội, lãnh đạo của các tỉnh, thành phố trên cả nước. Toàn cảnh Hội nghị Hiện nay cả nước có khoảng 23.000 HTX, trong đó số lượng HTX nông nghiệp chiếm hơn 60%, do vậy, Hội nghị có ý nghĩa quan trọng, hướng tới tổng kết toàn quốc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về phát triển KTTT nói chung trong thời gian tới. Báo cáo tại Hội nghị cho biết, sau 15 năm triển khai Nghị quyết của Trung ương, các Chỉ thị của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, kinh tế hợp tác và HTX có sự phát triển mạnh mẽ, ấn tượng. Tính đến hết ngày 30/6/2019, cả nước đã có 14.502 HTX nông nghiệp, trong đó có tới 55% hoạt động hiệu quả (trước 2015 chỉ có khoảng 15% tổng số HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả). Các HTX không chỉ giảm chi phí sản xuất của các hộ gia đình thành viên mà còn làm tăng thêm giá trị thu nhập 14%/năm. Các địa phương cũng đã xử lý dứt điểm những HTX hoạt động yếu kém. Theo đó, đã giải thể được 3.600 đơn vị, chỉ còn khoảng 600 HTX yếu kém đang đợi giải thể hoặc cải tổ trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển HTX cũng tăng mạnh qua từng năm. Nếu từ năm 2002 trở về trước, mỗi năm cả nước chỉ thành lập mới được 200 - 300 HTX thì con số này từ năm 2017 trở lại đây là 2.000 HTX/năm. Nếu như năm 2003, doanh thu bình quân của HTX chỉ đạt 461 triệu đồng/năm thì con số này năm 2018 là 1,61 tỷ đồng. Tiềm năng, nội lực của HTX được nâng lên, đặc biệt là trình độ quản lý, khoa học công nghệ, sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn. Nhiều HTX đã thu hút được cán bộ chuyên môn, cán bộ trẻ đã qua đào tạo về làm việc và đảm nhận được vai trò kết nối giữa hộ thành viên với doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều mô hình mới, đa dạng, có liên kết với doanh nghiệp để tạo chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Tiêu biểu: Mô hình HTX chuyên ngành (cây, con) dẫn dắt, hỗ trợ kinh tế hộ thành viên phát triển sản xuất, tham gia chuỗi giá trị đáp ứng yêu cầu thị trường; mô hình HTX đảm nhiệm nhiều khâu trong chuỗi giá trị; mô hình tích tụ, tập trung đất đai thông qua HTX để ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho thu nhập cao; mô hình doanh nghiệp trong cùng chuỗi là thành viên HTX... Tuy nhiên, quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết còn chậm, ở nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Công tác quản lý nhà nước còn chồng chéo. Số cán bộ quản lý HTX nông nghiệp đã qua đào tạo trình độ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 46%). Số lượng HTX đã phát triển về lượng và chất nhưng chưa đồng đều và mới tập trung chủ yếu là cung cấp dịch vụ đầu vào. Bên cạnh đó, năng lực nội tại của nhiều HTX còn yếu, thiếu nguồn lực cho đầu tư sản xuất kinh doanh; ở nhiều địa phương, công tác quản lý nhà nước đối với HTX NN còn chồng chéo; thiếu nguồn lực, chính sách hỗ trợ HTX... Để khắc phục hạn chế của mô hình HTX kiểu cũ và phát huy lợi ích từ mô hình mới, phát biểu tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nâng cao nhận thức hơn nữa về vai trò quan trọng của KTTT, HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng; tổ chức triển khai quyết liệt, có hiệu quả các chủ trương, cơ chế, chính sách đã ban hành nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả KTTT, HTX trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh truyền thông cho các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò tất yếu của KTTT mà nòng cốt là các HTX đối với sản xuất nông nghiệp, bản chất HTX kiểu mới; các mô hình HTX hiệu quả gắn với chuỗi tiêu thụ nông sản, HTX nông nghiệp do thanh niên khởi nghiệp thành công, HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tạo điều kiện để các HTX tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Phó Thủ tướng giao các bộ, ngành, địa phương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện cán bộ và thành viên HTX gắn với đề án đào tạo nghề cho khu vực nông thôn theo hướng tạo nguồn cán bộ quản lý chuyên nghiệp cho HTX. Tiếp tục nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả, giúp cho kinh tế hộ phát triển; tạo điều kiện hình thành những mô hình liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp – HTX - nông dân. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những điển hình tiên tiến, cách làm sáng tạo; phổ biến, triển khai nhân rộng các mô hình HTX kiểu mới có hiệu quả và sức lan tỏa cao, đồng thời chuẩn bị tổng kết Đề án phát triển 15.000 HTX, Liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả vào năm 2020. Cần đẩy mạnh phát triển KTTT trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Phát triển các HTX sản xuất sản phẩm chất lượng cao, có thương hiệu, phục vụ xuất khẩu. Tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng đưa ra các yêu cầu cụ thể về ban hành các chính sách mới phù hợp với thực tế, khuyến khích hỗ trợ phát triển HTX và với các bộ ngành, địa phương  để tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX. Trên cơ sở kết quả của Hội nghị này và báo cáo của các địa phương, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW; gửi sớm cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì việc soạn dự thảo Nghị quyết mới để Chính phủ trình Bộ Chính trị. Phó Thủ tướng cũng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, các bộ, ngành để soạn thảo Sách trắng về hợp tác xã. Để biểu dương sự cố gắng của các hợp tác xã trong 15 năm qua, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng ý chủ trương giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Hội Nông dân Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Lễ tôn vinh các hợp tác xã tiêu biểu trong việc thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW. Nguyệt Hà

Hải quan Hà Nội thu ngân sách đạt cao nhất trong 5 năm qua

TĐKT - 6 tháng đầu năm 2019, Cục Hải quan Hà Nội thu ngân sách nhà nước (NSNN) đạt kết quả cao nhất trong 5 năm qua. Cụ thể, hết tháng 6, toàn Cục thu ngân sách được 10.760 tỷ đồng, đạt hơn 50% chỉ tiêu dự toán, tăng 7,8% so với cùng kỳ 2018. Với đà tăng trưởng đó, năm 2019, Hải quan Hà Nội phấn đấu thu vượt 5% so với chỉ tiêu dự 21.500 tỷ đồng. Để có được kết quả khả quan đó ngay sau hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2019, Cục Hải quan Hà Nội đã khẩn trương ban hành công văn số 476/HQHN-TXNK thực hiện Chỉ thị số 723/CT-TCHQ về thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tạo thuận lợi thương mại, chống thất thu trong triển khai nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2019, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị và yêu cầu định kỳ báo cáo kết quả thực hiện. Gửi văn bản đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý các khu công nghiệp trên địa bàn TP Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình để phối hợp hướng dẫn các dự án đầu tư mới về làm thủ tục tại địa bàn. Cán bộ Hải quan Hà Nội hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện thủ tục nhập khẩu. Tính đến hết tháng 6/2019, đơn vị đã làm thủ tục thông quan cho khoảng 608.000 tờ khai (bằng 107,1% cùng kỳ năm 2018), tổng kim ngạch 42,4 tỷ USD (bằng 116,5% cùng kỳ năm 2018). Cục Hải quan Hà Nội cũng làm thủ tục cho hơn 6 triệu lượt hành khách xuất nhập cảnh (bằng 166,5% cùng kỳ năm 2018) và 36.016 chuyến bay (bằng 112,3% cùng kỳ năm 2018). Nguyên nhân tăng thu NSNN được Cục Hải quan Hà Nội chỉ ra là do kim ngạch xuất nhập khẩu có thuế tăng. Trong đó, số thu tăng so với cùng kỳ 2018 chủ yếu là do thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt tăng do làm thủ tục nhập khẩu máy móc, thiết bị cho các dự án đầu tư và các doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bắt đầu quay lại làm thủ tục.  Một số nhóm mặt hàng tăng mạnh cả về kim ngạch và số thu. Trong đó, nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 3,3% về kim ngạch nhập khẩu có thuế và tăng 7,8% về số thu (tăng 131 tỷ đồng). Kết quả có được do Cục đã tổ chức hướng dẫn và tạo thuận lợi cho các dự án đầu tư về làm thủ tục như: Dự án Tuyến đường sắt đô thị thí điểm TP Hà Nội (đoạn Nhổn – Ga Hà Nội); chăn nuôi gà giống trứng và gà đẻ trứng thương phẩm để sản xuất trứng gà sạch; xây dựng nhà máy nước mặt sông Hồng; xây dựng nhà máy nước mặt sông Đuống; nhà máy sản xuất thiết bị điện tử thông minh… Nhóm mặt hàng ô tô nguyên chiếc tăng mạnh trở lại (tăng 100 tỷ đồng so với cùng kỳ 2018) do việc tạo thuận lợi để Công ty trách nhiệm hữu hạn General Mortor Việt Nam và Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất và kinh doanh VINFAST về làm thủ tục hải quan. Tính đến 30/6 đã có hơn 300 chiếc ô tô nhập khẩu, trong khi cùng kỳ 2018 không phát sinh. Bên cạnh đó, tình hình thu NSNN tại Cục Hải quan Hà Nội cũng đối mặt với việc một số nhóm mặt hàng giảm cả về kim ngạch và số thu như: Nguyên phụ liệu thuốc lá; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; linh kiện ô tô; linh kiện và phụ tùng xe máy do các doanh nghiệp giảm việc nhập khẩu. Cùng với việc tạo thuận lợi thương mại, thu hút doanh nghiệp về làm thủ tục, công tác chống thất thu NSNN cũng được Cục Hải quan Hà Nội chú trọng. Đảng ủy, Lãnh đạo Cục Hải quan Hà Nội luôn quán triệt, chỉ đạo các đơn vị, cán bộ, công chức nêu cao tinh thần cảnh giác, vận dụng kinh nghiệm công tác và kỹ năng nghiệp vụ nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan. Công tác kiểm tra sau thông quan được triển khai chặt chẽ, kết quả trong 6 tháng đơn vị đã tổ chức kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan 43/140 doanh nghiệp, đạt 30,7% chỉ tiêu. Dù số cuộc kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan không phải là nhiều nhưng tỷ lệ phát hiện vi phạm đạt tuyệt đối, phát hiện 43 doanh nghiệp vi phạm; kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan 261 trường hợp, phát hiện 148 trường hợp vi phạm. Số thuế thu được từ công tác kiểm tra sau thông quan đạt khoảng 307 tỷ đồng, bằng 236,5% chỉ tiêu (bằng 230,4% so với cùng kỳ năm 2018). Trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, 6 tháng đầu năm đơn vị đã phát hiện, xử lý 524 vụ vi phạm, gồm: 18 vụ ma túy; 7 vụ chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; khởi tố 1 vụ và đề nghị Công an Hà Nội khởi tố 2 vụ; phát hiện 499 vụ vi phạm hành chính về hải quan với tổng số tiền phạt thu nộp ngân sách đạt 45,3 tỷ đồng. Để hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách năm 2019, Cục Hải quan Hà Nội xác định tiếp tục bám sát triển khai Chỉ thị số 723/CT-TCHQ ngày 30/01/2019 của Tổng cục Hải quan về thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tạo thuận lợi thương mại, chống thất thu trong triển khai nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2019. Tiếp tục, đề xuất tham mưu về việc chống thất thu ngân sách thông qua việc kiểm soát chặt việc khai báo tên hàng, mã số, trị giá, miễn thuế, hoàn thuế, không thu thuế... của doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục hải quan. Bên cạnh đó tại nhiều chi cục hải quan các giải pháp cụ thể tạo thuận lợi, thu hút doanh nghiệp về làm thủ tục đang được tích cực triển khai. La Giang

Khai mạc Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La năm 2019

TĐKT - Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La năm 2019 đã chính thức khai mạc sáng 19/7, và sẽ kéo dài liên tục đến hết ngày 23/7/2019, tại siêu thị Big C Thăng Long, Hà Nội, các siêu thị GO! và Big C khu vực miền Bắc. Nghi thức cắt băng khai mạc Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La 2019 Đây là lần thứ hai sự kiện này được UBND tỉnh Sơn La phối hợp cùng Big C Thăng Long (thuộc Tập đoàn Central Group Việt Nam) và các sở, ngành liên quan tổ chức tổ chức, nhằm quảng bá, kích cầu, tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho nông sản an toàn của tỉnh Sơn La, trong đó nhãn là sản phẩm chủ lực. Ông Vũ Đức Thuận, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh Sơn La cho biết: Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La năm 2019 thu hút sự tham gia của 21 doanh nghiệp, hợp tác xã, với quy mô 30 gian hàng, giới thiệu đến người dân Thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành lân cận các mặt hàng nông sản an toàn của tỉnh Sơn La đạt Chứng nhận VietGAP, GobalGAP, như: Nhãn, na, bơ sáp, chuối tây Mộc Châu, bí xanh Mộc Châu, mướp hương Mộc Châu, thanh long ruột đỏ, xoài, đậu hà lan Mộc Châu, tỏi cô đơn Mộc Châu, dưa leo Mộc châu, cà chua Mộc Châu, rau cải mèo Mộc Châu, cải bắp Mộc Châu, táo mèo, ổi, mận, chanh leo, chè tà xùa… “Tỉnh Sơn La hy vọng qua hệ thống của Big C Việt Nam, sản phẩm nông sản an toàn tỉnh Sơn La nói chung và sản phẩm nhãn nói riêng sẽ được nhiều người dùng trong nước biết đến. Qua đó, kích cầu tiêu dùng, góp phần tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho nông sản an toàn của tỉnh Sơn La, giúp bà con nông dân có thu nhập kinh tế, ổn định đời sống các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La”, ông Vũ Đức Thuận nhấn mạnh. Khách tham quan gian hàng giới thiệu sản phẩm của tỉnh Sơn La Hiện nay, Sơn La có 15.090 ha nhãn, tăng 2,91 lần so với năm 2015, bằng 102,9% so với năm 2018; ước sản lượng nhãn năm 2019 đạt 73.000 tấn, tăng 1,81 lần so với năm 2015, bằng 113,7% so với năm 2018. Các giống nhãn gồm: Nhãn lồng Hưng Yên, giống nhãn chín sớm (PH-S99-1.1, PH-S99-2.1, chín muộn (PH-M99-1.1, PH-M99-2.1…) cho năng suất cao đạt trên 12 tấn/ha. Tỉnh Sơn La đã triển khai xây dựng các vùng sản xuất áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến (VIETGAP, GLOBALGAP, ORGANIC…) trong sản xuất, chế biến, bảo quản an toàn cho quả nhãn. Năm 2019, sản phẩm nhãn tươi dự kiến xuất khẩu đạt 8.100 tấn; Giá trị hàng hóa tham gia xuất khẩu ước đạt 8,8 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chính: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, UAE... Tổng lượng sản phẩm nhãn dự kiến chế biến xuất khẩu là 1.720 tấn, giá trị hàng hóa tham gia xuất khẩu ước đạt trên 1,8 triệu USD. Thị trường xuất khẩu: Hàn Quốc, Trung Quốc… Ở thị trường trong nước, hiện nay, Sơn La đã liên kết với các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Lào Cai, Bắc Giang, Lạng Sơn… thực hiện kế hoạch tiêu thụ nhãn tại theo các kênh phân phối trong nước (các chợ đầu mối, chợ truyền thống bán lẻ). Dự kiến sản lượng tiêu thụ khoảng 35.000 - 40.000 tấn. Đại diện Tập đoàn Central Group Việt Nam cho biết: “Sự kiện Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La năm 2019 diễn ra ngày hôm nay, tại Big C Thăng Long, một lần nữa tái khẳng định cam kết của chúng tôi về việc hỗ trợ hàng Việt nói chung và sản phẩm của tỉnh Sơn La nói riêng”. Đại diện Big C ký kết thỏa thuận hợp tác thu mua nông sản trực tiếp với Hợp tác xã của tỉnh Sơn La Thời gian qua, Big C đã tích cực phối hợp với tỉnh Sơn La và các sở ban ngành trong tỉnh tổ chức hàng loạt chương trình quảng bá nông sản an toàn của tỉnh Sơn La như: Tuần lễ Nhãn và Nông sản an toàn tỉnh Sơn La năm 2018; Tuần lễ Dâu tây và  Nông sản an toàn tỉnh Sơn La; Tuần lễ cá sông Đà Hòa Bình và Sơn La... Bên cạnh đó, Big C cũng thường xuyên tổ chức các Chương trình khuyến mại, nhằm quảng bá, xây dựng thương hiệu cũng như tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho các mặt hàng nông sản an toàn của tỉnh Sơn La đạt Chứng nhận VietGAP,GobalGAP. Phương Thanh

Ngành du lịch Việt Nam thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ được giao

TĐKT – 6 tháng đầu năm 2019, Tổng cục Du lịch thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và có nhiều nỗ lực, tổ chức triển khai nhiều hoạt động và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chánh Văn phòng Tổng cục Du lịch Vũ Quốc Trí Chánh Văn phòng Tổng cục Du lịch Vũ Quốc Trí cho biết, trong 6 tháng, ngành du lịch đã thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khi đã triển khai các giải pháp duy trì tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế, nội địa, đạt mục tiêu theo kịch bản tăng trưởng của ngành du lịch năm 2019. Song song với đó, Tổng cục Du lịch cũng đã hoàn thiện và báo cáo Bộ trình Thủ tướng Chính phủ đề án “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” và “Phát triển du lịch nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”. Bên cạnh đó, ngành du lịch đã đăng cai tổ chức thành công Diễn đàn Du lịch ASEAN ATF 2019 với hơn 50 sự kiện do Việt Nam chủ trì hoặc phối hợp. Hoạt động xúc tiến quảng bá chủ động, chuyên nghiệp hơn với điểm nhấn là Hội chợ Travex tại Hạ Long với 351 gian hàng, 340 người mua, 640 người bán và 120 cơ quan báo chí quốc tế tham gia. Hơn hết, Tổng cục Du lịch cũng tích cực quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên; tham gia 6 hội chợ du lịch quốc tế; tổ chức 8 roadshow tại các nước ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc và mở văn phòng đại diện xúc tiến du lịch đầu tiên tại Hàn Quốc theo mô hình liên kết công - tư. Ngành du lịch còn triển khai các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng xếp hạng nhóm chỉ số Mức độ ưu tiên cho ngành du lịch; ban hành bộ tài liệu hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương để có cách hiểu đúng về các bộ chỉ số. Đơn cử, trong 6 tháng đầu năm, ngành du lịch triển khai 4 đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: Ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao hiệu quả của công tác quảng bá, xúc tiến du lịch; Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch. Công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực lữ hành, hướng dẫn viên, cơ sở lưu trú du lịch được tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Tổng cục đã hỗ trợ các địa phương: Cao Bằng, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa… tổ chức các sự kiện để xúc tiến, quảng bá du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch, quản lý điểm đến. Các tỉnh, thành phố đã chủ động xúc tiến đầu tư và quảng bá du lịch trên địa bàn tỉnh gắn với liên kết trong vùng và với các tỉnh thành khác. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng (hệ thống đường cao tốc, cảng biển, sân bay) đưa vào khai thác góp phần tích cực phát triển du lịch. Đã có sự chủ động và nỗ lực của hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp trong đầu tư các cơ sở vật chất kỹ thuật có quy mô và tiêu chuẩn quốc tế nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, đa dạng hóa sản phẩm du lịch phục vụ khách trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, Chánh văn phòng Vũ Quốc Trí cũng cho biết bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động du lịch thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế cần tập trung khắc phục như công tác bảo đảm an ninh, an toàn, vệ sinh môi trường vẫn còn nhiều thiếu sót, rác thải ô nhiễm, tai nạn ảnh hưởng đến an toàn của khách du lịch tại các điểm du lịch còn xảy ra, đặc biệt vào các dịp lễ hội, mùa cao điểm du lịch; ý thức chấp hành pháp luật của một số tổ chức, cá nhân trong hoạt động du lịch chưa cao. Phát huy những thành tích đã đạt được, trong 6 tháng cuối năm 2019, du lịch Việt Nam tiếp tục duy trì, thúc đẩy tăng trưởng về khách du lịch quốc tế và nội địa. Dự kiến năm 2019, ngành du lịch sẽ đón, phục vụ khoảng 17,5 - 18 triệu lượt khách quốc tế, 85 triệu lượt khách nội địa; tổng thu từ khách du lịch phấn đấu đạt 700.000 tỷ đồng. Trong nửa cuối năm 2019, Tổng cục Du lịch tập trung mọi nỗ lực và triển khai đồng bộ các giải pháp xúc tiến thu hút khách du lịch, hoàn thành chỉ tiêu đề ra trong năm 2019. Sẽ có 6 văn bản, đề án được hoàn thành: Kế hoạch phát triển du lịch khu vực tam giác phát triển Campuchia – Lào - Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ các tỉnh biên giới phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 06; Đề án liên kết chuỗi giá trị đầu vào của các ngành hình thành sản phẩm du lịch; Đề án khai thác và phát huy các giá trị, di sản văn hóa, nghệ thuật phục vụ phát triển du lịch; Quy chế quản lý condotel. Đồng thời tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Tổ chức thành công lễ vinh danh các doanh nghiệp du lịch hàng đầu tạo động lực lan tỏa và tăng cường năng lực cạnh tranh. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý điểm đến, nâng cao chất lượng dịch vụ lữ hành, lưu trú, vận chuyển du lịch, hướng dẫn viên. Bên cạnh đó còn phối hợp với các địa phương tổ chức hoạt động du lịch: ITE TP Hồ Chí Minh; Năm Du lịch Quốc gia 2019 tại Khánh Hòa; chuẩn bị Năm Du lịch Quốc gia 2020 tại Ninh Bình; chủ động quảng bá sớm cho sự kiện thể thao Giải đua xe F1 và Năm ASEAN 2020 Việt Nam với vai trò Chủ tịch. Hồng Thiết

Bộ Tài chính thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành

TĐKT - 6 tháng đầu năm 2019, Bộ Tài chính nỗ lực thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của ngành đã được Đảng và Nhà nước giao, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, về tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước (NSNN), 6 tháng đầu năm có 3 khoản thu trực tiếp từ hoạt động sản xuất - kinh doanh là thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; tiến độ thu từ tháng 5 đến nay tuy có cao hơn cùng kỳ nhưng có dấu hiệu chậm lại và thấp hơn so với mức bình quân chung tiến độ thu NSNN. Trước thực trạng này, các đơn vị chuyên môn của Bộ Tài chính đã kịp thời đánh giá, phân tích nguyên nhân dẫn đến các khoản thu có dấu hiệu chậm lại và đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục trong thời gian tới. Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu tại Hội nghị Đối với vấn đề giải ngân vốn ODA, Bộ Tài chính đã tổ chức Chuyên đề với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, các chủ dự án và 5 nhà tài trợ. Chuyên đề đã đánh giá khách quan, đưa ra các vướng mắc, trên cơ sở đó Bộ Tài chính đã có báo cáo Thủ tướng Chính Phủ. Bộ Tài chính cho rằng, để giải quyết vấn đề này cần có sự vào cuộc đồng bộ rất kịp thời của các bộ, ngành và sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ như điều chỉnh dự án đầu tư; những vấn đề bố trí dự toán và điều chỉnh dự toán giải ngân vốn ODA. Theo đó, trong quy định hiện nay và theo đánh giá của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa nhà nước còn chậm. Về phía mình, Bộ Tài chính tham mưu cho Chính phủ về cơ chế chính sách, thời gian qua đã có bước hoàn thiện khá đồng bộ và đã giải quyết được nhiều khó khăn vướng mắc trong cổ phần hóa. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp là nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước phải thực hiện. Vấn đề khó và vướng về đất đai trong cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước lớn thì phải có sự xác định của địa phương, của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước đối với doanh nghiệp Trung ương, Bộ Tài chính là cơ quan tổng hợp để phê duyệt các phương án trong các hồ sơ.  Ngoài ra, các đơn vị chuyên môn của Bộ Tài chính đang rà soát, đánh giá và kiến nghị Chính phủ sửa đổi các Nghị định có liên quan như Nghị định 126; Nghị định 132; Nghị định 167. Phát huy thành tích đã đạt được, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đề nghị ngành Tài chính tập trung triển khai các nhiệm vụ cụ thể: Một là, tập trung rà soát, sửa đổi bổ sung, triển khai thực hiện có hiệu quả, thực chất các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục rà soát, bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; mở rộng phạm vi hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử; đẩy mạnh phối hợp thu qua ngân hàng; tăng tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Hai là, cơ quan Thuế, Hải quan tăng cường công tác quản lý thu, nắm chắc nguồn thu, chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp quản lý thu ngân sách phù hợp với từng lĩnh vực, địa bàn, đối tượng thu; phấn đấu tăng thu khoảng 5% so với dự toán. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế; tập trung xử lý, thu hồi nợ đọng thuế; phấn đấu số nợ thuế đến ngày 31/12/2019 giảm xuống dưới 5% so với số thực thu NSNN năm 2019. Đôn đốc thu kịp thời các khoản phải thu theo kiến nghị của cơ quan kiểm toán, kết luận của cơ quan thanh tra và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Ba là, các bộ, ngành, địa phương quản lý chi NSNN chặt chẽ, theo dự toán. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công (cả vốn trái phiếu Chính phủ và vốn vay nước ngoài). Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng; không để phát sinh mới nợ đọng xây dựng cơ bản. Ngoài ra, các địa phương chủ động sử dụng dự phòng, dự trữ và nguồn lực tại chỗ để chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, các nhiệm vụ cấp thiết phát sinh theo quy định. Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là đối với các hiệp định vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo dư nợ công trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định. Năm là, kiểm soát lạm phát năm 2019, đảm bảo tốc độ tăng CPI dưới 4%. Thực hiện tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giá. Công khai thông tin về giá, điều hành giá để tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển đồng bộ thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, bảo hiểm; phát triển và nâng cao chất lượng thị trường dịch vụ tài chính; tiếp tục hoàn thiện thị trường kế toán, kiểm toán. Sáu là, đẩy mạnh thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn. Bảy là, tích cực triển khai đổi mới sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế tinh gọn, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII). Tập trung xây dựng, hoàn thiện cơ chế hoạt động tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII); thúc đẩy lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN; hoàn thiện khung khổ pháp lý chuyển đơn vị sự nghiệp công thành công ty cổ phần. Tám là, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 26/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 8/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật trong việc chấp hành pháp luật về NSNN. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN, tài sản công. Thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra, kiểm toán. Chín là, thực hiện đồng bộ các giải pháp hội nhập và hợp tác tài chính quốc tế. Tiếp tục thực hiện lộ trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ các FTA đã ký. Chủ động đánh giá các tác động của các hiệp định thương mại tự do đến thu NSNN để chủ động giải pháp điều hành. Đặc biệt, các bộ, ngành, địa phương tập trung hướng dẫn, chỉ đạo triển khai xây dựng kế hoạch và dự toán NSNN ở bộ, ngành, địa phương mình; bám sát mục tiêu, định hướng, yêu cầu kế hoạch tài chính 5 năm 2016 - 2020 và của năm 2020 để xây dựng dự toán NSNN năm 2020 và kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm 2020 - 2022, đảm bảo tích cực, đáp ứng tốt các mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại NSNN theo đúng định hướng đã đề ra. Hồng Thiết

Công ty Du lịch Việt lần thứ 6 liên tiếp được tôn vinh tại giải thưởng Du lịch Việt Nam

TĐKT - Tối 15/7, tại Lễ trao giải thưởng Du lịch Việt Nam năm 2019 do Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch tổ chức, Công ty Cổ phần Truyền thông Du lịch Việt (Viet Media Travel) đã vinh dự nhận danh hiệu “10 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đưa khách du lịch ra nước ngoài tốt nhất Việt Nam năm 2019” với vị trí thứ 2 trong tiêu chí đánh giá. Ông Trần Văn Long, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần truyền thông Du lịch Việt đại diện doanh nghiệp nhận danh hiệu Top 2 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đưa khách du lịch ra nước ngoài tốt nhất Việt Nam năm 2019 Được vinh danh ở vị trí Top 2 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế đưa khách du lịch ra nước ngoài tốt nhất Việt Nam năm 2019, ông Trần Văn Long, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần truyền thông Du lịch Việt cho biết: “Chúng tôi rất vinh dự và tự hào khi đây là lần thứ 6 liên tiếp Du lịch Việt được vinh danh tại giải thưởng cao quý này. Giải thưởng không chỉ ghi nhận những nỗ lực của tập thể đội ngũ lãnh đạo và nhân viên công ty đã cố gắng trong năm qua mà còn mang lại niềm vui và vinh dự cho khách hàng khi Du lịch Việt là một công ty tư nhân nhiều năm liền nhận giải thưởng lớn. Thương hiệu của Công ty Cổ phần truyền thông Du lịch Việt một lần nữa được tiếp tục khẳng định trên thị trường du lịch Việt Nam”. Nét khác biệt để Du lịch Việt có được liên tiếp những thành công là phong cách phục vụ tận tâm, chia sẻ và phục vụ khách hàng bằng cả trái tim. Hơn nữa giá cả của Du lịch Việt luôn hợp lý trên thị trường, được đông đảo khách hàng tin tưởng và lựa chọn. Hàng năm công ty đưa hàng trăm ngàn khách du lịch ra nước ngoài. Trên hành trình phát triển thương hiệu 11 năm qua, Du lịch Việt tự hào là một trong 10 công ty lữ hành hàng đầu Việt Nam, chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ du lịch cho du khách đến với các danh thắng trên mọi miền đất nước và thế giới. Du lịch Việt là công ty du lịch 8 năm liền được ghi nhận là Công ty lữ hành hàng đầu TP Hồ Chí Minh, 6 năm liền là Công ty lữ hành hàng đầu Việt Nam; duy nhất nhận giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2014 và 2018.   Nắm bắt xu thế phát triển tất yếu của ngành công nghiệp không khói và sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ 4.0, Du lịch Việt đã có nhiều ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản trị hệ thống để nâng cao năng lực, chất lượng dịch vụ tốt nhất. Đồng thời, việc phát triển mạnh mẽ mạng lưới đối tác quốc tế cũng giúp mang lại sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn với giá cả hợp lý cho khách hàng. Nhân sự kiện Du lịch Việt vinh dự nhận giải thưởng lần này, Công ty triển khai chương trình tri ân khách hàng đặc biệt: Giảm trực tiếp 30 – 50% dịch vụ du lịch trong và ngoài nước khi đăng ký từ ngày 15 – 20/07/2019. Chương trình được áp dụng cho khách hàng đăng ký các tour du lịch dành cho khách lẻ. Các tour được hưởng ưu đãi trong chương trình lần này gồm: Tour Phú Quốc 3 ngày 2 đêm, giá bán từ 4.299.000 đồng (giảm trực tiếp 200.000 đồng); tour Hà Nội - Hạ Long - Sapa - Tràng An - Bái Đính 6 ngày 5 đêm giá bán từ 7.799.000 đồng (giảm trực tiếp 300.000 đồng); Đà Nẵng - Hội An - Bà Nà - Phong Nha - Huế 5 ngày 4 đêm giá bán từ 6.399.000 đồng (giảm trực tiếp 300.000 đồng); tour Thái Lan 5 ngày 4 đêm Bangkok - Pattaya giá bán từ 5.999.000 đồng (giảm trực tiếp 200.000 đồng); tour Singapore - Malaysia 6 ngày 5 đêm giá bán 8.999.000 đồng (giảm trực tiếp 200.000); tour Trung Quốc 6 ngày 5 đêm Bắc Kinh - Thượng Hải - Hàng Châu - Tô Châu - Trương Gia Giới - Phượng Hoàng Cổ Trấn giá bán từ 14.999.000 (giảm trực tiếp 500.000 đồng); tour Hàn Quốc 5 ngày 4 đêm Seoul - Nami giá bán từ 13.999.000 đồng (giảm trực tiếp 500.000 đồng) Ngoài ra, trong thời gian này, Du lịch Việt còn mang đến cho du khách “Đại tiệc buffet tour” với hàng trăm tour du lịch chất lượng, đa dạng với mức ưu đãi siêu khuyến mãi đặc biệt chưa từng có, giảm giá trực tiếp đến 5.000.000đ/tour. Với đại tiệc buffet này, du khách có rất nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm khác nhau tùy theo nhu cầu và sở thích của mình, đảm bảo cho chuyến đi luôn tròn vẹn và nhiều niềm vui. Mai Thảo

1 giờ tham quan Nhà máy sản xuất máy lọc nước lớn nhất Đông Nam Á

TĐKT - Trong vòng 1 giờ tại Nhà máy sản xuất máy lọc nước của Karofi, khách hàng sẽ được hướng dẫn viên dẫn đi tham quan các khâu sản xuất để tạo thành một sản phẩm hoàn thiện như đến tay người tiêu dùng. Tour tham quan đặc biệt này được Karofi tổ chức cho tất cả các khách hàng vào tuần đầu tháng 7 vừa qua tại nhà máy của Karofi – nhà máy sản xuất máy lọc nước lớn nhất Đông Nam Á. Đây là hành động nhằm khẳng định mạnh hơn nữa về chất lượng của sản phẩm đến từ chuyên gia lọc nước thông minh Karofi. Toàn cảnh Nhà máy sản xuất máy lọc nước của Karofi Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến nhà máy là không gian rộng lớn, các khối tòa nhà được bố trí bài bản để thuận tiện cho việc sản xuất, xe ra vào nhập, xuất hàng. Nhà máy sản xuất của Karofi có 4 phân xưởng: Cơ khí, nhựa, lõi, lắp ráp; khu vực tòa nhà điều hành, nhà ăn cho cán bộ, nhân viên và kho hàng hiện đại. Khu vực phân xưởng sản xuất rộng lớn với hệ thống trang thiết bị hiện đại Để những bản thiết kế được hiện thực hóa thì khâu đầu tiên chính là làm thân vỏ. Tại nhà máy Karofi, thân vỏ được sản xuất tại chỗ, ngay tại xưởng cơ khí. Khu vực này sử dụng hệ thống máy móc tự động và bán tự động hiện đại, đảm bảo sản xuất được các chi tiết cơ khí chính xác. Nguyên liệu sau khi được kiểm tra đạt chuẩn sẽ được chuyển lên máy đột dập để tạo các chi tiết hình khối để ra vỏ thô. Sau đó, vỏ sẽ được chuyển đến máy hàn, sơn để thành sản phẩm vỏ hoàn chỉnh trước khi chuyển qua bộ phận lắp ráp. Tại khu vực xưởng nhựa, máy ép nhựa sẽ chịu trách nhiệm sản xuất ra các bộ phận sản xuất từ nhựa trên chiếc máy lọc nước Karofi như: Cốc lọc, nắp lọc, thân lõi… trên dây chuyền hiện đại cho công suất lớn và độ chính xác cao. Linh hồn của mỗi chiếc máy lọc nước chính là phần lõi lọc. Lõi lọc tốt, đảm bảo chất lượng thì mới cho ra được nguồn nước đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng. Tại nhà máy Karofi, các lõi lọc được sản xuất tại chỗ. Lõi máy lọc nước Karofi được sản xuất trên hệ thống máy móc kết hợp tự động và bán tự động theo dây chuyền liên tục mà các nhà sản xuất tiên tiến trên thế giới đang áp dụng. Các lõi lọc nước được sản xuất tại chỗ Sau khi được lắp ráp hoàn thiện, máy sẽ được đưa vào chạy thử nghiệm để kiểm tra chất lượng. Khi đạt tiêu chuẩn thì sẽ được đem vệ sinh và đóng gói hoàn thiện. Quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm được áp dụng hệ thống Quản lý chất lượng ISO 9001-2015 với 100% sản phẩm được kiểm tra trước khi đến tay khách hàng. Khâu kiểm định tại Karofi được triển khai theo quy trình của Bộ Y tế theo hướng dẫn bởi WHO và Unicef. Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường – Bộ Y Tế sẽ lấy mẫu máy lọc nước theo tỉ lệ yêu cầu tại mỗi lô xuất xưởng và kiểm tra đánh giá tại phòng thí nghiệm. Chỉ lô nào đạt yêu cầu mới được dán tem QCVN6-1:2010/BYT thể hiện rằng nước sau khi lọc của máy lọc nước Karofi có thể uống trực tiếp. Hiện tại ở Việt Nam, Karofi là đơn vị đầu tiên và duy nhất triển khai theo quy trình này và được cấp chứng nhận Máy lọc nước đạt Chuẩn quốc gia về nước uống trực tiếp. Máy lọc nước Karofi sau khi sản xuất thành phẩm sẽ được chuyển sang bộ phận kho ở cạnh bên để lưu trữ. Hàng trăm nghìn chiếc máy lọc nước được lưu kho thông minh với sự hỗ trợ của máy móc hiện đại nên thuận tiện khi bốc xếp hàng hóa. Bên cạnh nhà máy sản xuất, nhà kho, hệ thống nhà ăn chất lượng cao cũng được Karofi đầu tư bài bản để hỗ trợ tối đa cho công nhân viên. Nhà máy sản xuất máy lọc nước của Karofi được xây trên diện tích gần 40.000 m2 tại Yên Mỹ (tỉnh Hưng Yên) đáp ứng cho khoảng 700 - 1000 cán bộ, nhân viên làm việc tại đây.  Trung bình mỗi ngày, nhà máy Karofi cho ra đời khoảng 2000 máy lọc nước phục vụ khách hàng. Karofi là thương hiệu chuyên gia lọc nước thông minh được yêu thích trên thị trường và chiếm được niềm tin với người tiêu dùng nhiều năm qua. Sở dĩ có được điều này là do đơn vị đã có nhiều năm nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực máy lọc nước. Hằng năm đều tung ra thị trường 4-5 dòng sản phẩm chất lượng cao, dẫn dắt và định hướng thị trường. Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ luôn được Karofi chú trọng nâng cao để phục vụ tối đa cho người tiêu dùng. Đơn cử như hiện tại, Karofi áp dụng chính sách cho khách hàng được đổi trả sản phẩm miễn phí và hoàn tiền 100%  sau 60 ngày sử dụng nếu không hài lòng về sản phẩm. Đây là điều mà chưa một thương hiệu gia dụng nào tại Việt Nam dám thực hiện. Phương Thanh

Trang