Xây dựng nông thôn mới

Xã Yên Viên (huyện Gia Lâm, Hà Nội) đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2020

TĐKT - Sáng 24/11, xã Yên Viên, huyện Gia Lâm (Hà Nội) tổ chức Lễ đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao; khánh thành công trình “Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng Yên Viên”, biểu dương, khen thưởng các điển hình tiên tiến 5 năm 2015 - 2020. Xã Yên Viên nằm ở phía Bắc của huyện Gia Lâm, có diện tích tự nhiên 376,3ha, dân số hơn 14.000 nhân khẩu. Không phải là xã điểm xây dựng NTM của huyện Gia Lâm trong giai đoạn đầu tiên (2011- 2015), song bằng sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân địa phương, năm 2013, Yên Viên đã được UBND TP Hà Nội ra quyết định công nhận đạt chuẩn NTM. Trong thời gian qua, Chương trình xây dựng NTM nâng cao của xã đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hàng năm đều vượt kế hoạch. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế tăng bình quân 13,6%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hàng năm tăng cao. Công tác quản lý nhà nước luôn được tăng cường; cải cách hành chính được đẩy mạnh; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh. Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Gia Lâm Lê Anh Quân trao bằng công nhận xã đạt chuẩn NTM nâng cao cho xã Yên Viên Trong 5 năm (2015 - 2020), xã Yên Viên được huyện đầu tư trên 100 tỷ đồng để phát triển, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị và hạ tầng khung trên địa bàn. Đến nay, 100% trục đường chính xã; trục đường thôn, liên thôn được nhựa hóa; 100% đường ngõ xóm được bê tông hóa; 100% tuyến đường từ 2m trở lên được lắp đặt chiếu sáng. Các thiết chế văn hóa, trạm y tế xã được đầu tư đồng bộ: 9/9 thôn, tổ dân phố đều có nhà văn hóa được cải tạo nâng cấp, khang trang, sạch đẹp; trạm y tế được xây dựng mới hoàn thành năm 2019; 100% dân số được sử dụng nước sạch; 4/4 trường học trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 2 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2; 91,15% người dân tham gia bảo hiểm y tế. Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, tiến bộ hơn; cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người năm 2019 đạt 55,2 triệu đồng/người (tăng 18,2 triệu so với năm 2015); không còn hộ nghèo… Với các kết quả đạt được, ngày 3/8/2020, xã Yên Viên được Chủ tịch UBND TP Hà Nội ra quyết định công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2020 (đợt 1). Đây là một trong 2 xã đầu tiên của huyện “cán đích” NTM nâng cao năm 2020. Cũng tại buổi lễ, xã Yên Viên đã cắt băng khánh thành công trình “Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng Yên Viên”. Công trình được khởi công xây dựng từ ngày 9/2/2020. Đình làng tọa lạc trên khuôn viên rộng 295,5 m2, hướng Tây Bắc, với hình thức chữ Đinh gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian 6 hàng chân cột, mái đao; hậu cung là nếp nhà bít đốc đấu mái. Tu bổ, tôn tạo nhà Tả mạc, Hữu mạc đối diện phía trước đình với diện tích mỗi nhà 36,6 m2; sân trước đình lát toàn bộ bằng gạch bát. Ngoài đại đình còn có nhà bia, nhà khách, tường bao, cổng đình tam môn - tứ trụ, hồ bán nguyệt... Đến nay, các hạng mục công trình đã hoàn thành theo đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, mỹ thuật theo đúng thiết kế. Nhân dịp này, UBND huyện Gia Lâm đã khen thưởng 3 tập thể, 3 cá nhân có thành tích trong phong trào thi đua xây dựng NTM nâng cao tại xã Yên Viên. UBND xã khen thưởng 21 tập thể, 39 gia đình và 25 cá nhân điển hình tiên tiến, có thành tích trong các phong trào thi đua giai đoạn 2015 - 2020. Thục Anh

Viết tiếp ước mơ làm giàu trên mảnh đất khó

TĐKT - Trong một vài năm gần đây, cây tam thất đã trở thành một sản phẩm được nhiều người ưa chuộng, có nhu cầu sử dụng cao. Đây là một loại cây dược liệu quý hiếm đồng thời là cây có giá trị kinh tế cao so với các loại cây trồng khác. Nhận thấy điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương phù hợp với việc trồng cây tam thất, chị Vũ Thị Nhung, thôn Sảng Mản Thẩn, xã Mản Thẩn là người đầu tiên đầu tư phát triển mô hình này tại huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Chị Vũ Thị Nhung thường xuyên theo dõi, chăm sóc cây hàng ngày Vào năm 2014, gia đình chị Vũ Thị Nhung đầu tư trồng vườn tam thất đầu tiên với tổng diện tích 0,3 ha, tuy nhiên do chưa có kinh nghiệm chọn đất, kỹ thuật trồng, cách xử lý đất, tạo luống cho tới việc làm mái che, khâu chăm sóc chưa đúng cách nên sản lượng không cao. Sau khi thu hoạch vườn trồng năm 2014, chị tiếp tục học hỏi kỹ thuật trồng và chăm sóc tam thất qua mạng internet, sách báo và trực tiếp tại các vùng trồng tam thất khác. Đặc biệt, chị còn học hỏi kinh nghiệm ươm giống tam thất để chủ động nguồn giống phục vụ gia đình cũng như cung cấp giống cho nông dân khác. Chị cho biết: Để cây tam thất phát triển tốt, cần tạo hệ thống thổ nhưỡng như làm luống cao nhằm tránh úng nước; lợp mái che bằng lưới đen (lưới Đài Loan) hoặc bằng lá thông gai; che phủ mặt luống bằng lá cây tế hoặc lá cây thông dầu để giữ ẩm cho đất nhằm hạn chế sự phát triển của cây cỏ dại. Ngoài ra, phải thường xuyên theo dõi, chăm sóc cây hàng ngày để nhổ cỏ, nhặt bỏ những cây thối, lá rụng, không làm ảnh hưởng đến cây khác. Sau khi rút kinh nghiệm từ vườn trước, đến tháng 12/2018, gia đình chị đã mạnh dạn vay vốn để xây dựng lại mô hình trồng cây tam thất với tổng diện tích là 0,7 ha, trong đó, có 0,3 ha là vườn ươm cây giống, 0,4 ha là vườn trồng củ khai thác lấy nụ, củ và thân. Do phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương nên cây sinh trưởng và phát triển khá tốt. Chị mạnh dạn làm hồ sơ tham gia Ngày hội Phụ nữ khởi nghiệp của huyện, tỉnh và được chọn là 1 trong 3 ý tưởng xuất sắc nhất lọt vào vòng thi cấp Trung ương. Ngoài trồng cây tam thất, năm 2015, gia đình chị đã đầu tư trồng và chăm sóc 200 gốc mận Tả Van, hiện nay đã cho thu hoạch; từ năm 2017 đến nay, trồng trên 700 gốc lê Tai Nung; năm 2018 xây dựng thêm 1 mô hình chăn nuôi gà Mông địa phương (gà lông trắng thịt đen và gà lông màu) theo hướng trang trại. Năm 2019, tổng số tiền gia đình chị thu về từ các mô hình là 309.260.000 đồng. Trong đó, thu từ nụ, lá và cây giống tam thất là 211.945.000 đồng; thu từ cây ăn quả, trang trại gà, lợn là 97.315.000 đồng. Mong muốn tạo thêm công ăn việc làm cho chị em phụ nữ ở trong thôn, sẵn có kinh nghiệm nên tháng 12/2019, chị đã mở rộng diện tích trồng mới 0,4 ha tam thất với phương châm “vừa sản xuất giống, vừa trồng củ” để đảm bảo nhu cầu của khách hàng. Mô hình đã tạo công ăn việc làm cho nhiều chị em phụ nữ trong thôn, xã Mô hình trồng cây tam thất của gia đình chị đã tạo công ăn việc làm cho các chị em phụ nữ trong thôn, xã trên 900 ngày công, với tiền thuê nhân công là 170.000 đồng/ngày, chi phí thuê nhân công trên 150 triệu đồng. Với những thành quả ban đầu của mô hình trồng cây tam thất, đã có nhiều đoàn khách đến tham quan, học tập kinh nghiệm về cách làm của gia đình chị. Chỉ riêng trong năm 2019 đã có hơn 30 đoàn lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các huyện, thành phố, các cơ quan ban, ngành thuộc tỉnh Lào Cai; đoàn tham quan của tỉnh Điện Biên, Quảng Ninh... các đoàn phóng viên đưa tin và các cá nhân đến tham quan, học hỏi tại vườn tam thất. Để nâng cao giá trị các cây dược liệu sẵn có của địa phương, chị và các thành viên trong hợp tác xã Mản Thẩn do chị quản lý đã bàn bạc và thống nhất mua máy móc về sản xuất, chế biến các loại cây dược liệu thành các sản phẩm dễ sử dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, hợp tác xã đã xây dựng và thiết kế xong bộ mẫu mã bao bì đóng gói cho các sản phẩm từ cây tam thất Si Ma Cai như trà túi lọc tam thất, bột tam thất… Trà tam thất đã được chọn là 1 trong 10 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu tỉnh Lào Cai năm 2020. Theo chị, để tiếp tục nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình tại địa phương, huyện cần có phương thức hỗ trợ phù hợp như hỗ trợ về vốn, mở các lớp tập huấn về kỹ thuật chăm sóc, nuôi trồng… Huyện cần đăng ký thương hiệu đối với cây tam thất Si Ma Cai để làm cơ sở quáng bá, giới thiệu các sản phẩm này đến với người tiêu dùng trong nước; tiếp tục quy hoạch vùng sản xuất tập trung, vùng chuyên canh về cây tam thất để phát triển sản xuất quy mô lớn, nhằm thu hút các doanh nghiệp vào thu mua và đầu tư liên kết với nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tam thất. Chị tin tưởng rằng việc quan tâm xây dựng thương hiệu sản phẩm, tìm đầu ra cho sản phẩm sẽ là hướng thoát nghèo bền vững cho người nông dân ở nơi vùng cao còn nhiều gian khó này. Phương Thanh

Học Bác, góp sức xây dựng quê hương

TĐKT - Với tinh thần tiên phong, cán bộ, đảng viên và nhân dân thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang. Nhờ đó, đã tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, đẩy mạnh phát kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng đảng và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện. Chi bộ thôn phối hợp với Đồn Biên phòng Bản Máy tuần tra đường biên mốc giới trên địa bàn thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Thôn Bản Máy nằm tại trung tâm xã Bản Máy, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, có 118 hộ với 507 khẩu, gồm 4 dân tộc cùng sinh sống với 3 cụm dân cư tự quản, trong đó dân tộc Tày chiếm đa số. 100% hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người 23 triệu/người/năm. Cuộc sống nhân dân nơi đây vẫn còn vô vàn khó khăn, số hộ nghèo trong thôn là 26 hộ, chiếm đến 22,03%. Để tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo Bác gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đi vào chiều sâu và có sức lan tỏa, chi bộ thôn luôn chú trọng tuyên truyền, phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xác định rõ vai trò của người đứng đầu trong việc nêu gương; mạnh dạn đóng góp ý kiến trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đặc biệt là quan tâm bồi dưỡng tạo nguồn phát triển đảng viên mới, đưa nội dung chuyên đề học tập và làm theo Bác hằng năm lồng ghép vào các cuộc họp thôn, sinh hoạt chi bộ. Qua đó, đảng viên và nhân dân trong thôn được tiếp thu tư tưởng, những đức tính tốt đẹp của Bác, gắn việc học tập và làm theo Bác với các phong trào thi đua yêu nước để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới… Xác định phát triển kinh tế là trọng tâm, căn cứ tình hình thực tiễn của thôn thuần nông, thu nhập chính của các hộ dân đều từ sản xuất nông nghiệp, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân đưa các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng tốt để thay thế căn bản giống địa phương, chú ý tới việc triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng cường thâm canh, tăng năng suất, chuyển diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng 25ha cỏ chăn nuôi, 5ha quả hồng không hạt, 1ha quả mận máu, trồng 230 trụ quả thanh long ruột đỏ… Mô hình chăn nuôi trâu của hộ gia đình ông Hoàng Xín Phủ, thôn Bản Máy, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Các chương trình dự án đầu tư có trọng điểm đã được chi bộ thôn lãnh đạo thực hiện có hiệu quả như Chương trình 135/TTg hỗ trợ hộ 5 hộ chăn nuôi bò luân chuyển; chương trình hỗ trợ hội nông dân chăn nuôi bò luân chuyển 16 con (mỗi hộ 1 con), đến nay đã luân chuyển được 16 hộ (mỗi hộ 1 con bò). Từ đó, góp phần tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân trong thôn. Hiện nay trên địa bàn toàn thôn có 325 con trâu bò, hộ nuôi ít nhất là 2 con, hộ nuôi nhiều nhất là 12 con. Trong thôn đã xuất hiện nhiều gương điển hình trong xây dựng kinh tế như: Mô hình chăn nuôi trâu hộ gia đình ông Hoàng Xín Phủ, duy trì thường xuyên 7 con trâu (4 con trâu cái), mỗi năm bán 2 con trâu mang lại thu nhập tăng thêm 43 triệu đồng. Mô hình chăn nuôi bò, dê của hộ gia đình bà Nguyễn Thị Thúy Tình, duy trì thường xuyên 12 con bò, thu nhập tăng thêm mỗi năm 70 triệu đồng. Mô hình nuôi chim cút của hộ gia đình ông Lục Xuân Hương, Bí thư chi bộ thôn Bản Máy, mỗi năm nuôi 2 lứa, mỗi lứa 800 con, bình quân mỗi năm thu nhập tăng thêm 15 triệu đồng. Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính của hộ gia đình ông Hoàng Quốc Chung với quy mô hơn 2.000 con, thu nhập tăng thêm bình quân 12 triệu đồng… Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên thôn Bản Máy đều thể hiện rõ vai trò tiền phong, gương mẫu, nhất là trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới. Mọi việc từ huy động sức dân đóng góp tiền, ngày công, hiến đất đều được đưa ra bàn bạc theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân đóng góp, dân hưởng lợi”. Nhiều hộ gia đình đã thấm nhuần lời dạy của Bác “luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân” không chỉ tự nguyện hiến đất, góp tiền mà còn tích cực đóng góp ngày công tham gia làm đường giao thông nông thôn. Trong 5 năm qua, đảng viên, nhân dân trong thôn Bản Máy đã hiến 15.000m2 đất để làm các công trình phúc lợi xã hội, phục vụ nhân dân trong thôn; huy động được trên 1.386 ngày công, 26 triệu đồng và mở mới được 3.850m, đổ được 848,5m đường bê tông nông thôn và đường xuống cụm dân cư Hoa Si Pan phục vụ nhu cầu đi lại cho nhân dân trong cụm dân cư Phù Lá (dân tộc ít người). Hiện nay, hệ thống đường giao thông trong thôn cơ bản được bê tông hóa, giúp việc đi lại, vận chuyển hàng hóa được thuận lợi. Ngoài ra, chương trình nhà sạch, vườn đẹp, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư… cũng được chi bộ vận động nhân dân tích cực triển khai và đạt nhiều thành tích đáng kể, toàn thôn có 85/118 hộ có nhà tắm, nhà vệ sinh; 118/118 hộ có bể nước hợp vệ sinh. Nhân dân đóng góp ngày công trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thôn Ngoài chỉ đạo nhân dân thực hiện tốt việc sản xuất, thôn còn chú trọng công tác an sinh xã hội. Thôn đã huy động nhân dân đóng góp được 130 ngày công giúp được 7 hộ khó khăn xây dựng nhà ở. Các tổ chức đoàn thể xã, đồn biên phòng Bản Máy, các đơn vị đóng chân trên địa bàn giúp đỡ hộ gia đình ông Lục Phát Thu di chuyển chuồng trại chăn nuôi để giải phóng mặt bằng xây dựng nhà văn hóa cho dân tộc Phù Lá. Phong trào xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài được nhân dân trong thôn hưởng ứng và tích cực thực hiện. Đời sống văn hóa tinh thần có nhiều khởi sắc, hằng năm vào dịp hội xuân, thôn đều tổ chức các hoạt động thể thao như: Kéo co, bóng chuyền, bóng đá, đẩy gậy, ném còn… Từ những hoạt động này, tình làng nghĩa xóm được thắt chặt, tình hình an ninh trật tự ổn định, nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Một trong những dấu ấn đậm nét trong việc học tập và làm theo Bác ở chi bộ thôn Bản Máy đó là tuyên truyền, vận động các thành viên trong ban quản lý thôn, đảng viên, đoàn viên và toàn thể nhân dân trong thôn sẵn sàng tham gia các hoạt động bảo vệ an ninh biên giới với nhiều hoạt động thiết thực: Tổ chức tuyên truyền cho nhân dân trong thôn về Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 9/1/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc tổ chức phong trào toàn dân bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới; phối hợp với lực lượng Bộ đội biên phòng Bản Máy tham gia tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc; chỉ đạo lực lượng dân quân phối hợp với bộ đội biên phòng tham gia các chốt chặn, đường mòn, lối mở ngăn chặn người dân vượt biên trái phép, thực hiện công tác phòng, chống dịch Covid-19, tuyên truyền đến các hộ dân trong thôn không đi lao động trái phép, không phá rừng, đốt nương, chống xâm canh, xâm cư, tích cực tham gia tố giác tội phạm. Đồng thời, chỉ đạo các hộ có diện tích đất canh tác giáp biên giới thường xuyên nắm bắt tình hình để không bị động, bất ngờ khi có tình huống bất ổn xảy ra trên tuyến biên giới. Với những cách làm thiết thực, hiệu quả, sự gương mẫu đi đầu của mỗi đảng viên, chi bộ thôn Bản Máy luôn giữ vững lòng tin sâu sắc của nhân dân với Đảng, phát huy được sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh phát kinh tế - xã hội toàn thôn. Trong năm 2020, chi bộ thôn Bản Máy đã vinh dự được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2016 - 2020. Trang Lê

Lâm Đồng – Lá cờ đầu của Tây Nguyên trong xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Hơn 10 năm qua, tích cực hưởng ứng và tham gia phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đưa Lâm Đồng trở thành lá cờ đầu của khu vực Tây Nguyên trong xây dựng nông thôn mới (NTM). Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm mô hình sản xuất rau an toàn ứng dụng công nghệ cao tại huyện Đức Trọng – Lâm Đồng Năm 2009, tỉnh Lâm Đồng được chọn là 1 trong 11 địa phương của cả nước thực hiện mô hình thí điểm xây dựng xã NTM (xã Tân Hội, huyện Đức Trọng). Khi đó, Lâm Đồng có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn còn yếu kém và thiếu đồng bộ, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. Kinh tế phát triển còn hạn chế nhất định, GRDP bình quân đầu người đạt 19 triệu đồng, chỉ bằng 88% bình quân cả nước. Thực hiện xây dựng NTM, lãnh đạo tỉnh đã ban hành các chủ trương, cơ chế, chính sách cụ thể; từ đó xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch và hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện đồng bộ, với quyết tâm chính trị rất cao. Tỉnh xác định nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng NTM là một trong những chương trình trọng tâm, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao trình độ sản xuất, tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện phong trào thi đua “Cùng cả nước, Lâm Đồng chung sức xây dựng NTM” do tỉnh phát động, nhiều phong trào thi đua, cuộc vận động gắn với xây dựng NTM được các cấp, các ngành, đoàn thể tích cực triển khai trên địa bàn toàn tỉnh. Qua các phong trào thi đua đã huy động được nguồn lực to lớn trong nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia xây dựng NTM. Nhiều gương điển hình sản xuất giỏi, làm giàu, giàm nghèo bền vững, phát triển giao thông nông thôn, thủy lợi nhỏ… xuất hiện và đã được tổng kết, nhân rộng. Tổng nguồn lực huy động cho chương trình giai đoạn 2010 - 2019 là 52.692 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước 7.236 tỷ đồng, chiếm 13,73%; vốn tín dụng 43.000 tỷ đồng, chiếm 81,6%; vốn các tổ chức, doanh nghiệp 701 tỷ đồng, chiếm 1,33%; vốn cộng đồng dân cư đóng góp 1.756 tỷ đồng, chiếm 3,34%. Kết quả thực hiện các mục tiêu chương trình NTM đều vượt trội so khu vực và bình quân chung cả nước về tỷ lệ số xã đạt chuẩn, số tiêu chí bình quân và tỷ lệ xã dưới 10 tiêu chí. Đến tháng 8/2019 toàn tỉnh có 90/116 xã (chiếm 77,6% xã) đạt chuẩn NTM. Dự kiến đến hết năm 2020 có 109/116 xã (chiếm 94%) đạt chuẩn NTM; trong đó, có ít nhất 20% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 10% số xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Đặc biệt, Lâm Ðồng là tỉnh duy nhất ở vùng Tây Nguyên có huyện Ðơn Dương đạt chuẩn NTM và hiện đang cùng bốn huyện trong cả nước thực hiện đề án huyện NTM kiểu mẫu về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đến nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh không để xảy ra tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản trong thực hiện chương trình NTM. Với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, nông thôn Lâm Đồng đã có những đổi thay căn bản và toàn diện. Diện mạo nông thôn khởi sắc rõ rệt, chất lượng đời sống vật chất của người dân được nâng cao, nhận thức về NTM được tăng cường. Kết cấu hạ tầng phát triển, phục vụ thiết thực cho sản xuất và cuộc sống của người dân. Văn hóa truyền thống của các dân tộc được giữ gìn và phát huy. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày một nâng lên. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội nông thôn được giữ vững. Toàn tỉnh đã đầu tư được khoảng 1.900 km đường, trong đó xây dựng mới trên 700 km; nâng cấp, sửa chữa 1.200 km; đầu tư làm mới và sửa chữa hơn 85 cầu lớn nhỏ. Từ năm 2009 – 2019, Lâm Đồng đã xây dựng, nâng cấp, sửa chữa được 56 công trình thủy lợi vừa và nhỏ, 150 km kênh mương, 1.700 ao, hồ nhỏ; các hình thức tưới tiên tiến, tiết kiệm được ứng dụng mạnh mẽ. Cơ sở vật chất trường học các cấp trên địa bàn các xã được quan tâm đầu tư xây dựng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Tính đến nay toàn tỉnh có 636 trường mầm non, phổ thông công lập các cấp, tăng 86 trường so với năm 2010, trong đó có 393 trường đạt chuẩn quốc gia. Mô hình nông nghiệp công nghệ cao gắn với du lịch canh nông của Công ty cổ phần Long Đỉnh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM làm chuyển biến căn bản nhận thức của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Lấy dân làm chủ thể, người dân được tham gia đóng góp ý kiến xây dựng NTM, từ đó củng cố thêm niềm tin và đồng thuận của nhân dân. Người dân hưởng ứng tích cực, tạo ra nguồn lực to lớn hoàn thành mục tiêu của chương trình. Kinh tế nông nghiệp có sự tăng trưởng ổn định, công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển nhanh và đa dạng. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp của tỉnh bình quân đạt 8,4%, giai đoạn 2016 - 2020 bình quân đạt 4,5% và có xu hướng ổn định. Sản xuất nông nghiệp ổn định theo đúng chủ trương tái cơ cấu ngành. Chủng loại nông sản ngày càng đa dạng phong phú, trình độ canh tác có bước phát triển vượt bậc, hình thành những vùng sản xuất chuyên canh tập trung đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn tiếp tục phát triển. Giá trị sản xuất ngành nông lâm thủy sản tăng nhanh, năm 2018 đạt 38.700 tỷ đồng, tăng 65,5% so với năm 2010. Diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ đạt 56.403 ha, giá trị sản xuất công nghệ cao bình quân đạt khoảng 400 triệu đồng/ha, đặc biệt có nhiều mô hình có giá trị sản xuất trên 1 tỷ đồng/ha. Giá trị sản xuất bình quân trên đơn vị diện tích trên địa bàn tỉnh năm 2018 đạt 169 triệu đồng/ha/năm, tăng gấp đôi so với năm 2010. Năm 2018, GRDP bình quân đầu người đạt 59,74 triệu đồng, bằng 102% mức bình quân chung cả nước, tăng 3,1 lần so với năm 2010. Tỷ lệ hộ nghèo còn 1,06%. Chất lượng đời sống văn hóa của người dân tiếp tục được nâng cao, nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn và phát triển. Nhiều phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các lễ hội truyền thống được phục hồi, phát triển. Nhiều địa phương đã phát triển các hoạt động du lịch, tạo nguồn thu nhập cho người dân. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh được chú trọng đầu tư, đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi, hưởng thụ, gìn giữ văn hóa, luyện tập thể dục, thể thao của các tầng lớp nhân dân. Môi trường nông thôn đã có chuyển biến đáng kể, nhiều vùng nông thôn đã xây dựng và hình thành mô hình cảnh quan xanh sạch đẹp, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn trên địa bàn các xã được quan tâm chỉ đạo và đạt kết quả tốt. Đặc biệt, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng; năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng và công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền cơ sở được nâng lên; đã phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị trên các lĩnh vực công tác ở cấp xã và thôn. Đến nay đã có 100% xã đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự theo quy định. Nhằm thúc đẩy Chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương trong giai đoạn tới, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chủ động nghiên cứu và phối hợp với cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (Jica) và Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam (VASS) thực hiện dự án phát triển nông nghiệp theo cách tiếp cận đa ngành và cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần giúp ngành nông nghiệp của tỉnh Lâm Đồng có bước phát triển vượt bậc và hướng đến phát triển toàn diện, bền vững và hiện đại. Nguyệt Hà

Huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai): Xây dựng nông thôn mới với phương châm “Dễ làm trước, khó làm sau”

TĐKT - Từ một huyện thuần nông, có xuất phát điểm thấp, với sự nỗ lực, quyết tâm cao, tinh thần tự chủ tự cường và sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, đến nay, Vĩnh Cửu đã trở thành điểm sáng của tỉnh Đồng Nai với nhiều kết quả nổi bật trong xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng chuyên canh, tập trung, hiện đại, gắn với phát triển du lịch sinh thái bền vững. Đây cũng là một trong những huyện đầu tiên trên cả nước được Chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Tuyến đường hoa giấy của huyện Vĩnh Cửu Sau 10 năm xây dựng nông thôn mới, nông thôn Vĩnh Cửu đã thay đổi toàn diện: Kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến vượt bậc; các giá trị văn hóa được phát huy; cảnh quan môi trường được cải thiện; an ninh - quốc phòng được đảm bảo. Kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới ngày càng đi vào chiều sâu và chất lượng. Ông Võ Văn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Cửu cho biết: Do có xuất phát điểm rất thấp, nên ngay từ những ngày đầu xây dựng nông thôn mới, huyện Vĩnh Cửu đã ban hành nghị quyết và chọn lựa những nơi có điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện trước, những nơi khó khăn triển khai thực hiện sau, theo phương châm “Dễ làm trước, khó làm sau”. Cùng với đó, công tác tuyên truyền được quan tâm đẩy mạnh nhằm tạo sự đồng thuận của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức tôn giáo cùng huyện triển khai xây dựng nông thôn mới. Ngay khi bước vào thực hiện chương trình, huyện Vĩnh Cửu đã xác định rõ những nội dung trọng tâm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng về công tác quy hoạch; chọn bước đi, giải pháp, thứ tự ưu tiên thực hiện. Đó là tập trung phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, coi sản xuất là khâu đột phá, là cái gốc để xây dựng nông thôn mới bền vững. Gắn xây dựng nông thôn mới với việc sử dụng hiệu quả diện tích đất lâm nghiệp hiện có, tổ chức quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng tự nhiên, nhằm góp phần quan trọng trong việc giữ vững và cân bằng hệ sinh thái trên địa bàn toàn tỉnh.... Huyện đã chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi từ đất lúa kém hiệu quả, đất trồng mì, các loại cây mang lại hiệu quả thấp sang chuyên canh trồng bưởi, cam, quýt, chăn nuôi hươu, nai, những mô hình có giá trị kinh tế cao, nâng cao thu nhập, ổn đời sống lao động nông thôn tại địa phương. Trong đó, một số mô hình sản xuất tiêu biểu như mô hình trồng cam cho thu nhập 1 tỷ đồng/héc ta (lợi nhuận đạt 600 triệu đồng/héc ta). Đặc biệt, huyện có thương hiệu bưởi Biên Hòa - đặc sản Tân Triều đã được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý, tạo điều kiện để sản phẩm tiếp cận thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Bên cạnh đó, huyện cũng tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp gắn với việc triển khai chương trình phát triển cây trồng, vật nuôi chủ lực, xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp. Huyện đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển các mô hình ứng dụng công nghệ cao, nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp điểm, tăng cường cơ giới hóa, tự động hóa trong sản xuất và xử lý hoa trái vụ, rải vụ trên các cây trồng để nâng cao giá trị cho hàng nông sản. Là địa phương được thiên nhiên ưu đãi về các điều kiện tự nhiên phong phú, sông nước hữu tình, 10 năm xây dựng nông thôn mới, lãnh đạo huyện Vĩnh Cửu đã đặc biệt quan tâm tới việc phát triển du lịch sinh thái, du lịch về nguồn gắn với hồ Trị An, rừng trong Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai, Trung ương Cục miền Nam, Chiến khu D… Việc phát triển du lịch nông thôn vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa giữ gìn được cảnh quan sinh thái, bảo vệ rừng và phát huy được giá trị truyền thống, văn hóa của địa phương. Hiện nay, huyện đã bước đầu hình thành các điểm du lịch có sức hấp dẫn, gắn kết với các tuyến du lịch từ Biên Hòa, thành phố Hồ Chí Minh…, từng bước đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế chủ lực của địa phương. Những giải pháp trên đã góp phần tạo sự chuyển biến rõ nét về cơ cấu nền kinh tế của huyện và nâng cao thu nhập cho người dân khu vực nông thôn. Năm 2019, tốc độ phát triển nền kinh tế ước đạt 8,12%; thu nhập của người dân khu vực nông thôn đạt 64,6 triệu đồng/người/năm (tăng 3,15 lần so với năm 2011); số hộ nghèo ở khu vực nông thôn còn 0,3% (giảm 7,3% so với năm 2011). Điểm nổi bật khác trong 10 năm xây dựng nông thôn mới tại huyện Vĩnh Cửu là việc tập trung phát triển các tiêu chí cứng: Hạ tầng kinh tế phát triển khá đồng bộ, 100% đường nông thôn theo quy hoạch được nhựa hóa và bê tông hóa. Hệ thống trường học, trạm y tế đều đạt chuẩn theo quy định. Hệ thống thủy lợi, điện cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu phát triển sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Hoạt động văn hóa được mở rộng, chất lượng dạy và học, chăm sóc sức khỏe người dân ngày được nâng cao. Công tác quản lý môi trường có nhiều tiến bộ... Cuối tháng 8/2017, trên địa bàn huyện có 100% số xã đã được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Huyện cũng đã thực hiện hoàn thành 9/9 tiêu chí huyện nông thôn mới. Ngày 22/3/2018, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Quyết định số 326 công nhận huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017. Xác định “xây dựng nông thôn mới là quá trình thường xuyên, liên tục, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc”, không tự mãn với kết quả đã đạt được, huyện Vĩnh Cửu vẫn thường xuyên nâng cao chất lượng thực hiện các tiêu chí, phấn đấu “Là một trong những huyện đầu tiên đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao của tỉnh”. Thực tế cho thấy, phong trào xây dựng nông thôn mới của huyện không hề đi xuống sau khi về đích, mà ngược lại, người dân và chính quyền vẫn nỗ lực để thực hiện Chương trình với sự tham gia ngày càng tích cực hơn. Có được điều đó, là do xây dựng nông thôn mới đi vào trọng tâm cốt lõi nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, người dân thực sự thấy được giá trị của xây dựng nông thôn mới và quyết tâm tiếp tục thực hiện chương trình. Nguyệt Hà

Nhân dân và cán bộ huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị thi đua xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Nhờ sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của cả hệ thống chính trị, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM thành công. Đến nay bộ mặt nông thôn huyện Cam Lộ có nhiều đổi mới, khởi sắc rõ nét.      Kết quả sản xuất nông nghiệp, ngành nghề nông thôn phát triển khá toàn diện, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa từng bước gắn với thị trường. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng ở nông thôn (Hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống công trình thủy lợi, giao thông nội đồng, trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc, nhà văn hóa, bãi xử lý rác thải, hệ thống cấp nước sạch...) được đầu tư cải tạo, nâng cấp hoặc xây dựng mới. Cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản; tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ; tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị Ngay từ khi triển khai chương trình, quan điểm của ban chỉ đạo đưa ra là vừa "Sâu sát, toàn điện, quyết liệt, hiệu quả", xây dựng "Huyện nông thôn mới" với tinh thần chung "Không chạy theo hình thức, không huy động quá sức dân", "lấy thu nhập nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân" là nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi trong chỉ đạo. Đồng thời tập trung chỉ đạo các nội dung hết sức cụ thể "Gắn việc xây dựng xã NTM song song với thực hiện các tiêu chí NTM cấp huyện theo Quyết định 558 của Thủ tướng Chính phủ". Thực hiện Chương trình kiên cố hóa giao thông nông thôn, người dân hiến đất, hiến cây mở rộng lòng, lề đường, đóng góp tiền, ngày công để làm các tuyến đường trục thôn, trục, ngõ xóm với tổng chiều dài các tuyến 264,8 km (160,1km là đường trục thôn, 104,7 đường ngõ xóm). Đến nay đã bê tông hóa, nhựa hóa 136,8/160,1km đường trục thôn đạt 85,5% và cứng hóa 100% các tuyến đường ngõ, các tuyến đường trục chính, đường nội đồng tông hóa, cứng hóa 161,0/179,5 km đạt 89,7%. Đường trục xã kết nối với trung tâm các xã và trung tâm huyện nhựa hóa 124,8km/124,8 km đạt 100%. Hệ thống giao thông của huyện chủ yếu là đường bộ, UBND huyện đã huy động lồng nghép nhiều nguồn vốn đầu tư, lập kế hoạch, lộ trình, bố trí, các nguồn vốn hợp lý đến nay nhựa hóa là 140,2/140,2km, đạt 100%; có 23 cầu L ≥ 4,0m, cống các loại được xây dựng kiên cố, phù hợp với cấp đường quy hoạch. Xác định hệ thống thủy lợi phục vụ đảm bảo tưới, tiêu là điều kiện tiên quyết, quyết định đến năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi, UBND huyện huy động lồng ghép các nguồn lực từ ngân sách nhà nước các cấp, kêu gọi hỗ trợ từ các dự án, tổ chức phi chính phủ và vốn xã hội hóa... Đến nay, đã đầu tư sữa chữa, nâng cấp 45 hồ, đập nhỏ, 10 trạm bơm; xây dựng mới 10 hồ, đập và 2 trạm bơm, đảm bảo tưới cho 100% diện tích lúa và 50% rau đậu các loại. UBND huyện đã phân cấp, phân quyền quản lý, nhằm khai thác, vận hành đảm bảo phát huy hiệu quả các công trình sau đầu tư. Các công trình hệ thống điện trung thế liên xã đầu tư trên địa bàn huyện theo Quy hoạch ngành điện chung của tỉnh được phê duyệt Quy hoạch tại Quyết định số 4965/QĐ-BCT ngày 27/2/2018 của Bộ Công thương về phê duyệt phát triển điện lực Quảng Trị giai đoạn 2016 - 2025, tính đến 2035. Tính đến nay, số hộ gia đình, doanh nghiệp sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ nguồn lưới điện quốc gia đạt tỷ lệ 100% (14.599 hộ/14.599 hộ, doanh nghiệp, tăng 1.781 hộ, doanh nghiệp so với 2011); sản lượng điện tính đến 15/11/2019 là 37.274.422 kwh. UBND huyện tăng cường, tập trung chỉ đạo công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế về chuyên môn nghiệp vụ và y đức. Các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế được triển khai bảo đảm đúng quy định. Có 7/7 xã và 1 thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT 41.885 người (87,7%). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi bình quân các xã, thị trấn giảm còn 6,29%. Trung tâm y tế huyện xếp hạng III theo Quyết định số 2796/QĐ-UBND ngày 16/10/2017 của UBND tỉnh Quảng Trị xếp hạng đối với các đơn vị sự nghiệp y tế trực thuộc Sở Y tế; được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba và nhiều bằng khen, giấy khen của Bộ Y tế, của UBND tỉnh.  Cùng với việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, việc phát triển kinh tế nâng cao thu nhập cho người nông dân được Huyện ủy, UBND huyện xác định là trục xoay, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Cụ thể, đã đạt được một số kết quả quan trọng như Nghị quyết, đề án “Phát triển cây cao su” ;“Thí điểm và phục hồi vườn tiêu”; “Nâng cao hiệu quả vùng lạc”; “Cải tạo và phát triển chăn nuôi bò”; “Phát triển lâm nghiệp bền vững”; “Nâng cao hiệu quả sản xuất một số sản phẩm có thế mạnh của địa phương”, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất đạt trên 90%... Huyện Cam Lộ với nhiều sản phẩm phong phú Thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp gắn với chế biến, huyện đã nỗ lực kêu gọi thu hút các doanh nghiệp đầu tư liên kết chế biến tiêu thụ một số nông sản chủ lực, quan tâm khuyến khích hỗ trợ công nhận làng nghề truyền thống, xây dựng làng nghề mới góp phần cơ bản tiêu thụ một số nông sản sản xuất trên địa bàn. Huyện Cam Lộ có 2 làng nghề truyền thống được tỉnh công nhận là "Làng bún Cẩm Thạch ở xã Cam An" và "Làng nghề nấu cao dược liệu Định Sơn xã Cam Nghĩa", làng nghề sản xuất các sản phẩm mang tính chất đặc trưng của địa phương, giải quyết một số việc làm cho người lao động nông thôn. Huyện có vị trí giao thông thuận lợi là điều kiện để thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng với nhiều loại hình, ngành hàng kinh doanh khác nhau, không chỉ tập trung ở khu vực thị trấn huyện lỵ, chợ Cùa, Ngã Tư Sòng còn vươn đến các thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, góp phần lưu thông, tiêu thụ nông sản phẩm. Huyện đã quy hoạch và đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với nhiều giải pháp tích cực thu hút các nhà đầu tư vào 3 cụm công nghiệp (Cam Thành, Cam Hiếu, Cam Tuyền ). Đến nay, đã thu hút được 33 dự án, trong đó có 20 dự án đã đi vào hoạt động, giải quyết việc làm cho trên 1.000 lao động địa phương. Ngoài ra, xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cung cấp nguồn nước sinh hoạt ở địa bàn nông thôn đảm bảo các tiêu chuẩn là tất yếu và cấp thiết hiện nay của các cấp chính quyền. Năm 2019, huyện có 98,6% hộ sử dụng nước hợp vệ sinh, nước sạch 72,6%; 100% cơ sở sản xuất kinh doanh, làng nghề thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường; 100% số xã đạt tiêu chí đường làng, ngõ xóm, cảnh quan từng hộ xanh – sạch – đẹp. Phong trào chỉnh trang nông thôn đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, xây dựng đường làng, ngõ xóm xanh, sạch, đẹp được người dân hưởng ứng tích cực, đến nay toàn huyện đã trồng được 58,5 km đường hoa. Có được kết quả như hiện nay chính là nhờ sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của cả hệ thống chính trị trên chặng đường 9 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM (2011 - 2020). Ghi nhận những thành tích trong công tác xây dựng nông thôn mới của nhân dân và cán bộ huyện Cam Lộ, ngày 16/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 520/QĐ-TTg về việc công nhận huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đạt chuẩn nông thôn mới năm 2019. Hồng Thiết

Khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết trong thi đua xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Sáng 14/11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã dự Lễ công bố xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) và Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xã Quang Minh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tặng hoa chúc mừng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Quang Minh. Cùng dự có các Ủy viên Trung ương Đảng: Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến; Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Hầu A Lềnh... Xã Quang Minh là một trong những điển hình trong xây dựng NTM của huyện Văn Yên bởi là một xã vùng II của huyện, dân cư chủ yếu là người đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Dao chiếm 85,6%, kinh tế chủ yếu của xã là sản xuất nông - lâm nghiệp. Song với truyền thống lao động cần cù, đoàn kết, sáng tạo cùng với truyền thống cách mạng và bản sắc văn hoá tốt đẹp, nhân dân các dân tộc trong xã đã cùng nhau đồng tâm hiệp lực, vươn lên làm giàu từ cây quế, từ củ sắn, cùng nhau hiến đất, góp công, góp của xây dựng đường giao thông nông thôn và các công trình hạ tầng, hoàn thành 19/19 tiêu chí của xã đạt chuẩn NTM. Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái Trần Huy Tuấn trao trao bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020 cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Quang Minh. Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chúc mừng và biểu dương sự nỗ lực vượt bậc và những thành tích to lớn mà đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Quang Minh, huyện Văn Yên đã giành được trong chặng đường phát triển vừa qua. Chủ tịch Quốc hội mong muốn Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể của xã Quang Minh nói riêng và của huyện Văn Yên, của tỉnh Yên Bái nói chung tiếp tục khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần thi đua sáng tạo trong mọi tầng lớp nhân dân. Xã Quang Minh, cần quan tâm duy trì, củng cố, giữ vững và phát triển xã NTM trong giai đoạn tiếp theo, phấn đấu đạt xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu, tiếp tục phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nâng cao mức thu nhập của người dân, xây dựng xã Quang Minh ngày càng văn minh, giàu đẹp; góp phần quan trọng hướng tới mục tiêu xây dựng huyện Văn Yên trở thành huyện NTM vào năm 2025. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền xã, Ban công tác Mặt trận ở cơ sở cần động viên nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và hương ước, quy ước của làng, xã; xây dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa; trước hết Mặt trận và các chi hội đoàn thể phân công, giúp đỡ để các hộ nghèo trong thôn mau chóng thoát nghèo; đặc biệt, cần quản lý, giáo dục, động viên con em nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, không sa vào tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm... Nêu cao tinh thần đoàn kết, cùng chung sức, đồng lòng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, đặc biệt là bản sắc văn hóa dân tộc Dao. Chủ tịch Quốc hội cũng biểu dương, đánh giá cao sự chỉ đạo, lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Yên Bái và của cấp ủy, chính quyền huyện Văn Yên đối với phong trào xây dựng NTM, xóa đói giảm nghèo, thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bà con nhân dân vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của các xã, thôn, bản đặc biệt khó khan. Đề nghị các cấp ủy, chính quyền của tỉnh Yên Bái tăng cường chỉ đạo, phối hợp để Mặt trận tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”. Mặt trận Tổ quốc các cấp tiếp tục làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân; kịp thời chia sẻ, động viên, lắng nghe và tập hợp ý kiến nguyện vọng chính đáng của nhân dân; phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; ưu tiên chăm lo cho hoạt động của Mặt trận ở cơ sở và khu dân cư. Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy trao quà cho các hộ gia đình tiêu biểu vươn lên thoát nghèo và các em học sinh vượt khó vươn lên trong học tập trên địa bàn xã Quang Minh. Với truyền thống đoàn kết keo sơn của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Chủ tịch Quốc hội tin tưởng, trong thời gian tới, tỉnh Yên Bái, huyện Văn Yên sẽ tiếp tục phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ 2020 - 2025; xây dựng tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển chung của đất nước. Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà trao tiền ủng hộ Quỹ khuyến học xã Quang Minh. Nhân dịp này, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Hầu A Lềnh đã trao quà tặng 20 hộ gia đình tiêu biểu trong xây dựng phong trào Đại đoàn kết toàn dân tộc. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trao tặng quà của Công đoàn Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủng hộ Quỹ Vì người nghèo xã Quang Minh.  Thứ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đã ủng hộ Quỹ Khuyến học xã Quang Minh. Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy trao quà tặng 20 hộ gia đình tiêu biểu vươn lên thoát nghèo và 20 học sinh vượt khó vươn lên học tập tốt... Nguyệt Hà

Huyện Khoái Châu (Hưng Yên) đón Bằng công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới

TĐKT - Ngày 14/11, huyện Khoái Châu (Hưng Yên) đã tổ chức đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba và Bằng công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Đồng chí Đỗ Tiến Sỹ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên trao Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước tặng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Khoái Châu Sau hơn 9 năm thực hiện, đến cuối năm 2019, toàn huyện Khoái Châu có 24/24 xã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM); huyện đạt 9/9 tiêu chí huyện NTM. Đến nay, diện mạo nông thôn huyện Khoái Châu có sự thay đổi vượt bậc, kinh tế tăng trưởng mạnh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh và ổn định. Khoái Châu và là một trong những huyện phát triển mạnh về sản xuất nông nghiệp, thu nhập của người dân được nâng cao… Các mô hình sản xuất của huyện phát triển tập trung quy mô lớn như vùng chuối tiêu hồng, chuối tây với diện tích trên 900 ha tại các xã Tứ Dân, Tân Châu, Đại Tập, Đông Ninh, Phùng Hưng…; vùng nhãn chín muộn tập trung tại các xã Đông Kết, Hàm Tử, Bình Minh, An Vỹ, Bình Kiều… với diện tích 1.671 ha; vùng chuyên canh cây có múi ở Tân Dân, Đông Tảo, Dạ Trạch… cho giá trị trung bình 300 – 400 triệu đồng/ha/năm. Bên cạnh đó, Khoái Châu còn có vùng trồng nghệ xã Chí Tân, Thuần Hưng với diện tích trên 200 ha; vùng cây cỏ ngọt xã An Vỹ, cây dược liệu xã Bình Minh cho giá trị thu nhập cao. Diện tích các cây ăn quả chủ lực của huyện đã được cấp giấy chứng nhận VietGAP là 700 ha. Chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản phát triển ổn định, đặc biệt là chăn nuôi gà Đông Tảo, Đông Tảo lai, thủy cầm, nuôi trồng thủy sản… Toàn huyện có 3 sản phẩm được Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ, đó là nhãn hiệu tập thể “gà Đông Tảo”, nhãn hiệu chứng nhận “Chuối Tiêu hồng”, nhãn hiệu chứng nhận “Nghệ Chí Tân – Khoái Châu”. Thu nhập bình quân đầu người của huyện năm 2019 đạt 57,19 triệu đồng, tăng 2,7 lần so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm còn 1,95%, giảm 7,21% so với năm 2011 (9,16%). Tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm đạt 99,87%, tăng 24,87% so với năm 2011. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế toàn huyện đạt 89,4%. Tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt tỷ lệ 100%… Ngày 8/10/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định công nhận huyện Khoái Châu đạt chuẩn NTM năm 2019. Đồng chí Đặng Ngọc Quỳnh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hưng Yên trao Bằng công nhận huyện đạt chuẩn NTM năm 2019 cho huyện Khoái Châu. Khoái Châu phấn đấu đến năm 2025, toàn huyện có trên 50% số xã đạt xã NTM nâng cao và có trên 10% số xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; mỗi xã NTM kiểu mẫu có ít nhất 1 khu dân cư đạt khu dân cư kiểu mẫu; trước năm 2030, huyện đạt chuẩn NTM nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người đạt 115 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo dưới 1%… Nhân dịp này, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Khoái Châu vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba. 7 tập thể, 12 cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào xây dựng NTM được Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên tặng Bằng khen… Trang Lê

Phát triển kinh tế khu vực nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững

TĐKT - Ngày 13/11, tại TP Thái Nguyên, Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đã tổ chức Hội nghị Đánh giá Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020 khu vực phía Bắc. Các đồng chí: Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Dương Văn Lượng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên; Nguyễn Minh Tiến, Chánh Văn phòng Điều phối NTM Trung ương điều hành chương trình thảo luận Theo Báo cáo Kết quả Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018 - 2020, tính đến tháng 10/2020, đã có 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức đánh giá, phân hạng cho các sản phẩm. Đã có 2.169 sản phẩm OCOP được công nhận 3 sao trở lên, đạt 90,4% mục tiêu Chương trình giai đoạn 2018 - 2020. Riêng khu vực miền Bắc đã có 22/25 tỉnh tổ chức đánh giá phân hạng sản phẩm OCOP. Số lượng sản phẩm được đánh giá cao, phân hạng chiếm 55,74% (1.209 sản phẩm) tổng số sản phẩm OCOP của cả nước, có 4/5 tỉnh có số lượng sản phẩm OCOP cao nhất cả nước (Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Giang, Bắc Kạn). Các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP đã được các tỉnh khu vực phía Bắc ưu tiên, tập trung triển khai và mang lại những kết quả tích cực, trở thành khu vực triển khai Chương trình OCOP hiệu quả và đồng bộ nhất cả nước. Chương trình OCOP đã thể hiện được sự phù hợp về định hướng, chính sách nhằm phát huy thế mạnh, lợi thế và điều kiện tự nhiên, văn hóa của các địa phương, kể cả các địa phương miền núi, vùng khó khăn… Chương trình OCOP bước đầu đã có những tác động tích cực vào phát triển kinh tế và khu vực nông thôn. Nhiều vùng, địa phương đã phát huy các lợi thế theo nhóm sản phẩm OCOP như: Các làng nghề truyền thống ở Đồng bằng sông Hồng, khu vực miền núi phía Bắc phát huy lợi thế các sản phẩm đặc sản địa phương… Trong giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình OCOP sẽ tiếp tục phát triển sản phẩm OCOP theo chuỗi giá trị, phù hợp với lợi ích và điều kiện địa phương; xây dựng hệ thống quản lý, giám sát sản phẩm OCOP; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung - cầu cho sản phẩm OCOP; nâng cao năng lực hệ thống hỗ trợ triển khai Chương trình OCOP… Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam ghi nhận những kết quả mà các tỉnh phía Bắc đã đạt được trong việc thực hiện Chương trình OCOP giai đoạn 2018 – 2020, đồng thời đề nghị trong thời gian tới, khu vực này cần tiếp tục quan tâm thúc đẩy phát triển sản phẩm OCOP, việc phát triển phải gắn với làng nghề và du lịch cộng đồng. Trong năm 2021, yếu tố du lịch cộng đồng đối với sản phẩm OCOP sẽ đưa vào tiêu chí chấm điểm với sản phẩm OCOP cấp quốc gia (đạt 5 sao). Ngoài ra, các sản phẩm OCOP phải hội tụ đủ 4 điều kiện cơ bản gồm: Vùng nguyên liệu, nguồn nhân lực tại địa phương, đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và phải được cấp chứng nhận sở hữu trí tuệ, chỉ dẫn địa lý. Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng yêu cầu các địa phương cần huy động sự vào cuộc của các cấp, ngành tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá, giới thiệu các sản phẩm OCOP. Đồng thời, phải có sự giám sát chặt chẽ việc tiêu thụ các sản phẩm đạt OCOP, tránh tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng mượn mác OCOP làm ảnh hưởng đến địa phương, doanh nghiệp và người dân. Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận để đưa ra một định hướng thống nhất trong triển khai Chương trình OCOP khu vực phía Bắc giai đoạn 2021 - 2025 với quan điểm, Chương trình OCOP tiếp tục là một chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững; tập trung phát triển các sản phẩm đặc sản, ngành nghề nông thôn gắn với đơn vị làng, xã để phát huy nội lực, sức sáng tạo, hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa gắn với cộng đồng… Nhiều giải pháp đã được các đại biểu phân tích sâu như phát triển sản phẩm OCOP theo chuỗi giá trị, phù hợp với lợi thế và điều kiện của địa phương. Đồng thời, xây dựng hệ thống quản lý, giám sát sản phẩm OCOP; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung - cầu cho sản phẩm OCOP; nâng cao năng lực hệ thống hỗ trợ triển khai Chương trình OCOP; hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ và nâng cao quy trình - công nghệ sơ, chế biến; quy hoạch và phát triển các vùng nguyên liệu nông sản đặc trưng. Minh Phương

Xã Gia Thắng đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới

TĐKT - Sáng 1/11, xã Gia Thắng (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) tổ chức lễ công bố và đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình Nguyễn Ngọc Thạch trao bằng công nhận và tiền thưởng cho xã Gia Thắng Bước đầu thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), so với các địa phương trên toàn huyện, xã Gia Thắng có xuất phát điểm rất thấp. Song nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, ngành và sự đồng lòng toàn dân, qua hơn 9 năm triển khai thực hiện xây dựng NTM, Gia Thắng đã huy động được tổng nguồn lực là hơn 193 tỷ đồng, trong đó vốn tham gia của nhân dân gần 70 tỷ đồng, chiếm 36%. Đến nay, Gia Thắng đã đầu tư cứng hóa, nâng cấp làm được trên 15,4 km đường giao thông xã, thôn, xóm và gần 21 km kênh mương nội đồng; xây mới trụ sở làm việc khang trang, nhà văn hóa trung tâm xã với 250 chỗ ngồi,  sân thể thao tập trung và các nhà văn hóa thôn, xóm làm nơi vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng… Các trường học đều được kiên cố hóa, đáp ứng nhu cầu dạy và học của nhà trường. Người dân tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng mức bình quân thu nhập đầu người đạt trên 45 triệu đồng/người/năm. Giá trị sản xuất bình quân xã đạt 90 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm theo tiêu chí mới còn 1,42%. Nhờ tích cực hoàn thiện các tiêu chí, năm 2019, xã Gia Thắng được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững. Ghi nhận và biểu dương những thành tích xã đã đạt được hơn 9 năm qua, tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Ngọc Thạch, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình đã trao Bằng công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về NTM và phần thưởng trị giá 500 triệu đồng cho Đảng bộ và nhân dân xã Gia Thắng, trao Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 10 tập thể và 10 cá nhân của xã Gia Thắng có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”. Trang Lê

Trang