Chính trị - Xã hội

Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam: Phấn đấu 100% sinh viên ra trường có việc làm và thu nhập cao

BTĐKT – Mục tiêu của nhà trường là phấn đấu trở thành cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, có uy tín trong nước và khu vực; phấn đấu sinh viên tốt nghiệp ra trường 100% có việc làm và thu nhập cao. Đó là những chia sẻ của Đại tá, Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Đặng Việt Xô, Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam tại buổi Lễ tổng kết năm học 2023 – 2024, khai giảng năm học 2024 – 2025 và kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 do trường tổ chức sáng ngày 20/11, tại Hà Nội. Tới dự buổi lễ có: Thượng tướng Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; TS Trương Anh Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cùng đại diện lãnh đạo các đơn vị: Thanh tra Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thành ủy Hà Nội, quận Nam Từ Liêm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, Bộ Công an, Công an TP Hà Nội, Công an quận Bắc Từ Liêm, Công an huyện Phúc Thọ và nhiều trường học, doanh nghiệp… Thượng tướng Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tặng hoa chúc mừng nhà trường Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện có 4 địa điểm đào tạo tại tỉnh Thái Nguyên, Đắk Lắk, TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trường đào tạo theo 3 cấp trình độ: Cao đẳng; trung cấp; sơ cấp và đào tạo thường xuyên. Với phương châm đào tạo kết hợp 3 bên nhà trường, doanh nghiệp và người học với mục tiêu đào tạo từ thái độ đến kiến thức, kỹ năng và cho thu nhập cao, Cao đẳng Công thương Việt Nam mang đến môi trường học rộng mở, năng động cho tất cả các bạn học sinh, sinh viên trên toàn quốc cũng như trên thế giới, đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhân lực trong và ngoài nước.  Năm học 2023 - 2024, Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam đã tuyển sinh được gần 5.000 học sinh, sinh viên; xét và công nhận tốt nghiệp cho 5.988 em. Trong năm học, nhà trường đã đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế, hoàn thành thủ tục cho 75 sinh viên đi du học, thực tập tại Hàn Quốc; 1 sinh viên du học nghề tại Úc; 2 sinh viên du học tài Đài Loan; 30 sinh viên đi du học, thực tập tại Nhật Bản. Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam nhận quyết định thành lập Đảng bộ nhà trường Phát biểu tại buổi lễ, Đại tá, Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Đặng Việt Xô cho biết: Trong năm học mới 2024 - 2025, nhà trường sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được; phấn đấu trở thành cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, có uy tín trong nước và khu vực. Để đạt được mục tiêu đề ra, trong năm học mới 2024 - 2025, nhà trường sẽ tăng cường phát triển chương trình đào tạo kiểm định chất lượng lao động theo hướng mở phát triển đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, tăng cường hợp tác với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước và hợp tác các tổ chức quốc tế; đẩy mạnh liên kết, liên doanh các công ty, doanh nghiệp thực hiện đào tạo lao động có tay nghề cao và giải quyết việc làm cho người học khi ra trường. Tăng cường công tác tuyển sinh, đa dạng hóa các loại hình tuyển sinh, đảm bảo tuyển đủ các chỉ tiêu được giao, phấn đấu sinh viên tốt nghiệp ra trường 100% có việc làm và thu nhập cao. Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học, thực hiện chuyển đổi số trong quản lý dạy và học với phương châm lấy người học làm trung tâm, tăng cường rèn luyện kỹ năng của người học đảm bảo sau khi tốt nghiệp ra trường, lấy chất lượng người học làm cốt lõi, tỷ lệ sinh viên có việc làm làm thước đo giá trị. Mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết đối tác và các trường có uy tín trong nước và quốc tế để sinh viên đi thực tập, du học, tìm kiếm việc làm và là cầu nối tri thức, chắp cánh ước mơ cho sinh viên trong tương lai. Quy hoạch xây dựng đội ngũ nhà giáo đảm bảo sự ổn định và phát triển đồng bộ về số lượng và chất lượng. Tổ chức tốt phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” trong nhà trường… Dịp này, nhà trường vinh dự nhận quyết định thành lập Đảng bộ Trường Cao đẳng Công thương Việt Nam trực thuộc Đảng ủy khối Doanh nghiệp quận Nam Từ Liêm. Đồng thời, ký kết hợp tác với một số đối tác nước ngoài cũng như ký kết với các doanh nghiệp về đào tạo, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực. Nhiều cán bộ, giảng viên, học sinh và sinh viên của nhà trường được biểu dương, khen thưởng./. Mai Thảo  

Không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo

BTĐKT - Chiều 20/11, tại Hà Nội, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tổ chức Lễ kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 và đón Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo các ngành Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh, Ngôn ngữ Anh, Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, Kinh doanh quốc tế. GS. TS Nguyễn Công Nghiệp, Phó Hiệu trưởng Thường trực nhà trường phát biểu tại lễ kỷ niệm Phát biểu tại lễ kỷ niệm, GS. TS Nguyễn Công Nghiệp, Phó Hiệu trưởng Thường trực nhà trường gửi lời tri ân sâu sắc đến toàn thể các thầy cô và những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong toàn trường; cám ơn những tấm gương lao động quên mình và tình yêu thương mà các thầy cô đã dành cho các em học sinh; cám ơn các thế hệ đã nối tiếp nhau viết nên những thành tựu to lớn của nhà trường.  Phó Hiệu trưởng Thường trực nhà trường mong rằng, với kiến thức sâu rộng và nhân cách mẫu mực, với tình yêu nghề nghiệp lớn lao, lòng nhiệt tình sâu nặng và trách nhiệm cao cả đối với các thế hệ tương lai của đất nước, các thầy cô sẽ tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp mà mình đang theo đuổi và gắn bó. ThS. Nguyễn Hữu Chiến, Chủ tịch Công đoàn trường phát động thi đua Tại lễ kỷ niệm, Công đoàn trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã phát động phong trào thi đua với chủ đề “Tri ân và tiếp bước”, chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, hướng tới kỷ niệm 30 năm thành lập trường. Đợt thi đua diễn ra trong 12 tháng, từ ngày 20/11/2024 - 20/11/2025, với các nội dung trọng tâm: Tiếp tục triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong đội ngũ nhà giáo, người lao động; tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng; giáo dục truyền thống 28 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của nhà trường, làm cho mỗi cán bộ, nhà giáo và người lao động tự ý thức mình phải làm gì để góp phần xây dựng nhà trường ngày càng hiện đại với chất lượng và kết quả giáo dục ngày càng cao. Cùng với đó, nhà trường tiếp tục tổ chức phát động các phong trào thi đua sâu rộng trong các công đoàn bộ phận, tổ công đoàn, bằng các chương trình, chuyên đề cụ thể, thiết thực, hiệu quả; trong đó tập trung đẩy mạnh phong trào thi đua dạy giỏi, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến phương pháp giảng dạy, nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, người lao động phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình. Thực hiện có hiệu quả chức năng của tổ chức Công đoàn là đại diện, chăm lo đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tích cực tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, nâng cao sức khỏe, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, sự đoàn kết thống nhất, gắn bó trong đội ngũ nhà giáo, người lao động, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, nhà giáo, người lao động. PGS. TS Nguyễn Phương Nga, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục trao Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo cho đại diện các khoa Nhân dịp này, nhà trường đã tổ chức công bố và trao Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo cho 5 ngành Luật kinh tế, Quản trị kinh doanh, Ngôn ngữ Anh, Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, Kinh doanh quốc tế. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục do Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng cấp năm 2021. Nhờ quan tâm đầu tư về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo để phục vụ tốt hơn cho người học, tới nay, trường đã có 12 ngành đào tạo đại học hệ chính quy đạt tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo. Phương Thanh

Tập huấn công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2024

BTĐKT - Từ ngày 7/11 - 9/11, tại TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức Lớp tập huấn bồi dưỡng “Công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác bảo vệ bí mật Nhà nước” năm 2024. Đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương khai mạc lớp tập huấn Dự lớp tập huấn, có các đồng chí: Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Đại tá, PGS.TS Nguyễn Trung Kiên, Trưởng Khoa An ninh chính trị nội bộ, Học viện An ninh nhân dân. Cùng dự lớp tập huấn, có đại diện lãnh đạo, công chức, viên chức các phòng, đơn vị thuộc Ban. Toàn cảnh lớp tập huấn Phát biểu khai mạc lớp tập huấn, đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương nhấn mạnh công tác bảo vệ chính trị nội bộ và bảo vệ bí mật Nhà nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng hiện nay. Đồng chí đề nghị báo cáo viên phổ biến và cập nhật những thông tin, quy định hữu ích, quan trọng có liên quan; tăng cường trao đổi kinh nghiệm thực tế, giải đáp những vướng mắc trong quá trình thực hiện và chia sẻ bài học kinh nghiệm thực tiễn về công tác này cho các học viên của lớp tập huấn. Đối với các học viên, đồng chí yêu cầu tham gia học tập đầy đủ, nghiêm túc, nắm bắt những kiến thức cần thiết để áp dụng thực hiện tại cơ quan, đơn vị; tích cực trao đổi, chia sẻ thông tin để giải quyết những vướng mắc liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bí mật Nhà nước diễn ra trong thực tế thực hiện nhiệm vụ. Đại tá, PGS.TS Nguyễn Trung Kiên - Trưởng Khoa An ninh chính trị nội bộ, Học viện An ninh nhân dân chia sẻ tại lớp tập huấn Tại lớp tập huấn, Đại tá, PGS.TS Nguyễn Trung Kiên - Trưởng Khoa An ninh chính trị nội bộ, Học viện An ninh nhân dân đã phổ biến những nội dung cơ bản liên quan tới công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác bảo vệ bí mật nhà nước, các vấn đề về giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời giải đáp các thắc mắc trong quá trình triển khai thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Các đại biểu, học viên dự lớp tập huấn chụp ảnh lưu niệm Trong khuôn khổ chương trình, các học viên đã đi thực tế tại Trung tâm phục vụ hành chính công thành phố Lạng Sơn và Cửa khẩu Hữu Nghị. Lớp tập huấn chụp ảnh lưu niệm tại Trung tâm phục vụ hành chính công thành phố Lạng Sơn Lớp tập huấn chụp ảnh lưu niệm tại Cửa khẩu Hữu nghị Ngọc Lân - Phương Thanh

Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

Tổng Bí thư Tô Lâm chụp ảnh lưu niệm cùng Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp. (Ảnh: Phương Mai) Để không bỏ lỡ những cơ hội phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, bám sát những chỉ đạo sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời gian gần đây, có thể thấy, đã rất chín muồi để thúc đẩy việc đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đó là nhận định trong bài viết "Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới" của TS. Nguyễn Hải Ninh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Báo Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của Bộ trưởng. Trong thành quả chung của quá trình Đổi mới, có đóng góp quan trọng của công tác xây dựng và thi hành pháp luật 1. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã dày công xây dựng nền pháp luật mang bản sắc riêng, đáng tự hào với những bộ luật nổi tiếng thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Cùng với “khoan thư sức dân”, “trọng pháp”, “trọng kỷ luật, kỷ cương”, “trọng hiền tài” đã trở thành những kế sách trị quốc được lưu truyền mãi. 2. Trên hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta đã ý thức rất rõ tầm quan trọng của Hiến pháp, pháp luật, của “thần linh pháp quyền” đối với việc “bảo toàn lãnh thổ”, “kiến thiết quốc gia”. Ngay sau khi giành độc lập, trong điều kiện cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên hàng đầu cho việc tiến hành tổng tuyển cử để Nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ, lập nên chính quyền của dân và ban hành bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, cũng là ngày sau này được lựa chọn là “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. TS. Nguyễn Hi Ninh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. 3. Trải qua cuộc trường chinh gian khổ, năm 1975 nước nhà thống nhất và đến năm 1986, Đảng ta phát động công cuộc đổi mới vĩ đại, từng bước hoàn thiện mô hình phát triển phù hợp hơn với thực tiễn đất nước. Nhu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, chuyển phương thức quản lý, điều hành từ chủ yếu dựa trên mệnh lệnh hành chính, quan liêu sang dựa trên luật lệ và tuân thủ quy luật thị trường ngày càng trở nên cấp thiết. Từ đó đến nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói riêng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, được thể hiện tập trung trong: Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ năm 1994; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011); Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Trong thành quả chung của quá trình Đổi mới, có đóng góp quan trọng của công tác xây dựng và thi hành pháp luật. 4. Mặc dù vậy, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta thời gian qua cho thấy còn những hạn chế, bất cập và những “điểm nghẽn” về thể chế như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra. Chẳng hạn: Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi, nhiều quy định còn gây khó khăn, cản trở việc thực thi, chưa tạo môi trường thật sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân; thủ tục hành chính còn rườm rà; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu… 5. Để không bỏ lỡ những cơ hội phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở những định hướng chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, bám sát những chỉ đạo sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời gian gần đây, có thể thấy, đã rất chín muồi để thúc đẩy việc đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó, cần chú trọng một số giải pháp trọng tâm sau đây: Kiên quyết phá bỏ mọi rào cản, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật Một là, cần đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển. Trong kỷ nguyên mới, pháp luật phải thật sự là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển và thúc đẩy phát triển; “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể”. Công tác xây dựng pháp luật phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, bắt kịp xu thế thời đại. Để đáp ứng yêu cầu này, pháp luật phải: (i) tháo gỡ các “điểm nghẽn” pháp lý, khẩn trương đưa nguồn lực xã hội bị đình trệ hoạt động trở lại; (ii) vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực phát triển đất nước; (iii) tạo cơ sở pháp lý hình thành các động lực tăng trưởng mới, các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mới, các ngành dịch vụ mới, các ngành công nghiệp mới. Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật phải bắt đầu từ việc kiên quyết thay đổi nhận thức, phá bỏ mọi rào cản, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong xây dựng pháp luật. Tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí tuân thủ, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”; tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thuận lợi. Dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, thực hiện tốt nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức thực hiện đúng chức trách theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thực hiện nghiêm yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Phân định rõ khâu xây dựng chính sách và quy phạm hóa chính sách Hai là, đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật gắn với nâng cao chất lượng văn bản pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi và hiệu quả, gắn với phân công rành mạch, trách nhiệm rõ ràng của từng chủ thể trong từng khâu của quy trình xây dựng văn bản pháp luật. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, gắn với trách nhiệm của cơ quan chủ trì hoạch định chính sách, nhất là người đứng đầu. Chính sách phải cụ thể, rõ ràng, tránh chung chung, tránh việc nhầm lẫn giữa chính sách của Nhà nước và chủ trương của Đảng. Các hoạt động tổng kết, khảo sát thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, thu thập thông tin, đánh giá tác động chính sách, lựa chọn chính sách cần được thực hiện kỹ lưỡng, nghiêm túc. Phân định rõ khâu xây dựng chính sách và quy phạm hóa chính sách; nghiên cứu tổ chức cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học và sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật. Chú trọng đánh giá tác động chính sách thực chất; xây dựng cơ chế hiệu quả để tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu tác động, nhất là đối với người dân, doanh nghiệp; không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và các quy định pháp luật. Thẩm quyền của chủ thể ban hành pháp luật phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy; nghiên cứu việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế đặc thù, thí điểm tháo gỡ, giải quyết triệt để, kịp thời những khó khăn, vướng mắc và những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới Ba là, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với sắp xếp lại bộ máy trong hệ thống chính trị, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm vận hành tốt nhất mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Khẩn trương xây dựng khuôn khổ pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, nhất là những vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh… Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong công tác xây dựng pháp luật trên cơ sở các định hướng nguyên tắc của Đảng, phục vụ việc hội nhập quốc tế sâu rộng. Tập trung kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật. Pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn và kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, là cầu nối đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Coi việc lãnh đạo thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật Bốn là, xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đưa tuân thủ pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của xã hội. Thường xuyên theo dõi, rà soát, đánh giá hiệu quả pháp luật sau ban hành, ứng dụng công nghệ trong tiếp nhận, phản hồi và xử lý các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp liên quan đến việc thực hiện pháp luật, xác định lỗi của văn bản pháp luật để kịp thời hoàn thiện. Sớm hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật; hoàn thiện quy định, cơ chế hướng dẫn, giải thích, áp dụng pháp luật theo hướng ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, áp dụng pháp luật, để bảo đảm sức sống của quy định pháp luật thay vì thường xuyên thay đổi pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và bảo đảm nguồn lực tài chính cho tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật. Có cơ chế tài chính đặc thù cho công tác xây dựng pháp luật và chính sách phù hợp cho đội ngũ pháp chế Năm là, quan tâm phát triển nguồn lực cho công tác pháp luật, tương xứng với tính chất là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn, trong đó, một bộ phận cán bộ sẵn sàng tham gia các thiết chế đa phương, tổ chức quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính đặc thù cho công tác xây dựng pháp luật, chế độ chính sách phù hợp để đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế yên tâm công tác, tận tâm cống hiến. Quan tâm đầu tư nguồn lực thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, ứng dụng các nền tảng số, trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để kết nối, liên thông, làm giàu cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư 6. Bám sát các chủ trương của Đảng, thực hiện nghiêm những chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước với tinh thần khẩn trương bằng quyết tâm, nỗ lực lớn, sự cố gắng vượt bậc, công tác xây dựng, thi hành pháp luật sẽ và phải đổi mới mạnh mẽ để đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. TS. Nguyễn Hải Ninh Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Theo baophapluat.vn

Giá trị, tầm vóc và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga bất diệ

Cách đây 107 năm, ngày 7/11/1917, Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo đã giành thắng lợi vẻ vang, mở ra bước ngoặt vĩ đại - khai sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Cuộc cách mạng “trời long, đất lở” ấy mãi mãi đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca bất diệt, với tính chất đột phá mở đường và dẫn đường, mang theo lý tưởng và khát vọng vô cùng cao đẹp: Xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Lãnh tụ Đảng Bôn-sê-vích V.I.Lênin tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết tại Đại hội Xô Viết ngày 7-11-1917 tại điện Smolny, ngay sau khi chiếm Cung điện mùa Đông. (Ảnh tư liệu) Cách mạng Tháng Mười Nga đã hiện thực hóa những khát vọng cháy bỏng từ ngàn đời của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột về một xã hội tốt đẹp, công bằng, bình đẳng, bác ái. Dù năm tháng có lùi xa, thế sự có xoay vần, dù các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị có muôn phương ngàn kế nhằm mưu đồ “lật sử”, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận giá trị, tầm vóc của Cách mạng Tháng Mười Nga, thì với ý nghĩa tiến bộ vượt bậc và nhân văn sâu sắc ấy, Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi trường tồn cùng lịch sử, là cuộc cách mạng điển hình nhất cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng lao động, giải phóng con người. Cách mạng Tháng Mười Nga soi sáng con đường giải phóng dân tộc cho các nước trên thế giới Để đánh giá khách quan, khoa học về tầm vóc và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, trước hết phải dựa trên sự đối sánh bối cảnh nước Nga trước và sau cuộc cách mạng vĩ đại đó. Thực tiễn cho thấy, trước Cách mạng Tháng Mười, nước Nga với chế độ chuyên chế độc tài phong kiến Nga Hoàng được ví như nhà tù hà khắc lớn nhất của các dân tộc phương Đông. Mùa thu năm 1917, nước Nga và Đảng Bôn-sê-vích đứng trước tình thế lịch sử ngàn cân treo sợi tóc: sự tham gia của đế quốc Nga Hoàng vào Đại chiến thế giới lần thứ nhất đã gây nên tổn thất vô cùng to lớn về sinh mạng và của cải. Khủng hoảng thượng tầng kiến trúc nước Nga bị đẩy lên đến đỉnh điểm khi các nước đế quốc Anh, Pháp,… tỏ rõ lập trường ủng hộ tuyệt đối giai cấp tư sản Nga, đẩy chế độ Nga Hoàng đến tình cảnh bị cô lập sâu sắc. Lúc này, giai cấp công – nông bị áp bức, bóc lột nặng nề hơn bao giờ hết, họ bị đẩy đến nỗi cùng khổ và quẫn bách tột cùng, nhưng cũng vì vậy ý thức đấu tranh giai cấp cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Rõ ràng, thảm họa kinh tế và sự hỗn loạn của xã hội đã gia tăng tới mức độ nguy hiểm, đẩy nước Nga đến bên bờ vực của sự sụp đổ. Trước tình hình đó, bộ tham mưu của Đảng và giai cấp công nhân Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã đánh giá đúng tình hình, lựa tình thế, chớp thời cơ ngàn năm có một để phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Những điều kiện cần và đủ đã hội tụ, thời cơ đã chín muồi, Cách mạng vô sản ở nước Nga nổ ra như là điều tất yếu của lịch sử. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ănnghen vào điều kiện cụ thể của nước Nga, vào đúng thời khắc lịch sử, Đảng Bôn-sê-vích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại, xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến Nga Sa hoàng lỗi thời phản động, đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ lầm than vươn lên trở thành người lao động có đầy đủ quyền tự do, dân chủ và địa vị làm chủ xã hội, lập nên Nhà nước Xô Viết – Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã tập trung củng cố chính quyền Xô Viết, xây dựng chế độ xã hội mới với mục tiêu đem lại cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho quần chúng nhân dân. “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất” được ban hành ngay sau khi cách mạng thành công là những quyết sách vô cùng quan trọng, có ý nghĩa vô cùng to lớn như “nắng hạn gặp mưa rào”, đã ngay lập tức cởi những nút thắt bế tắc về kinh tế - xã hội nước Nga, đáp ứng được khát vọng cháy bỏng của quần chúng nhân dân lao động Nga về một cuộc sống hòa bình, tự do và hạnh phúc. Cùng với đó là sự ra đời một chính sách ngoại giao mới mềm dẻo và linh hoạt, một quan hệ quốc tế mới hết sức nhân văn và tiến bộ - chính sách hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Một nhà nước kiểu mới được V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga xây dựng dựa trên cơ sở nền tảng quan hệ sản xuất tiến bộ - chế độ sở hữu tập thể, hướng tới mục tiêu tối thượng là xóa bỏ áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Đây chính là sự khác biệt lớn về chất, phản ánh sự tiến bộ vượt bậc trong quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng ở nước Nga so với các chế độ chính trị - xã hội đã và đang tồn tại đến lúc đó. Với ý nghĩa đó, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi đã giáng đòn sấm sét vào chế độ tư bản chủ nghĩa, đưa nước Nga vươn lên trở thành đối trọng trực tiếp, làm phá sản âm mưu thôn tính và cai trị thế giới của chủ nghĩa tư bản, mở ra kỷ nguyên mới, một thời đại mới, gieo mầm sống mới với biết bao niềm tin và hy vọng cho nhân loại cần lao tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh trường kỳ vì chủ nghĩa xã hội, vì dân chủ và hòa bình. Mặc dù đã 107 năm trôi qua kể từ sau sự kiện lịch sử làm rung chuyển thế giới, đánh dấu sự chuyển mình vĩ đại trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng âm hưởng và tinh thần bất diệt của những ngày tháng hào hùng của mùa Thu lịch sử ấy vẫn còn vang mãi, để lại nhiều bài học vô cùng quý báu, là ngọn cờ, chân lý đấu tranh, là ánh dương soi chiếu cho các dân tộc trên con đường thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc, chống chiến tranh, chống nô dịch, áp bức, bóc lột, bất công, quyền được sống làm người, quyền dân tộc tự quyết. Cách mạng Tháng Mười Nga soi sáng con đường cách mạng Việt Nam Cách mạng Tháng Mười Nga luôn có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng và sâu sắc, tác động trực tiếp và làm thay đổi vận mệnh dân tộc ta, đóng vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đây chiếc “Cẩm nang thần kỳ” – con đường cứu nước, cứu dân, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị vốn dĩ kéo dài hàng trăm năm. Sau gần 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã đến được với bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Kể từ đó, Người tin tưởng và khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, kể từ đây, cái tên Việt Nam đã lần đầu tiên tự hào ghi danh trên bản đồ thế giới. Từ hào khí thắng lợi vĩ đại ấy đã hun đúc ý chí và niềm tin bất diệt, cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, quyết chí bền gan, thừa thắng xông lên, để rồi liên tiếp giành được những kỳ tích vẻ vang mang tính lịch sử, bước ngoặt của dân tộc. Không chỉ vậy, tinh thần quật khởi của Cách mạng Tháng Mười còn là khởi nguồn, tiền đề vững chắc để củng cố niềm tin, tiếp thêm động lực, bồi đắp thêm lý tưởng chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho những người cộng sản, củng cố lực lượng và sức mạnh để Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới thành công và giành được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhờ có ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng Cách mạng Tháng Mười soi chiếu, đất nước ta mới gặt hái được rất nhiều thành tựu vẻ vang trên nhiều lĩnh vực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng tốt, đời sống của nhân ta ngày một cải thiện rõ rệt. Đặc biệt, những thành tựu vượt bậc sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng và nhân dân ta đã giành được chính là những minh chứng sinh động, bác bỏ mọi hoài nghi, khẳng định tính đúng đắn và phù hợp của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời ghi thêm dấu ấn thành công cho sự vận dụng, kế thừa và phát huy sáng tạo bài học Cách mạng Tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể Việt Nam, một lần nữa chứng minh sức sống mãnh liệt và tính ưu việt của mô hình chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực thông qua đổi mới, cải cách và ngày càng phát triển. Mặc dù hơn một thế kỷ đã trôi qua, nhưng tinh thần bất diệt, khí thế lịch sử hào hùng của cuộc cách mạng vĩ đại, khai sinh ra chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn mãi được nuôi dưỡng, trường tồn, được phát huy ngày càng rực rỡ bởi những người cộng sản chân chính, bởi nhân loại tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là cơ hội để Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam được tri ân, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với nhân dân Liên Xô và lãnh tụ V.I.Lênin vĩ đại, mà còn là dịp để chúng ta nhìn nhận đầy đủ, sâu sắc hơn về quá khứ, đánh giá hiện tại và triển vọng tương lai của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã điều chỉnh nội dung và phương thức thực hiện cho phù hợp với thực tiễn và cục diện thế giới mới; kiên định, trung thành với mục tiêu, lý tưởng con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Năm nay, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam hân hoan chào mừng kỷ niệm 107 năm thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại trong bối cảnh cục diện thế giới đang biến động khó lường. Trong bối cảnh đó, thêm một lần nữa, ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin với lý tưởng vô cùng cao đẹp về độc lập dân tộc, hòa bình, chống chiến tranh, chống áp bức, bóc lột, đòi quyền được sống làm người, quyền tự quyết dân tộc đã được Cách mạng vĩ đại Tháng Mười Nga hiện thực hóa lại vang lên, thôi thúc chúng ta phải tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý. Để góp phần thực hiện được lý tưởng đó, một trong những nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách mà chúng ta cần làm ngay là tăng cường cảnh giác, nhận diện và đấu tranh phản bác mọi quan điểm sai trái, phán xét, xuyên tạc phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại mà các thế lực thù địch, phản động luôn bày đặt. Hơn 100 năm qua, với những chiêu bài thâm độc, bằng những giọng điệu “lật sử”, các thế lực thù địch đang cố sức chống phá, tấn công thành trì của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận thành quả của cuộc cách mạng Tháng Mười vĩ đại, đồng nhất và quy chụp sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu với chủ nghĩa xã hội nói chung, từ đó đổ lỗi, lớn tiếng rêu rao Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm lịch sử”. Song, trên thực tế, những luận điệu hồ đồ đó đã không thể lừa phỉnh, qua mặt được bất kỳ ai, bởi tất cả đã bị những sự kiện, những nhân chứng lịch sử, những thắng lợi củng cố hiện thực mà chủ nghĩa xã hội đạt được hơn 100 năm qua được nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới công nhận. Do vậy, những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng của các thế lực thù địch trở nên méo mó và lạc lõng. Chào mừng kỷ niệm 107 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, hơn bao giờ hết, mỗi người dân Việt Nam càng hiểu sâu sắc hơn tầm vóc, giá trị, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga và những gì cuộc cách mạng này đem lại cho toàn thể dân tộc, càng thêm thấu hiểu lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, những hy sinh và mất mát, thêm yêu và trân quý giá trị của hòa bình và độc lập, càng khắc ghi niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn sâu sắc công lao trời biển của Bác Hồ kính yêu – Người đã đem ánh sáng chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười về với dân tộc Việt Nam. Thời gian dẫu có lùi xa, thế giới dù có biến động, nhưng tầm vóc, giá trị và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười vẫn còn vẹn nguyên, mãi mãi trường tồn, là ánh dương soi chiếu, “cuốn cẩm nang thần kỳ” định hướng, dẫn dắt con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại tiến bộ mà không một thế lực nào có thể ngăn cản, phủ nhận. Phát huy tinh thần và bài học của Cách mạng Tháng Mười, chúng ta càng tin tưởng khẳng định rằng: Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn duy nhất và đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./. Theo dangcongsan.vn

Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 09 năm 2024

Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Thông tư số 07/2021/TT-BTP ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quy định việc ban hành thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ Chính phủ ban hành, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 9 năm 2024, cụ thể như sau: I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH Trong tháng 9 năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 11 văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể: Các Nghị định của Chính phủ: 1. Nghị định số 111/2024/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định về hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng; 2. Nghị định số 112/2024/NĐ-CP ngày 11 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết về đất trồng lúa; 3. Nghị định số 113/2024/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; 4. Nghị định số 114/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; 5. Nghị định số 115/2024/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất; 6. Nghị định số 116/2024/NĐ-CP ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức; 7. Nghị định số 117/2024/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; 8. Nghị định số 118/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự; 9. Nghị định số 119/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh toán điện tử giao thông đường bộ; 10. Nghị định số 120/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: 1. Quyết định số 14/2024/QĐ-TTg ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ. II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Trên cơ sở thông tin do các bộ, cơ quan ngang bộ cung cấp (1), Bộ Tư pháp thông tin về hiệu lực thi hành, sự cần thiết, mục đích ban hành và nội dung chủ yếu của 10 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 9 năm 2024 như sau: 1. Nghị định số 111/2024/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ Quy định về hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2024. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 17/6/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Theo quy định tại khoản 2 Điều 161 Luật Xây dựng được sửa đổi, bổ sung tại khoản 60 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng có quy định về trách nhiệm của Chính phủ, trong đó có việc “quy định việc thực hiện dự án đầu tư xây dựng do cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước đầu tư tại nước ngoài và việc xây dựng, quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng”, đồng thời tại khoản 11 Điều 162 Luật Xây dựng được sửa đổi, bổ sung tại điểm d khoản 61 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng giao Bộ Xây dựng “xây dựng, quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng; quản lý, cung cấp thông tin phục vụ hoạt động đầu tư xây dựng”. Ngày 19/01/2022, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 509/VPCP-TH về Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2022, trong đó đồng ý với đề nghị của Bộ Xây dựng về việc nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng. Ngày 02/02/2023, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 578/VPCP-CN về gia hạn thời gian xây dựng một số Nghị định và Đề án của Bộ Xây dựng, trong đó xây dựng, trình Chính phủ Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng trong tháng 9/2023.  Việc xây dựng hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất trên toàn quốc, tập hợp thông tin, dữ liệu cơ bản về quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng/công trình xây dựng được chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ tầng thông tin, hướng đến việc cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin về hoạt động xây dựng phục vụ công tác quản lý nhà nước, hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, từ đó tạo sự đổi mới căn bản về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động xây dựng theo hướng hiện đại; đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm giấy tờ cho công dân, tổ chức; thúc đẩy việc công khai, minh bạch thông tin về hoạt động xây dựng, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của tổ chức, cá nhân có liên quan. Xây dựng Nghị định quy định về hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý, khai thác, và sử dụng dữ liệu, phục vụ quản lý nhà nước và nhu cầu của người dân, đồng thời đảm bảo tương thích với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, minh bạch và đúng thẩm quyền pháp lý; đảm bảo an toàn thông tin và ưu tiên chia sẻ dữ liệu về xây dựng giữa các cơ quan; đảm bảo tính thống nhất, hiện đại, phù hợp với chiến lược phát triển cơ sở dữ liệu của Chính phủ điện tử. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 Chương, 19 Điều quy định về hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, cụ thể như sau: - Chương I: Quy định chung, gồm 04 Điều, từ Điều 1 đến Điều 4. - Chương II: Xây dựng, quản lý khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng gồm 09 Điều, từ Điều 5 đến Điều 14. - Chương III: Tổ chức thực hiện, gồm 04 Điều, từ Điều 15 đến Điều 18. Nội dung chủ yếu của Nghị định - Phạm vi điều chỉnh: + Nghị định này quy định về hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng. + Nghị định này không áp dụng đối với thông tin, dữ liệu về quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng, công trình xây dựng quốc phòng, an ninh và bí mật nhà nước. - Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng. - Nguyên tắc xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng Để định hướng cho các nội dung khác của Nghị định, Điều 4 đã quy định 05 nguyên tắc được thực hiện trong quá trình xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, gồm: + Việc xây dựng, quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu được thực hiện tập trung, thống nhất, đồng bộ từ trung ương đến địa phương. + Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia được xây dựng, cập nhật nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về xây dựng. + Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu được duy trì hoạt động liên tục, ổn định, thông suốt và được lưu trữ lâu dài, đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật. + Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu được quản lý, bảo vệ chặt chẽ, bảo đảm an toàn thông tin theo quy định của pháp luật. + Việc xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng tuân thủ các quy định của Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng, Luật Tiếp cận thông tin; quy định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước và các quy định pháp luật khác có liên quan. - Về xây dựng, quản lý khai thác và sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu Nghị định quy định cụ thể về các hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng, Cơ sở dữ liệu về quy hoạch xây dựng (Điều 5, Điều 6); Cơ sở dữ liệu về dự án đầu tư xây dựng, công trình xây dựng (Điều 7); Mã số thông tin trong hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 8); Nguồn thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 9); Khởi tạo mã số thông tin và nhập thông tin, dữ liệu vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 10); Cập nhật, điều chỉnh thông tin trong hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 11); Khai thác, sử dụng hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 12); Quy định về kết nối với hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 13); Kinh phí xây dựng, cập nhật, duy trì, quản lý khai thác hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng (Điều 14). - Về tổ chức thực hiện Nghị định quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị đối với việc tổ chức thực hiện Nghị định, bao gồm: Trách nhiệm của Bộ Xây dựng (Điều 15); Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông (Điều 16); Trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ (Điều 17); Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 18). 2. Nghị định số 112/2024/NĐ-CP ngày 11 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết về đất trồng lúa a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 11 tháng 9 năm 2024). - Quy định chuyển tiếp + Chính sách hỗ trợ cho địa phương, người sản xuất lúa theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 7 Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa; chính sách sử dụng kinh phí theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 62/2019/NĐ-CP) được tiếp tục thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2024. + Trường hợp phương án sử dụng tầng đất mặt của công trình, dự án đã gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thẩm định hoặc đã được chấp thuận cho phép chuyển mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa sang mục đích phi nông nghiệp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 94/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trồng trọt về giống cây trồng và canh tác. + Trường hợp chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất chuyên trồng lúa sang trồng cây lâu năm đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng hằng năm hoặc đồng ý cho chuyển đổi trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 94/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trồng trọt về giống cây trồng và canh tác. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Căn cứ pháp lý + Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao đã đưa ra quan điểm: “Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai”; đồng thời đưa ra mục tiêu: “Nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng bảo đảm tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu quả”; + Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với quan điểm “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguồn lực của đất nước phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền, địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hoá theo hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; + Kết luận số 81-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030 đưa ra mục tiêu “Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp; giữ ổn định 3,5 triệu ha đất lúa, sản lượng lúa hằng năm bảo đảm ít nhất 35 triệu tấn, làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia”; + Nghị quyết số 39/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội đưa nhiệm vụ đến năm 2030 “Hoàn thiện các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện các dự án đầu tư theo quy hoạch; cho phép linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong phạm vi tối đa 300 nghìn ha đất trồng lúa nhưng không làm thay đổi tính chất, điều kiện sử dụng đất trồng lúa để có thể chuyển đổi trở lại trồng lúa khi cần thiết; hạn chế và kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi đất trồng lúa, nhất là đất chuyên trồng lúa nước sang đất phi nông nghiệp, đặc biệt là đất khu công nghiệp”; + Luật Đất đai năm 2024 tại Điều 182 giao Chính phủ quy định chi tiết về đất trồng lúa; + Luật Trồng trọt năm 2018: tại Điều 56 giao Chính phủ quy định chi tiết về chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa; Điều 57 giao Chính phủ quy định chi tiết về bảo vệ và sử dụng tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước; Các nội dung này đang được triển khai thực hiện theo quy định tại Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa (sau đây gọi là Nghị định số 35/2015/NĐ-CP); Nghị định 62/2019/NĐ- CP ngày 11/7/2019 của của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định số 62/2019/NĐ-CP); Nghị định số 94/2019/NĐ-CP ngày 13/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trồng trọt về giống cây trồng và canh tác (sau đây gọi là Nghị định số 94/2019/NĐ-CP); + Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 05 tháng 4 năm 2024 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2024 và hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương, trong đó giao: “Các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tập trung chỉ đạo xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, bảo đảm đủ điều kiện để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội cho phép thi hành sớm hơn các Luật này...”; + Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Đất đai số 31/2024/QH15; Cơ sở thực tiễn Thời gian qua, để triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013, Luật Trồng trọt năm 2018, Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định quy định các nội dung liên quan tới việc quản lý, sử dụng đất trồng lúa, gồm: Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2025, Nghị định 62/2019/NĐ-CP ngày 11/7/2019 và Điều 13,14 Nghị định số 94/2019/NĐ-CP ngày 13/12/2019. Việc ban hành kịp thời, đầy đủ và đồng bộ các quy định chi tiết Luật Đất đai, Luật Trồng trọt đã tạo ra hành lang pháp lý một cách chặt chẽ, khả thi và đầy đủ trong việc quản lý, sử dụng đất trồng lúa đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân chuyển đổi linh hoạt cơ cấu cây trồng trên đất lúa, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất trồng trọt, tăng thu nhập cho người dân và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tầng đất mặt đất trồng lúa được bóc tách, sử dụng vào mục đích nông nghiệp khi tổ chức, cá nhân xây dựng công trình trên đất trồng lúa được chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp; chính sách hỗ trợ và bảo vệ đất trồng lúa góp phần cải tạo, tăng độ phì của đất, hỗ trợ tổ chức, cá nhân nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng mới, áp dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất lúa; hỗ trợ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm... Từ đó, nâng cao thu nhập, đời sống người dân trồng lúa, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, ổn định xã hội và phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện cho thấy một số nội dung quy định tại Nghị định số 35/2015/NĐ-CP, Nghị định số 62/2019/NĐ-CP, Điều 13, 14 của Nghị định số 94/2019/NĐ-CP đã phát sinh những bất cập không còn phù hợp với thực tiễn, cần được xem xét sửa đổi, bổ sung, quy định cụ thể: Thứ nhất, việc bóc tách và sử dụng tầng đất mặt khi xây dựng công trình trên đất trồng lúa được chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp chưa quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục thẩm định, chấp thuận Phương án sử dụng tầng đất mặt, do đó chưa có đủ căn cứ pháp lý để thẩm định, kiểm tra, giám sát việc bóc tách, sử dụng tầng đất mặt hiệu quả. Thứ hai, nội dung, mức hỗ trợ địa phương sản xuất lúa được quy định cách đây 10 năm tại Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của Chính phủ, do đó một số địa phương trong quá trình tổng kết thi hành các nghị định đã đề nghị nâng mức hỗ trợ để hỗ trợ tốt hơn cho người nông dân trồng lúa nhằm đảm bảo bù đắp lạm phát trung bình 5%/năm trong thời gian qua. Thứ ba, việc sử dụng kinh phí hỗ trợ tại điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị định số 35/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 62/2019/NĐ-CP) quy định: “sử dụng không thấp hơn 50% kinh phí dùng hỗ trợ người trồng lúa để áp dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất; hỗ trợ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm” chưa phù hợp với điều kiện cụ thể từng địa phương và từng giai đoạn khác nhau, gây khó khăn trong quá trình thực thi. Ngoài ra, tại khoản 5 Điều 182 Luật Đất đai năm 2024 quy định nội dung mới là cho phép được sử dụng một phần diện tích đất trồng lúa để xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, do vậy cần phải quy định chi tiết về điều kiện, tỷ lệ, thủ tục, thẩm quyền cho phép xây dựng công trình để các địa phương tổ chức thực hiện. Từ những căn cứ pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về đất trồng lúa là cần thiết. - Mục đích ban hành: Nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý về quản lý, sử dụng đất trồng lúa theo quy định của Luật Đất đai năm 2024, Luật Trồng trọt năm 2018, từ đó khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành; đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất trồng lúa. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 04 Chương 20 Điều quy định chi tiết về đất trồng lúa, cụ thể như sau: + Điều 1. Phạm vi điều chỉnh. + Điều 2. Đối tượng áp dụng. + Điều 3. Giải thích từ ngữ. + Điều 4. Quy định chung về thực hiện thủ tục hành chính. + Điều 5. Vùng quy hoạch trồng lúa có năng suất, chất lượng cao. + Điều 6. Quy định về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa. + Điều 7. Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa. + Điều 8. Hồ sơ, trình tự thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa. + Điều 9. Xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên đất trồng lúa. + Điều 10. Quy định bóc tách và sử dụng tầng đất mặt khi xây dựng công trình trên đất được chuyển đổi từ đất chuyên trồng lúa sang mục đích phi nông nghiệp. + Điều 11. Hồ sơ, trình tự thẩm định phương án sử dụng tầng đất mặt. + Điều 12. Quy định về nộp tiền để nhà nước bổ sung diện tích đất chuyên trồng lúa bị mất hoặc tăng hiệu quả sử dụng đất trồng lúa. + Điều 13. Trình tự, thủ tục nộp tiền để nhà nước bổ sung diện tích đất chuyên trồng lúa bị mất hoặc tăng hiệu quả sử dụng đất trồng lúa + Điều 14. Hỗ trợ địa phương sản xuất lúa. + Điều 15. Sử dụng kinh phí hỗ trợ. + Điều 16. Chính sách đầu tư, hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng, áp dụng khoa học và công nghệ hiện đại cho vùng quy hoạch trồng lúa có năng suất, chất lượng cao. + Điều 17. Nguồn vốn hỗ trợ đầu tư và lập, chấp hành, quyết toán kinh phí thực hiện các chính sách. + Điều 18. Hiệu lực thi hành. + Điều 19. Quy định chuyển tiếp. + Điều 20. Trách nhiệm thi hành. 3. Nghị định số 113/2024/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2024. Nghị định này bãi bỏ: (1) Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012; (2) Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012; (3) Các điều, khoản: khoản 1 và 3 Điều 3, Điều 4 của Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Chính phủ về tổ hợp tác. Nghị định này sửa đổi: Điều 5, Điều 6, khoản 3 Điều 15, Điều 24, khoản 6 Điều 29 của Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Chính phủ về tổ hợp tác. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Luật Hợp tác xã số 17/2023/QH15 (Luật HTX 2023) được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 5 ngày 20/6/2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024. Luật đã cơ bản giải quyết các vấn đề vướng mắc, hạn chế trong các quy định của chính sách, pháp luật hiện hành. Một số vấn đề cần được tiếp tục cụ thể hóa tại các văn bản quy định chi tiết và giao Chính phủ hướng dẫn. Tại Quyết định số 857/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp 5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được phân công là cơ quan chủ trì soạn thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu, rà soát, xây dựng Nghị định theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. - Mục đích ban hành: Cụ thể hóa các quy định được giao tại Luật HTX năm 2023 nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp; nâng cao hiệu quả các chính sách hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm; hướng đến phát huy bản chất, nguyên tắc, giá trị tốt đẹp của mô hình HTX; qua đó thúc đẩy các tổ chức kinh tế tập thể phát triển năng động, hiệu quả, bền vững; xây dựng hệ sinh thái các tổ chức kinh tế hợp tác mạnh, giúp nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của các thành viên và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 06 Chương, 25 Điều và 01 Phụ lục quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã, cụ thể như sau: - Chương I: Quy định chung; - Chương II: Phân loại HTX; - Chương III: Chính sách của Nhà nước về hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; - Chương IV: Tài sản, tài chính của HTX, liên hiệp HTX; - Chương V: Tổ chức thực hiện; - Chương VI: Điều khoản thi hành; - Phụ lục các biểu mẫu: (1) Mẫu số 1. Đơn đăng ký nhu cầu hỗ trợ; (2) Mẫu số 2. Thông báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký nhu cầu hỗ trợ của tổ hợp tác/HTX/liên hiệp HTX; (3) Mẫu số 3. Thông báo tổng hợp nhu cầu hỗ trợ của tổ hợp tác/HTX/liên hiệp HTX. Nội dung chủ yếu của Nghị định - Nghị định này quy định chi tiết 15 Điều, khoản của Luật HTX 2023, gồm: Điều 16 về phân loại HTX; các Điều 18, 20, 24, 25, 26, 27 và khoản 2 Điều 28 liên quan đến các chính sách phát triển tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; các Điều 81, 82 về thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần tham gia doanh nghiệp của HTX, liên hiệp HTX; khoản 3 Điều 83 về hoạt động cho vay nội bộ; khoản 2 Điều 85 liên quan đến giao dịch nội bộ; các Điều 99, 101 về xử lý tài sản khi HTX, liên hiệp HTX giải thể; và khoản 5 Điều 107 liên quan đến tổ hợp tác. - Nghị định áp dụng cho các đối tượng: (1) Tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; (2) Thành viên tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; (3) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. - Các nội dung của Nghị định gồm: (1) Xác định lĩnh vực, tiêu chí phân loại, quy mô phân loại HTX; (2) Tiêu chí lựa chọn, đối tượng, nội dung, mức hỗ trợ, nguồn kinh phí và tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước về hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; (3) Điều kiện HTX, liên hiệp HTX thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần tham gia doanh nghiệp; (4) Điều kiện HTX, liên hiệp HTX thực hiện hoạt động cho vay nội bộ và mức cho vay, giới hạn cho vay, lãi suất, xử lý rủi ro từ hoạt động cho vay nội bộ; (5) Xác định các giao dịch nội bộ và thu nhập từ giao dịch nội bộ của HTX, liên hiệp HTX; (6) Xử lý tài sản theo nguồn hình thành khi HTX, liên hiệp HTX giải thể, phá sản; (7) Bãi bỏ, sửa đổi một số điều của Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019 của Chính phủ về tổ hợp tác. 4. Nghị định số 115/2024/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 16 tháng 9 năm 2024). b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Trên cơ sở Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV và thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 857/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 về việc ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 10 Chương, 74 điều, 03 phụ lục quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, cụ thể như sau: Những quy định chung; Quy trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, một giai đoạn hai túi hồ sơ; quy trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi theo phương thức hai giai đoạn một túi hồ sơ; quy trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án cần xác định số lượng nhà đầu tư quan tâm; Phương pháp, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu; triển khai thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất; nội dung thẩm định và trách nhiệm thẩm định, phê duyệt trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư; xử lý tình huống và kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; lựa chọn nhà đầu tư qua mạng và các điều khoản thi hành. 03 Phụ lục kèm theo Nghị định (Phụ lục I – Quy trình lựa chọn nhà đầu tư; Phụ lục II – Bảng theo dõi tiến độ thực hiện các hoạt động lựa chọn nhà đầu tư; Phụ lục III– Hướng dẫn lập hợp đồng mẫu dự án đầu tư có sử dụng đất). - Phạm vi điều chỉnh của Nghị định gồm các dự án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 126 của Luật Đất đai và dự án quy định tại điểm b khoản 1 Điều 126 của Luật Đất đai (gồm dự án đầu tư xây dựng: công trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt; công trình cấp nước; chợ; công trình trạm dừng nghỉ; công trình dịch vụ hàng không tại cảng hàng không sân bay; các dự án có từ 02 nhà đầu tư trở lên quan tâm: dự án thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; nhà ở xã hội; cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư; nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; đầu tư trường đua ngựa, đua chó trong đó có hoạt động kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó; công trình năng lượng và các dự án khác thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 và điểm b khoản 1 Điều 126 của Luật Đất đai). - Để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với quy định của Luật Đất đai năm 2024, Nghị định 115/2024/NĐ-CP sửa đổi một số nội dung của Nghị định số 23/2023/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực; Nghị định số 31/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/3/2021quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 60/2024/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/6/2024 về phát triển và quản lý chợ; 137/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện lực và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực; Nghị định số 05/2021/NĐ-CP ngày 25/01/2021 của Chính phủ về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay. 5. Nghị định số 116/2024/NĐ-CP ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 17 tháng 9 năm 2024). b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra chủ trương: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”. Để cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo nêu trên, từ năm 2021 đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (2) đã ban hành nhiều văn bản mới liên quan đến công tác cán bộ. Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; để kịp thời thể chế hóa các quy định của Đảng, bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng Nghị định số 138/2020/NĐ-CP, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2024/NĐ-CP. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 Điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức, cụ thể như sau: - Điều 1 gồm 46 khoản, trong đó sửa đổi 43 nội dung; bổ sung 03 nội dung mới (Điều 31a, Điều 31b, Điều 68a) (3); bỏ các cụm từ không còn phù hợp tại 8 Điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP. - Điều 2 bãi bỏ Điều 12 và khoản 2 Điều 13 Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21/02/2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức. - Điều 3: Gồm 05 khoản quy định về hiệu lực của Nghị định và điều khoản chuyển tiếp. - Điều 4: Quy định trách nhiệm thi hành. Những nội dung mới của Nghị định - Các nội dung rà soát, chỉnh lý bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định của Đảng: + Sửa đổi, bổ sung quy định về bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý (tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại; bố trí công tác đối với trường hợp không được bổ nhiệm lại) bảo đảm phù hợp với Quy định số 80-QĐ/TW; về miễn nhiệm, từ chức (điều kiện, trình tự, thủ tục; bố trí công tác sau khi từ chức, miễn nhiệm; chế độ, chính sách) bảo đảm phù hợp với Quy định số 65-QĐ/TW; về luân chuyển (tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện luân chuyển, kế hoạch luân chuyển, nhận xét, đánh giá bố trí công tác đối với công chức sau luân chuyển) bảo đảm phù hợp với Quy định số 41-QĐ/TW; + Bổ sung quy định về thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong việc bổ nhiệm cấp phó (nhân sự từ nguồn tại chỗ hoặc nhân sự từ nguồn ở nơi khác) và đối với bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp trưởng của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp hành chính do mình trực tiếp quản lý bảo đảm phù hợp với Quy định số 142-QĐ/TW; + Bổ sung quy định về tạm đình chỉ chức vụ (về thẩm quyền tạm đình chỉ, căn cứ tạm đình chỉ, thời hạn tạm đình chỉ, quy trình xem xét tạm đình chỉ) bảo đảm phù hợp với Quy định số 148-QĐ/TW; + Bổ sung trường hợp ưu tiên trong tuyển dụng công chức đối với cán bộ công đoàn trưởng thành từ cơ sở, trong phong trào công nhân theo tinh thần của Nghị quyết số 02-NQ/TW; + Bổ sung quy định trong trường hợp có sự khác nhau giữa văn bản của Đảng và văn bản của Nhà nước do chưa kịp thể chế hóa phù hợp thì thực hiện theo quy định mới của cấp có thẩm quyền. Bộ Nội vụ hướng dẫn việc thực hiện các quy định này, bảo đảm thực hiện đồng bộ, thống nhất trong hệ thống cơ quan hành chính theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. - Các nội dung đẩy mạnh phân cấp, cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình; giải quyết khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn và bảo đảm đồng bộ với quy định của pháp luật + Về tuyển dụng công chức: (i) Rút gọn quy trình tuyển dụng từ 195 - 225 ngày xuống còn 125 - 145 ngày; (ii) Quy định bắt buộc tổ chức thi vòng 1 trên máy tính (bỏ hình thức thi trên giấy); bỏ quy định thi tin học tại vòng 1; mở rộng các trường hợp được miễn thi ngoại ngữ; bổ sung quy định người trúng tuyển không phải nộp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học; (iii) Bỏ hình thức phỏng vấn là một hình thức độc lập trong tuyển dụng (thi vòng 2 lựa chọn 1 trong 2 hình thức: Viết hoặc kết hợp viết và phỏng vấn); cho phép các cơ quan căn cứ vào đặc thù có thể lựa chọn hình thức thi trên máy tính (lượng thí sinh tuyển dụng lớn, yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành như thuế, hải quan, kho bạc, ngân hàng…); (iv) Bỏ quy định người trúng tuyển phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp; bổ sung quy định cơ quan tuyển dụng yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với người trúng tuyển theo tinh thần Quyết định số 498/QĐ-TTg (4); (v) Bổ sung quy định về vị trí việc làm được tuyển dụng chung, theo đó các cơ quan có thể tuyển dụng được những người có điểm số cao nhất trong cùng vị trí việc làm; thí sinh có kết quả cao có thể có nhiều cơ hội trúng tuyển hơn; (vi) Sửa đổi, bổ sung quy định không thực hiện sát hạch đối với trường hợp tiếp nhận cán bộ, công chức cấp xã vào làm công chức cấp huyện trở lên hoặc trường hợp tiếp nhận để bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý; (vii) Quy định rõ thực hiện sát hạch bằng hình thức vấn đáp (thay vì lựa chọn viết hoặc phỏng vấn hoặc kết hợp viết và phỏng vấn) do đối tượng được tiếp nhận hầu hết đều đã qua các kỳ tuyển dụng; (viii) Quy định đối với trường hợp công chức cấp huyện trở lên được điều động, luân chuyển về làm cán bộ, công chức cấp xã thì khi có nhu cầu, cấp có thẩm quyền thực hiện điều động trở lại công chức cấp huyện mà không phải thực hiện thủ tục tiếp nhận. - Về nâng ngạch công chức: (i) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương phân cấp theo hướng bộ, ngành, địa phương có thẩm quyền quyết định việc tổ chức thi nâng ngạch mà không phải có ý kiến thống nhất của Bộ Nội vụ; (ii) Bổ sung quy định chi tiết về xét nâng ngạch khi có thành tích trong hoạt động công vụ theo hướng giảm yêu cầu về thành tích, bảo đảm phù hợp với từng ngạch dự xét; (iii) Bổ sung quy định xét nâng ngạch khi được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý theo hướng mở rộng đối tượng được xét nâng ngạch, đặc biệt là từ nhân viên lên cán sự, cán sự lên chuyên viên; giảm thiểu đối tượng phải dự thi nâng ngạch ở tất cả các bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc; (iv) Bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong việc xây dựng ngân hàng câu hỏi, đáp án môn Kiến thức chung và công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Nội vụ để cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi nâng ngạch công chức xem xét, quyết định việc sử dụng để xây dựng đề thi môn kiến thức chung; bảo đảm công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho thí sinh. 6. Nghị định số 117/2024/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2024. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Cơ sở pháp lý - Ngày 15/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Nghị định này đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tạo hành lang pháp lý quan trọng để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong phạm vi toàn quốc (Nghị định số 82/2020/NĐ-CP). Tại Kỳ họp thứ 10, ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022. Luật số 67/2020/QH14 được ban hành với những quy định sửa đổi, bổ sung liên quan trực tiếp đến Nghị định số 82/2020/NĐ-CP như: Bổ sung quy định về việc giao Chính phủ quy định về hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện, việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; về áp dụng tình tiết tăng nặng đối với trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần; sửa đổi, bổ sung thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh có thẩm quyền xử phạt... + Ngày 18/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, trong đó có quy định về xử phạt đối với hành vi của luật sư khi tham gia tố tụng. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, quy định về xử phạt vi phạm hành chính của luật sư quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cũng cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung. + Ngày 23/12/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (Nghị định số 118/2021/NĐ-CP), trong đó, quy định các yêu cầu, nguyên tắc để làm căn cứ quy định tại các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước về hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính… Bên cạnh đó, sau khi Nghị định số 82/2020/NĐ-CP được ban hành, một số văn bản quy pháp pháp luật về quản lý trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, đăng ký biện pháp bảo đảm cũng đã có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế. Do vậy, quy định của Nghị định này cũng cần được điều chỉnh để đảm bảo sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. - Ngày 05/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 05/8/2022 về Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt giai đoạn 2021 – 2025 giao nhiệm vụ các Bộ, ngành (trong đó có Bộ Tư pháp) xây dựng quy định xử phạt vi phạm hành chính về phòng, chống rửa tiền tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong tất cả các ngành nghề có liên quan. Những nội dung sửa đổi, bổ sung từ các văn bản nêu trên đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất, đồng bộ của các quy định về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nói riêng. Cơ sở thực tiễn Thực tiễn sau gần 03 năm thi hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cho thấy, một số hành vi quy định tại Nghị định chưa bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc người có thẩm quyền xử phạt khi áp dụng quy định xử phạt gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định; một số hành vi vi phạm diễn ra xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, tuy nhiên lại chưa có chế tài để xử lý (5). Bên cạnh đó, một số hành vi vi phạm (các hành vi vi phạm hành chính quy định tại: khoản 4, 5, 6 Điều 7; khoản 4 Điều 9; khoản 4, 5, 6 Điều 16; khoản 4, 5 Điều 24; khoản 6 Điều 33; khoản 5 Điều 39 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP) thuộc thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành và Chánh Thanh tra của Sở Tư pháp. Tuy nhiên, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP chưa quy định thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành và Chánh Thanh tra của Sở Tư pháp đối với các hành vi nêu trên. Ngoài ra, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP hiện hành không quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho lực lượng Công an nhân dân đối với một số hành vi vi phạm quy định tại Nghị định như sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung các giấy tờ của cơ quan nhà nước; ứng xử, phát ngôn ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của cá nhân; đe dọa, cưỡng ép, xúi giục người khác có hành vi vi phạm pháp luật; đe dọa, cưỡng ép người có thẩm quyền… vì vậy cần bổ sung thẩm quyền của lực lượng này để bảo đảm tính kịp thời khi xử lý vi phạm hành chính. Từ cơ sở pháp lý và thực tiễn đã nêu, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là rất cần thiết, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật của cơ quan, lực lượng chức năng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời gian tới. - Mục đích ban hành: + Việc xây dựng Nghị định nhằm quy định chi tiết một số điều, khoản mà Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2020 (Luật XLVPHC) giao Chính phủ quy định chi tiết, bảo đảm phù hợp, thống nhất với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác có liên quan. + Kịp thời cập nhật, bổ sung những quy định trong các văn bản pháp luật mới ban hành nhằm bảo đảm sự đầy đủ, toàn diện, thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo thuận lợi trong áp dụng pháp luật, khắc phục những vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 Điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, cụ thể như sau: - Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP. - Điều 2: Bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ, điểm, khoản, điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP. - Điều 3: Trách nhiệm tổ chức thực hiện. - Điều 4: Điều khoản thi hành. Nội dung cơ bản của Nghị định - Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP Trên cơ sở rà soát các quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP với các quy định của Luật XLVPHC, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác có liên quan, Điều 1 Nghị định dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP để bảo đảm phù hợp với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 4 Luật XLVPHC, bao gồm: quy định về đối tượng bị xử phạt; về hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện; về việc thi hành các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả; về việc áp dụng tình tiết tăng nặng trong trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần (khoản 3 Điều 1 Nghị định). Đối với việc quy định áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm nhiều lần, trên cơ sở tính chất, mức độ của hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể, Nghị định quy định về vấn đề này như sau: - Lĩnh vực bổ trợ tư pháp, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; lý lịch tư pháp về cơ bản sẽ áp dụng xử phạt từng hành vi trong trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần, trừ một số trường hợp liệt kê cụ thể sẽ áp dụng tình tiết tăng nặng (các hành vi cụ thể đã được liệt kê tại điểm b khoản 2 Điều 4a dự kiến bổ sung). - Lĩnh vực bồi thường nhà nước sẽ áp dụng phạt từng hành vi vi phạm. - Lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đăng ký biện pháp bảo đảm, nuôi con nuôi, phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải ở cơ sở, hợp tác quốc tế, hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự áp dụng tình tiết tăng nặng đối với vi phạm hành chính nhiều lần, không xử phạt theo từng hành vi. Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về việc xử lý đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung để bảo đảm phù hợp với Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, cụ thể: Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP thì: “Đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung, thì phải quy định biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động đó”. Theo đó: - Đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung: Nghị định đã chỉnh sửa các quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP liên quan đến việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung: “Tịch thu tang vật là giấy phép, chứng chỉ hành nghề... bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung” đối với hành vi cố ý tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung các loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động thành biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại giấy chứng nhận, xác nhận, giấy phép, văn bản cho phép, chứng chỉ bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp các loại giấy chứng nhận, xác nhận, giấy phép, văn bản cho phép, chứng chỉ đó”. - Đối với giấy tờ, tài liệu (không phải là giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động) bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như sau: (i) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính (là các loại giấy tờ bị sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung); (ii) Buộc nộp lại bản chính (các loại giấy tờ bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung); (iii) Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối giấy tờ đã được cấp trên cơ sở hồ sơ, giấy tờ bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung (nếu có).  Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung quy định cụ thể về thủ tục thi hành biện pháp khắc phục hậu quả này tại Nghị định (khoản 4 Điều 1 Nghị định). Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về hành vi vi phạm hành chính của luật sư khi tham gia tố tụng để bảo đảm thống nhất với Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Theo đó, luật sư có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 và áp dụng hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” và “tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam có thời hạn” (khoản 6 Điều 1 Nghị định). Thứ tư, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến phòng chống rửa tiền tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp theo Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 05/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt giai đoạn 2021 – 2025. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành (trong đó có Bộ Tư pháp) xây dựng quy định xử phạt vi phạm hành chính về phòng chống rửa tiền tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong tất cả các ngành nghề có liên quan (khoản 17 Điều 1 Nghị định). Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi này cho công chức, viên chức Sở Tư pháp, công chức Thanh tra Bộ Tư pháp và công chức các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp; bổ sung thẩm quyền xử phạt cho Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Cục Bổ trợ tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm để bảo đảm phù hợp với một số văn bản quy pháp pháp luật về quản lý trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, đăng ký biện pháp bảo đảm mới được ban hành, đồng thời, nhằm khắc phục một số vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn, cụ thể: - Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm hành chính để bảo đảm phù hợp với các văn vản quy phạm pháp luật lĩnh vực bổ trợ tư pháp, đăng ký biện pháp bảo đảm mới được ban hành, cụ thể như sau: + Bổ sung các hành vi: (i) Hội công chứng viên không tham gia bàn giao hồ sơ công chứng giữa Phòng công chứng bị giải thể hoặc Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động với tổ chức hành nghề công chứng khác theo quy định, (ii) chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng không đúng quy định của pháp luật (theo quy định tại Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Công chứng). + Bổ sung các hành vi: (i) luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không lập báo cáo về hoạt động của mình gửi Đoàn Luật sư và Sở Tư pháp nơi đăng ký hành nghề của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, (ii) không lập, quản lý, sử dụng sổ sách, biểu mẫu theo quy định (theo quy định tại Thông tư số 05/2021/TT-BTP ngày 24/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư). + Bổ sung các hành vi: (i) không thông báo hoặc thông báo công khai kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản không đúng thời hạn hoặc không đúng mẫu quy định, (ii) lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thuộc trường hợp bị từ chối đánh giá hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn theo quy định pháp luật, (iii) không xem xét, xác minh thông tin phản ánh về việc tổ chức đấu giá tài sản cố ý cung cấp thông tin không chính xác hoặc giả mạo thông tin về tiêu chí trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn, (iv) không báo cáo cơ quan có thẩm quyền về việc lựa chọn và kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản kèm theo kết quả xác minh trong trường hợp tổ chức đấu giá tài sản cố ý cung cấp thông tin không chính xác hoặc giả mạo thông tin về tiêu chí trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn (theo quy định tại Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản). + Sửa đổi tên Điều 55 thành “Hành vi vi phạm quy định về khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu, về đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm”; sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 của Điều 55 thành “Gian lận, mạo nhận, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép mã số sử dụng cơ sở dữ liệu, tài khoản đăng ký trực tuyến của cá nhân, tổ chức để thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm” (theo quy định tại Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm). - Sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp và hoạt động hòa giải ở cơ sở để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát sinh các hành vi vi phạm: + Sửa đổi, bổ sung các hành vi trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp: (i) công chứng viên hướng dẫn tập sự không nhận xét đầy đủ theo quy định về quá trình tập sự hành nghề công chứng đối với người tập sự do mình hướng dẫn; (ii) công chứng viên là thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng nhưng không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết; (iii) không ký trực tiếp vào văn bản công chứng; (iv) vi phạm quy định về thông báo và gửi bản sao hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho Sở Tư pháp khi mua bảo hiểm hoặc thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm; (v) tiếp nhận thành viên hợp danh mới của Văn phòng công chứng không đúng quy định của pháp luật; (vi) không thực hiện việc tiếp nhận đầy đủ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng bị giải thể hoặc Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động theo chỉ định của Sở Tư pháp; (vii) phân công một đấu giá viên hướng dẫn từ 03 người trở lên tập sự hành nghề đấu giá tại cùng một thời điểm; (viii) không lưu hình ảnh niêm yết trong hồ sơ đấu giá của tổ chức đấu giá tài sản theo quy định… + Bổ sung hành vi vi phạm hành chính liên quan đến hoạt động hòa giải ở cơ sở: (i) cản trở hoạt động hòa giải ở cơ sở đối với tổ hòa giải, hòa giải viên; (ii) cản trở các bên giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng hòa giải ở cơ sở (khoản 43 Điều 1 Nghị định). Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của một số chức danh tại các điều 83, 84, 85, 86 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP để bảo đảm thống nhất với các quy định về biện pháp khắc phục hậu quả dự kiến sửa đổi, bổ sung như đã nêu trên tại Nghị định. Thứ bảy, bổ sung thẩm quyền xử phạt cho Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành và Chánh Thanh tra của Sở Tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại: khoản 4, 5, 6 Điều 7; khoản 4 Điều 9; khoản 4, 5, 6 Điều 16; khoản 4, 5 Điều 24; khoản 6 Điều 33; khoản 5 Điều 39 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP. Bổ sung thẩm quyền xử phạt cho lực lượng Công an nhân dân đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 5a, các điểm c và e khoản 6, các điểm a, b, d và g khoản 7 Điều 6; các điểm a và b khoản 3 Điều 10; các điểm a và d khoản 3 Điều 12; điểm b khoản 6 Điều 15; các khoản 2 và 3 Điều 19; các điểm b và c khoản 3, các điểm a và b khoản 7 Điều 22; các điểm a, b và h khoản 1, các điểm a và b khoản 3 Điều 23; các điểm c và h khoản 4 Điều 32; điểm g khoản 2 Điều 53; Điều 54; các Điều 58, 59, 60, 61 Nghị định này. Theo đó, các hành vi dự kiến bổ sung thẩm quyền của Công an nhân dân chủ yếu là các vi phạm liên quan đến cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật sửa chữa, tẩy xóa, làm giả giấy tờ của cơ quan nhà nước; ứng xử, phát ngôn ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của cá nhân; đe dọa, cưỡng ép, xúi giục người khác có hành vi vi phạm pháp luật; móc nối với cơ quan, người có thẩm quyền làm trái pháp luật; cung cấp thông tin tài liệu sai sự thật; đe dọa, cưỡng ép người có thẩm quyền; cản trở hoạt động của cá nhân, tổ chức; các hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự… Việc bổ sung thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân đối với các hành vi vi phạm nêu trên nhằm bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật hành chính; bảo đảm tính kịp thời trong phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, tránh trường hợp khi Công an nhân dân phát hiện lại phải chuyển vụ việc đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Ngoài ra, Nghị định cũng đã bổ sung thẩm quyền xử phạt của Chánh Thanh tra tỉnh, có thẩm quyền xử phạt cùng mức phạt với thẩm quyền của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Bộ Tư pháp (căn cứ theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 116 Luật Thanh tra năm 2022) tại điểm đ khoản 1 Điều 2 Nghị định để bảo đảm phù hợp với Luật Thanh tra năm 2022. - Bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ, điểm, khoản, điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP Điều 2 Nghị định quy định về việc bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ, điểm, khoản, điều của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật XLVPHC (sửa đổi, bổ sung năm 2020), chủ yếu là quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh, đồng thời, nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, cũng như trong nội tại văn bản. - Trách nhiệm tổ chức thực hiện Điều 3 dự thảo Nghị định quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện, Theo đó, dự thảo Nghị định quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện Nghị định này. Đồng thời, cũng quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị định của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Điều khoản thi hành Điều 4 dự thảo Nghị định quy định về điều khoản thi hành, trong đó quy định về ngày có hiệu lực thi hành của Nghị định. Đồng thời, dự thảo Nghị định quy định về việc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật sư thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 5a dự kiến bổ sung vào Điều 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đối với người có thẩm quyền hoặc những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Toà án. Theo đó, luật sư thực hiện hành vi vi phạm này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 21 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Khoản 3 Điều 4 dự thảo Nghị định quy định về điều khoản chuyển tiếp như sau: - Đối với hành vi vi phạm xảy ra và đã kết thúc trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực mà bị phát hiện hoặc đang xem xét ra quyết định xử phạt khi Nghị định này đã có hiệu lực thì áp dụng quy định của Nghị định này nếu Nghị định này không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn. - Đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã được ban hành hoặc đã được thi hành xong trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành, mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính còn khiếu nại thì áp dụng quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP để giải quyết. 7. Nghị định số 118/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 11 năm 2024 thay thế Nghị định số 133/2020/NĐ-CP ngày 09/11/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Thực hiện Quyết định số 1041/QĐ-TTg ngày 19/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Bộ Công an đã chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 133/2020/NĐ-CP ngày 09/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 25/12/2020. Sau 03 năm triển khai thi hành Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, công tác quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo và thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân, học sinh đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đã được thực hiện đảm bảo công khai, minh bạch, đúng quy định; mang lại hiệu quả tích cực, làm chuyển biến về nhận thức của phạm nhân, học sinh; giúp phạm nhân, học sinh tin tưởng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước, yên tâm tư tưởng, xoá bỏ mặc cảm, tích cực học tập rèn luyện, cải tạo tiến bộ để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực hiện một số quy định, chế độ, chính sách cho phạm nhân, học sinh trường giáo dưỡng, cụ thể về các mặt: + Về công tác giam giữ phạm nhân Điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “Nhà giam chung: Mỗi buồng giam giam giữ không quá 50 phạm nhân”. Tuy nhiên, thực trạng hệ thống công trình giam giữ của các trại giam chưa được xây dựng thống nhấttheo một mẫu chung, các nhà giam, buồng giam được xây dựng trong nhiều thời kỳ khác nhau do đó thiết kế mẫu nhà giam chung hiện nay có nhiều loại, kích thước, diện tích khác nhau, trong đó cả buồng giam có quy mô giam giữ trên 50 phạm nhân. Số lượng buồng giam có quy mô giam giữ trên 50 phạm nhân đảm bảo 02m2/phạm nhân là 548 buồng giam, chiếm tỉ lệ hơn 18% trên tổng số 3.402 buồng giam hiện có của 54 trại giam. Theo quy định cũ, việc giam giữ tối đa 50 phạm nhân trong một buồng giam gây lãng phí cho công trình giam giữ và không phù hợp với thực tế quy mô thiết kế các buồng giam hiện có. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, tăng số lượng phạm nhân tối đa mà buồng giam tại nhà giam chung có thể giam giữ. + Về thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân Khoản 5 Điều 7 Nghị định số 133/2020/NĐ-CPquy định: “Phạm nhân được sử dụng điện, nước sinh hoạt theo định mức quy định”. Hiện nay, Bộ Công anchưa có văn bản nào quy định về định mức điện, nước mà phạm nhân được sử dụng để các cơ sở giam giữ có căn cứ thống nhất áp dụng. Mặt khác, việc ban hành định mức điện, nước sinh hoạt mà phạm nhân được sử dụng là rất khó khăn và không phù hợp với điều kiện thực tế của các cơ sở giam giữ phạm nhân, xuất phát từ các lý do sau: (i) Các trại giam thường đóng quân cách xa trung tâm, khu dân cư nên việc cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt cho phạm nhân là hết sức khó khăn, nguồn nước phục vụ sinh hoạt cho phạm nhân chủ yếu từ các giếng khoan, nước mặt từ các hồ chứa nước được xử lý công nghiệp. Nếu quy định định mức nước phạm nhân được sử dụng thì rất nhiều cơ sở giam giữ, nhất là các đơn vị đóng quân tại các tỉnh miền trung, Tây Nguyên thường xuyên thiếu nước vào mùa khô sẽ phát sinh chi phí rất lớn để mua nước sạch cho phạm nhân sử dụng. (ii) Thực tế tại mỗi phân trại, số lượng phạm nhân giam giữ thường không đúng theo quy mô, không ổn định mà thay đổi từng ngày (do phạm nhân nhập và ra trại), việc sử dụng điện, nước vào từng thời điểm lại khác nhau (mùa hè và các tháng có ngày lễ, tết thông thường sẽ sử dụng điện, nước nhiều hơn). (iii) Các công trình thuộc khu giam giữ phạm nhân được xây dựng theo mẫu thiết kế chung của Bộ Công an, đều đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ và yêu cầu sử dụng, trong đó đã tính toán đến hệ thống điện, hệ thống cấp nước đảm bảo công suất hoạt động cũng như an toàn chung. Vì vậy, việc ban hành định mức sử dụng điện, nước sinh hoạt cho phạm nhân sẽ không khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của tất cả các cơ sở giam giữ phạm nhân. Do đó cần thiết phải sửa đổi nội dung này nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của các cơ sở giam giữ phạm nhân. + Quy định về công tác khám, chữa bệnh cho phạm nhân (i) Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “Trường hợp phạm nhân bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng điều trị thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân quyết định trích xuất đến cơ sở khám bệnh,… Trường hợp vượt quá khả năng điều trị của bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện cấp quân khu thì theo chỉ định của Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân báo cáo Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an xem xét, quyết định việc điều trị tiếp theo;…”. Theo đó, trong nhiều trường hợp do phải thực hiện quy trình đề nghị nên việc cứu chữa có thể không kịp thời, ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của phạm nhân. (ii) Khoản 5 Điều 9 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “Đối với phạm nhân có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm giảm khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình…”. Quy định này không thống nhất với khoản 3 Điều 55 Luật Thi hành án hình sự “… bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình…”. + Quy định về công tác phổ biến pháp luật, giáo dục công dân, phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật; hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; dạy văn hóa và dạy nghề cho phạm nhân (i) Trong giai đoạn ngay sau khi phạm nhân được đưa đến chấp hành án, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP chưa có quy định về việc phổ biến, giáo dục cho phạm nhân trong trường hợp xảy ra dịch bệnh, thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; trường hợp có dưới 05 phạm nhân hoặc phạm nhân bị ốm đau, bệnh tật khó có thể tổ chức lớp học. (ii) Trong giai đoạn phạm nhân đang chấp hành án, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP chưa có quy định về việc tổ chức phổ biến, giáo dục trong các trường hợp:phạm nhân mới được đưa đến; phạm nhân có mức án ngắn hoặc thời gian chấp hành án còn lại ngắn; sốlượng phạm nhân mỗi lớp học; số lượng phạm nhân ít không đủ để mở lớp. (iii) Trong giai đoạn phạm nhân chuẩn bị chấp hành xong án phạt tù, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP chưa có quy định về việc tổ chức phổ biến, giáo dục riêng đối với phạm nhân đã được Tổ thẩm định liên ngành của Hội đồng tư vấn đặc xá thẩm định có đủ điều kiện được đề nghị đặc xá, phạm nhân được lập hồ sơ đề nghị Tòa án xét tha tù trước thời hạn có điều kiện hoặc phạm nhân đã được lập hồ sơ đề nghị Tòa án giảm hết thời hạn chấp hành án còn lại. (iv) Khoản 3 Điều 31 Luật Thi hành án hình sự quy định: “Chương trình, nội dung học tập, học nghề của phạm nhân do Chính phủ quy định”. Tuy nhiên, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP chưa có quy định về nội dung này. (v) Điều 50 Luật Thi hành án hình sự đã quy định về hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Điều luật này không giao Chính phủ quy định chi tiết. Vì vậy tên của Mục 2 Chương III, tên Điều 12 và quy định tại khoản 6 Điều 12 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP là không phù hợp với Điều 50 Luật Thi hành án hình sự. + Quy định về công tác xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân  (i) Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993 ngày 17/12/2002 Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành 04 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và quy định xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; trải qua các giai đoạn khác nhau, do sự thay đổi của mô hình tổ chức nhưng quy định 04 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù vẫn được kế thừa và hướng dẫn thực hiện trong Thông tư số 40/2011/TT-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 27/6/2011 quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Thông tư số 06/2018/TT-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 12/02/2018 thay thế Thông tư số 40/2011/TT-BCA. Trong thực tiễn các cơ sở giam giữ khi tổ chức cho phạm nhân kiểm điểm và xếp loại theo 04 tiêu chuẩnthi đua chấp hành án phạt tù đều không có khó khăn, vướng mắc. Việc tổ chức cho phạm nhận đánh giá xếp loại theo các tiêu chí được quy định tại Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, về thực chất thì vẫn cơ bản theo các nội dung của 04 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù nhưng các nội dung lại bị tách nhỏ ra gây trùng lặp không cần thiết. Việc đánh giá phạm nhân theo mức độ ăn năn hối cải được quy định còn mang tính định tính. (ii) Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định “Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù được nhận xét, đánh giá, xếp loại chấp hành án phạt tù định kỳ theo: Tuần, tháng, quý, 06 tháng, 01 năm”. Đồng thời điểm a quy định: “Phạm nhân đã được nhận xét, đánh giá thái độ, kết quả chấp hành án phạt tù từ 04 ngày trở lên trong một tuần thì được xếp loại tuần”. Quá trình thực hiện phát sinh vướng mắc là chưa có quy định về trường hợp tuần có các ngày thuộc hai tháng, tuần có từ 03 ngày trở xuống thì xếp loại tháng như thế nào. Trong thực tế, hàng ngày phạm nhân đều được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù. Việc căn cứ kết quả nhận xét, đánh giá chấp hành án phạt tù theo ngày để xếp loại chấp hành án phạt tù tháng vẫn đảm bảo chặt chẽ và phù hợp với thực tế. Việc quy định xếp loại chấp hành án phạt tù theo tuần phát sinh nhiều thủ tục mà cán bộ quản giáo của các cơ sở giam giữ phạm nhân phải thực hiện (hiện Bộ Công an đang thực hiện trình tự, thủ tục xếp loại theo Thông tư số 103/2020/TT-BCA ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân). (iii) Điểm a, b khoản 1 Điều 18 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “a) Phạm nhân đã được nhận xét, đánh giá thái độ, kết quả chấp hành án phạt tù từ 04 ngày trở lên trong một tuần thì được xếp loại tuần. Xếp loại tuần vào ngày thứ Sáu hằng tuần. Thời gian xếp loại tuần tính từ ngày thứ Bảy tuần trước đến ngày thứ Sáu tuần sau đó; b) Phạm nhân đã được xếp loại từ 03 tuần trở lên trong một tháng thì được xếp loại tháng. Xếp loại tháng vào ngày 25 hằng tháng. Thời gian xếp loại tháng kể từ ngày 26 của tháng trước đến ngày 25 của tháng sau đó. Trường hợp phạm nhân đã chấp hành án phạt tù được 20 ngày trong 01 tháng, thì thời gian xếp loại được tính từ ngày 06 đến ngày 25 của tháng đó.” Bất cập theo quy định nêu trên là có trường hợp phạm nhân chấp hành án 18 ngày đã được xếp loại 3 tuần vì vậy đủ điều kiện xếp loại tháng, tuy nhiên lại không đúng quy định tại khoản b là phải chấp hành án ít nhất được 20 ngày. Vì vậy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP có sự mâu thuẫn, từ đó phát sinh vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tổ chức thực hiện. (iv) Điểm b, c, d, đ khoản 1 Điều 18 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “Xếp loại tháng vào ngày 25 hằng tháng. Thời gian xếp loại tháng kể từ ngày 26 của tháng trước đến ngày 25 của tháng sau đó. Xếp loại quý I vào ngày 25 tháng 02, quý II vào ngày 25 tháng 5, quý III vào ngày 25 tháng 8, quý IV vào ngày 25 tháng 11. Thời gian xếp loại 06 tháng đầu năm kể từ ngày 26 tháng 11 của năm trước đến ngày 25 tháng 5 của năm sau đó; xếp loại 06 tháng cuối năm kể từ ngày 26 tháng 5 đến ngày 25 tháng 11 của năm đó. Xếp loại 01 năm vào ngày 25 tháng 11 hằng năm. Thời gian xếp loại của 01 năm kể từ ngày 26 tháng 11 của năm trước đến ngày 25 tháng 11 của năm sau đó”. Mốc thời gian để xếp loại như quy định trênkhông trùng với mốc tháng, quý, cả năm của Luật Kế toán nên gây khó khăn cho việc xác định phạm nhân có hoàn thành chỉ tiêu định mức được giao hay khôngbởi kết quả lao động của phạm nhân trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối tháng. Vì vậy, khi tổ chức áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP trong thực tiễn phát sinh vướng mắc, bất cập. (v) Điểm d khoản 2 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định: “Phạm nhân phải thực hiện đầy đủ các tiêu chí xếp loại chấp hành án phạt tù sau đây thì được xếp loại tốt: d) Có tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tích cực trong lao động, nghiêm túc chấp hành sự phân công của cán bộ, tham gia đầy đủ 100% ngày công, lao động có chất lượng, hiệu quả, hoàn thành 100% định mức công việc và vượt định mức hoặc tiến độ được giao,...”. Trên thực tế, rất khó khăn cho phạm nhân có thể tham gia đầy đủ 100% ngày công vì phạm nhân còn được thực hiện các chế độ chính sách như: liên lạc điện thoại với thân nhân, thăm gặp thân nhân, nghỉ ốm, tham gia học tập…; việc xác định phạm nhân lao động vượt định mức ở các đội vệ sinh, chăn nuôi,phục vụ bếp... rất khó xác định. (vi) Điều 35 Luật Thi hành án hình sự quy định việc xếp loại chấp hành án phạt tù, trong đó tại khoản 4 giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Tuy nhiên Nghị định số 133/2020/NĐ-CP mới chỉ quy định về điều kiện, tiêu chuẩn xếp loại tốt/khá/trung bình/kém mà chưa có quy định về: (1) Định kỳ xếp loại tốt/khá/trung bình/kém; (2) Xếp loại chấp hành án trong trường hợp phạm nhân lập công; (3) Xếp loại đối với phạm nhân đang được trích xuất để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử và phạm nhân tham gia tố tụng với vai trò là bị can, bị cáo; (4) Xem xét lại quyết định xếp loại chấp hành án phạt tù. Các nội dung này chưa được quy định trong Nghị định hiện đang thực hiện theo Thông tư số 103/2021/TT-BCA ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân. Do đó, cần thiết phải bổ sung các quy định này vào Nghị định quy định chi tiết một số điều Luật Thi hành án hình sự để đảm bảo đúng quy định tại khoản 4 Điều 35 Luật Thi hành án hình sự. + Quy định về sử dụng kết quả lao động, dạy nghề (i) Khoản 3 Điều 17 Nghị định 133/2020/NĐ-CP quy định về việc chi trả một phần công lao động cho phạm nhân trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về đối tượng, nguyên tắc, căn cứ và định mức chi trả nên khó khăn cho các đơn vị thống nhất thực hiện. Điều này còn quy định trích chi hỗ trợ cho phạm nhân bị tai nạn lao động, tuy nhiên chưa có định mức chi trả cụ thể. Mặt khác, quỹ hỗ trợ cho phạm nhân bị tai nạn lao động trong thực tế ít sử dụng nên thường có số dư, các đơn vị không có mục chi nào khác cho khoản quỹ này nên gây lãng phí, mục đích quỹ kém hiệu quả. (ii) Quỹ phúc lợi, khen thưởng của trại giam chỉ có nguồn thu duy nhất từ việc trích từ kết quả lao động, học nghề của phạm nhân. Căn cứ vào kết quả trích bổ sung Quỹ phúc lợi và Quỹ khen thưởng (20%) trong những năm qua thì nguồn thu này không đảm bảo cho các hoạt động được quy định tại điểm a, b khoản 4 Điều 17 do số lượng cán bộ chiến sĩ và phạm nhân lớn (gần 23.400 cán bộ chiến sĩ và 172.000 phạm nhân); đa số các đơn vị trại giam đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, ăn ở tập trung nên việc nâng cao đời sống cho cán bộ chiến sĩ về cơ sở vật chất và động viên tinh thần là hết sức cần thiết, đáp ứng được các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hỗ trợ kinh phí cho phạm nhân khi bị bệnh, gặp rủi ro, điều trị tại bệnh xá, trạm xá, bệnh viện, từ đó phạm nhân có tinh thần lạc quan, trách nhiệm hơn trong quá trình cải tạo. (iii) Trong những năm qua, nguồn 40% đầu tư trở lại cho các trại giam đã đầu tư xây dựng nhà xưởng dạy nghề cho các trại giam nhằm nâng cao năng lực, tạo việc làm và thực hiện tốt việc quản lý. Hiện tại ở các trại giam, mỗi phân trại đều được bố trí từ 01 đến 02 nhà xưởng, nếu giảm nguồn chi (xuống 35%) về cơ bản vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. (iv) Nghị định số 133/2020/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về sử dụng kết quả lao động vượt chỉ tiêu, định mức lao động của phạm nhân nên gây khó khăn trong công tác thực hiện và chưa khuyến khích phạm nhân tích cực, tăng năng suất lao động nhằm đạt được kết quả vượt chỉ tiêu. + Thời hạn xử lý kỷ luật, thi hành quyết định kỷ luật Tại khoản 2 Điều 23 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP quy định về việc phạm nhân có quyết định kỷ luật phải có thời gian theo dõi, thử thách để được công nhận đã cải tạo tiến bộ nhưng chưa quy định cụ thể về việc khi phạm nhân vi phạm kỷ luật chưa được công nhận cải tạo tiến bộ, nếu tiếp tục có quyết định kỷ luật mới thì thời hạn theo dõi thử thách của các quyết định kỷ luật cũ và mới là bao lâu, thời gian theo dõi thử thách tính từ thời điểm nào; thời gian công nhận cải tạo tiến bộ đối với số phạm nhân phạm tội mới trong thời gian chấp hành án, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi đó nên gây khó khăn cho các cơ sở giam giữ khi tổ chức thực hiện. + Chế độ ăn, mặc của học sinh trường giáo dưỡng Hiện nay, chế độ ăn của học sinh trường giáo dưỡng vẫn chưa đảm bảo cho học sinh ăn no, đủ dinh dưỡng để phát triển thể chất. Học sinh trong trường giáo dưỡng là trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn phát triển thể chất, cần hàm lượng lớn chất dinh dưỡng để phát triển, nâng cao thể trạng. Trong khi đó, hầu hết học sinh đều có hoàn cảnh khó khăn, khi vào trường đều gầy yếu, chiều cao thấp và ít được thân nhân thăm gặp, gửi tiền, quà,…Do đó, cần thiết phải nâng chế độ, khẩu phần ăn cho học sinh. Ngoài ra, khoản 2 Điều 28 quy định: “Học sinh vào trường giáo dưỡng được cấp 01 màn, 01 chăn sợi. Từ Thừa Thiên - Huế trở ra phía Bắc và 05 tỉnh Tây Nguyên, mỗi học sinh được cấp thêm 01 áo ấm, 02 đôi tất và 01 mũ len, 01 chăn bông có vỏ nặng không quá 02 kg dùng trong 02 năm”. Tuy nhiên, hiện nay cả nước chỉ có 03 trường giáo dưỡng đóng tại 03 khu vực Bắc, Trung, Nam, không có trường nào đóng trên địa bàn Tây Nguyên, nên việc áp dụng cho địa bàn 05 tỉnh Tây Nguyên là chưa phù hợp. Mặt khác, Trường giáo dưỡng Số 3 đóng trên địa bàn xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng (giáp với huyện Nam Đông và Phú Lộc của tỉnh Thừa Thiên - Huế), khu vực đơn vị đóng quân là vùng núi cao nên về mùa đông thời tiết rất lạnh. Vì vậy cần thiết phải sửa đổi, bổ sung thêm chế độ mặc đối với học sinh từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc cho phù hợp với thực tiễn. + Chế độ chăm sóc y tế đối với học sinh trường giáo dưỡng Khoản 3 Điều 29 Luật Thi hành án hình sự có quy định về trường hợp học sinh bị ốm nặng đã được chuyển đến cơ sở y tế cấp huyện, cấp tỉnh nơi có trường giáo dưỡng để điều trị. Tuy nhiên chưa có quy định về trường hợp vượt quá khả năng điều trị của cơ sở y tế cấp huyện, cấp tỉnh thì chủ thể nào có thẩm quyền xem xét, quyết định việc điều trị tiếp theo, vì vậy các trường giáo dưỡng không có căn cứ để thống nhất thực hiện. Từ những khó khăn, vướng mắc bất cập nêu trong triển khai thực hiện Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, Bộ Công an nhận thấy việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thay thế Nghị định số 133/2020/NĐ-CP là rất cần thiết. - Mục đích ban hành: Hoàn thiện các quy định về thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân, học sinh chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết, khắc phục các khó khăn, vướng mắc, phát sinh trong thực tiễn triển khai Luật Thi hành án hình sự và Nghị định 133/2020/NĐ-CP; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, chế độ, chính sách của phạm nhân. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 05 Chương, 44 Điều quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự, cụ thể như sau: - Chương I. Quy định chung, gồm 03 điều (từ Điều 1 đến Điều 3). - Chương II. Quy định về cơ cấu tổ chức của trại giam, gồm 03 điều (từ Điều 4 đến Điều 6). - Chương III. Quy định về nhóm chế độ, chính sách đối với phạm nhân, phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi; học sinh trường giáo dưỡng; xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù và xử lý phạm nhân vi phạm; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong giáo dục cải tạo phạm nhân, gồm 20 điều (từ Điều 7 đến Điều 26). Quy định về xử lý phạm nhân vi phạm, gồm 04 điều (từ Điều 27 đến Điều 30). Quy định về trách nhiệm của chính quyền địa phương, gồm 03 điều (từ Điều 31 đến Điều 33). Quy định chế độ, chính sách đối với phạm nhân là người nước ngoài, gồm 01 điều (Điều 34). Quy định về chế độ đối với học sinh chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, gồm 02 điều (Điều 35, Điều 36). - Chương IV. Quy định về thi hành quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối với người đang chấp hành án phạt tù, gồm 06 điều (từ Điều 37 đến Điều 42). Quy định thi hành quyết định tiếp nhận đối với người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án, gồm 03 điều (từ Điều 37 đển Điều 39). Quy định thi hành quyết định Hiệu lực thi hành (Điều 43); trách nhiệm thi hành (Điều 44). Nội dung cơ bản của Nghị định Nghị định kế thừa những nội dung còn phù hợp của Nghị đinh số 133/2020/NĐ-CP, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản, điểm không phù hợp, phát sinh khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Cụ thể những nội dung được sửa đổi, bồ sung như sau: - Chương I. Những quy định chung quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; kinh phí đảm bảo cho việc quản lý phạm nhân và thực hiện các chế độ, chính sách đối với phạm nhân. Các nội dung này được giữ như quy định cùa Nghị định số 133/2020/NĐ-CP. - Chương II. Quy định về cơ cấu tổ chức của trại giam về tổ chức quản lý trại giam: Nội dung của Chương II Nghị định tập trung, sửa đổi điểm b khoản 1 Điều 6 Nghi định 133/2020/NĐ-CP về số lượng phạm nhân gjam giữ tại nhà giam chung như sau: "Nhà giam chung: Mỗi buồng giam giam giữ không quá 80 phạm nhân” đề phù hợp với thực trạng hệ thống công trình giam giữ của các trại giam hiện nay, tránh lãng phí. - Chương III. Quy định về nhóm chế độ, chính sách đối với phạm nhân, phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi; học sinh trường giáo dường; xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù và xử lý phạm nhân vi phạm; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong giáo dục cải tạo phạm nhân. Để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và giải quyết một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, Nghị định đã sửa đổi 12 điều, sửa đổi tên 01 mục tại Chương III và bổ sung 07 điều mới so vơi quy định của Nghị định số 133/2020/NĐ-CP. Theo đó, nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào các vẩn đề như: chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân, chương trình, nội dung học tập của phạm nhân; sử dụng kết quả lao động, học nghề của phạm nhân; điều kiện, tiêu chuẩn, định kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù; chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế đối với học sinh trường giáo dưỡng;...                                                      : - Chương IV. Quy định về thi hành quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối với người đang chấp hành án phạt tù: Nội dung cua chương này vẫn giữ nguyên như quy định của Nghị định số 133/2020/NĐ-CP. - Chương V. Điều khoản thi hành: Quy định về hiệu lực thi hành, trách nhiệm thi hành và bổ sung thêm về quy định chuyển tiếp giữa Nghị định 133/2020/NĐ-CP và Nghị định mới khi Nghị định mới có hiệu lực. 8. Nghị định số 119/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh toán điện tử giao thông đường bộ a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2024 - Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ vận hành từ ngày 01/7/2026. Các nội dung có liên quan đến Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ quy định trong Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/7/2026. - Quy định chuyển tiếp: + Việc thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử không dừng đã được thực hiện theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được thực hiện đến 01/7/2026 + Nhà cung cấp dịch vụ thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ được quy định theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ là Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ được quy định tại Nghị định này. + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ tiếp tục thu tiền sử dụng đường bộ theo các quy định về thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử không dừng tại Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đến ngày 01/7/2026 + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán giao thông đường bộ và Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ kết nối hệ thống điều hành và trung tâm dữ liệu để kết nối, chia sẻ thông tin tài khoản giao thông đến ngày 01/7/2026. Chi phí kết nối theo thỏa thuận giữa các bên với nhau. + Các cơ quan, đơn vị liên quan điều chỉnh hợp đồng dự án và các nội dung liên quan đã thực hiện theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ để phù hợp với Nghị định này. Việc bổ sung dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đường bộ vào hợp đồng ký giữa Nhà cung cấp dịch vụ thu phí dịch vụ sử dụng đường bộ được quy định theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ với cơ quan có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở đàm phán, điều chỉnh hợp đồng. + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ hoàn thiện việc chuyển tài khoản thu phí của chủ phương tiện theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ sang tài khoản giao thông kết nối với phương tiện thanh toán của chủ phương tiện trước ngày 01/10/2025. + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ hoàn thiện việc chuyển tiền từ tài khoản thu phí của chủ phương tiện theo Quyết định số 19/2020/QĐ-TTg ngày 17/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ sang phương tiện thanh toán của chủ phương tiện được kết nối với tài khoản giao thông trước ngày 01/10/2025. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Nghị định Việc xây dựng Nghị định để triển khai quy định chi tiết thi hành Luật Đường bộ (khoản 3 Điều 6 và Điều 43). - Mục đích ban hành: Ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số vào công tác quản lý nhà nước nhằm đem lại hiệu quả tối đa, minh bạch trong hoạt động quản lý, tạo thuận lợi cho người tham gia giao thông trong hoạt động liên quan đến thanh toán dịch vụ của phương tiện giao thông đường bộ. Đồng thời, để triển khai hướng dẫn thi hành quy định tại khoản 3 Điều 6, khoản 4 Điều 43 Luật Đường bộ nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc thanh toán điện tử giao thông đường bộ là hết sức cần thiết. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 6 Chương, 38 Điều và 01 Phụ lục quy định về thanh toán điện tử giao thông đường bộ, cụ thể như sau: - Chương I: Quy định chung: từ Điều 1 đến Điều 5. - Chương II: Hệ thống thanh toán điện tử giao thông: từ Điều 6 đến Điều 10. - Chương III: Mở và sử dụng tài khoản giao thông: từ Điều 11 đến Điều 14. - Chương IV: Thanh toán điện tử giao thông: từ Điều 15 đến Điều 28. - Chương V: Trách nhiệm của các đơn vị trong thanh toán điện tử giao thông: từ Điều 29 đến Điều 35. - Chương VI: Tổ chức thực hiện: từ Điều 36 đến Điều 38. - Phụ lục: Thông tin trong cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ - Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định chi tiết về thanh toán điện tử giao thông đường bộ; tài khoản giao thông; thanh toán tiền sử dụng đường bộ trên đường cao tốc; cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ - Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động thanh toán điện tử giao thông đường bộ Nội dung cơ bản của Nghị định - Dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đường bộ Tại khoản 1 Điều 43 Luật Đường bộ quy định “1. Thanh toán điện tử giao thông đường bộ là việc thanh toán các loại phí, giá, tiền dịch vụ liên quan đến hoạt động giao thông của phương tiện giao thông đường bộ thông qua tài khoản giao thông.” Theo đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ phương tiện khi thanh toán các dịch vụ liên quan đến hoạt động của phương tiện, Nghị định quy định mở tài khoản giao thông để thực hiện thanh toán các dịch vụ liên quan đến hoạt động của phương tiện là một trong những điểm mới nhằm khắc phục những bất cập trong thời gian qua. - Quy định về Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ Để phục vụ quản lý nhà nước và chia sẻ dữ liệu tài khoản giao thông cho các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đường bộ, Bộ GTVT xây dựng Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ, là một nội dung của cơ sở dữ liệu đường bộ được quy định tại Điều 6 Luật Đường bộ. - Quy định về Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử Nghị định phân loại Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đường bộ thành hai đối tượng, như sau: + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ để thu tiền sử dụng đường bộ (bao gồm nhà cung cấp dịch vụ thu phí được quản lý theo Quyết định 19/2020/QĐ-TTg). Các nhà cung cấp dịch vụ này sẽ thực hiện phát hành thẻ đầu cuối, mở tài khoản giao thông… thực hiện đồng bộ tài khoản giao thông lên hệ thống quản lý tài khoản giao thông thuộc cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ. Các nhà cung cấp dịch vụ này được cung cấp dịch vụ khác (thu phí bãi đỗ xe…) nếu hợp đồng với cơ quan có thẩm quyền cho phép. + Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán giao thông đường bộ không tham gia thu tiền sử dụng đường bộ. Các đơn vị này sẽ được kết nối, chia sẻ thông tin tài khoản giao thông từ hệ thống quản lý tài khoản giao thông tập trung để thực hiện thu các dịch vụ liên quan đến phương tiện như thu phí bãi đỗ xe. - Quy định về mở và sử dụng tài khoản giao thông Nghị định quy định nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ mở tài khoản giao thông cho chủ phương tiện ngay lần đầu gắn thẻ đầu cuối. Tài khoản giao thông phải được kết nối với một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt theo quy định của pháp luật ngân hàng để thực hiện thanh toán điện tử giao thông đường bộ. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do tổ chức cung ứng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cung cấp thông qua hợp đồng dịch vụ với Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử phối hợp với tổ chức cung ứng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cung cấp công cụ để chủ tài khoản giao thông thực hiện kết nối tài khoản giao thông với phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Mỗi tài khoản giao thông có thể sử dụng để chi trả cho nhiều phương tiện tham gia giao thông; mỗi phương tiện tham gia giao thông chỉ được nhận chi trả từ một tài khoản giao thông. Chủ phương tiện phải đảm bảo đủ tiền trong phương tiện thanh toán được kết nối với tài khoản giao thông khi thực hiện thanh toán điện tử giao thông đường bộ. - Quy định về đối soát và hoàn trả doanh thu + Đối soát doanh thu được thực hiện theo nguyên tắc: Hàng ngày, Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử thực hiện đối soát việc thanh toán điện tử giao thông đường bộ theo khung thời gian từ 00h00 đến 24h00 (thời điểm chốt số liệu) với đơn vị vận hành thu để làm cơ sở cho Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử hoàn trả doanh thu cho đơn vị quản lý thu. Hàng tháng, Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử và Đơn vị quản lý thu thực hiện đối soát và chốt công nợ trước ngày 05 của tháng liền kề hoặc thời điểm khác do các bên thỏa thuận; Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc mỗi năm tài chính, Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử và Đơn vị quản lý thu thực hiện chốt công nợ và quyết toán cho năm liền trước đó. + Hoàn trả doanh thu: Trên cơ sở số liệu đã thống nhất sau khi thực hiện đối soát doanh thu hàng ngày, Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử chuyển toàn bộ số tiền thu được (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng) theo đối soát tại điểm thu cho Đơn vị quản lý thu sau khi trừ đi chi phí tổ chức, quản lý, giám sát thu. Thời gian chuyển trả theo quy định tại hợp đồng dịch vụ thu giữa Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử và đơn vị quản lý thu nhưng không vượt quá 48 giờ kể từ thời điểm chốt số liệu. Trường hợp vào các ngày lễ, ngày nghỉ mà hệ thống ngân hàng nghỉ làm việc không thực hiện được việc chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng thì sẽ chuyển vào ngày làm việc kế tiếp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 9. Nghị định số 120/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2024. Quy định phân loại doanh nghiệp đối với đối tượng ngoài doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ tại Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 18 tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành. Doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ đã nộp hồ sơ đăng ký phân loại doanh nghiệp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện phân loại doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Căn cứ pháp lý Ngày 01/10/2021, được sự phê duyệt và ủy quyền của Chính phủ (tại Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 30/9/2021), Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký với Trưởng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) Thỏa thuận giữa Chính phủ CHXNCN Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp (Thỏa thuận). Trong đó, tại Điều 6, Điều 7 Thỏa thuận, Việt Nam cam kết sửa đổi, bổ sung Nghị định số 102/2020/NĐ-CP quy định liên quan đến tiêu chí xác định quốc gia thuộc vùng địa lý tích cực xuất khẩu gỗ vào Việt Nam để bảo đảm việc đánh giá, xác định quốc gia thuộc vùng địa lý tích cực một cách khách quan và phù hợp với thực tiễn; bổ sung đối tượng doanh nghiệp tham gia phân loại doanh nghiệp. Đồng thời, việc mở rộng đối tượng phân loại doanh nghiệp phù hợp với Hiệp định VPA/FLEGT và lộ trình đã thống nhất tại các cuộc họp của Ủy ban thực thi chung thực hiện Hiệp định VPA/FLEGT; đảm bảo phù hợp với Điều 69 và Điều 72 Luật Lâm nghiệp. Nghị định số 102/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 30/10/2020. Trong thời gian gần đây, nhiều Luật, Nghị định mới ban hành đã làm phát sinh một số vấn đề thiếu thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định về tuân thủ tiêu chí phân loại doanh nghiệp đối với các lĩnh vực như: Bảo vệ môi trường, phòng cháy tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 102/2020/NĐ-CP, cụ thể: + Tiêu chí tuân thủ quy định của pháp luật về môi trường không còn phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2012), Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (thay thế Nghị định số 18/2015/NĐ-CP). + Tiêu chí tuân thủ quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy không thống nhất với quy định tại Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy, cụ thể: Nghị định số 136/2020/NĐ-CP chỉ quy định cơ sở chế biến gỗ phải có “Phương án chữa cháy” không quy định “Phương án phòng cháy, chữa cháy”. Cơ sở thực tiễn + Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ với số lượng lớn Log List/Packing List của nhà xuất khẩu đã có các thông tin đầy đủ và phù hợp với Bảng kê gỗ nhập khẩu gỗ theo Mẫu số 01 và Mẫu số 02 Phụ lục I, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 102/2020/NĐ-CP tổ chức, cá nhân nhập khẩu gỗ vẫn phải kê khai lại đầy đủ các nội dung trong Mẫu số 01 và Mẫu số 02 dẫn đến mất nhiều thời gian lưu kho, bãi và gây ách tắc trong quá trình nhập khẩu, đồng thời phát sinh thêm chi phí và ảnh hưởng đến việc kinh doanh và lưu thông hàng hóa của các doanh nghiệp. + Tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 102/2020/NĐ-CP, quy định chỉ xác nhận nguồn gốc gỗ khi xuất khẩu đối với lô hàng gỗ có nguồn gốc từ rừng trồng xuất khẩu sang thị trường EU, đối với thị trường ngoài EU thì không xác nhận; như vậy chưa có sự bình đẳng giữa các thị trường. + Nghị định số 102/2020/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, xác nhận Bảng kê gỗ nhập khẩu trước khi thông quan; tuy nhiên, chưa có quy định chi tiết về nội dung, hình thức xác nhận, dẫn đến thông tin, nội dung xác nhận trên Bảng kê gỗ nhập khẩu của cơ quan Hải quan không đồng bộ, thống nhất; gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong quá trình kiểm tra, truy xuất trong trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó, việc xác nhận vào Mẫu số 01 và Mẫu số 02 làm ảnh hưởng đến Hệ thống hải quan điện tử do phát sinh thêm thủ tục do phải chuyển thành bản điện tử để đưa lên hệ thống. + Quy định về thời gian báo cáo định kỳ chưa thống nhất với chu kỳ báo cáo thuế của doanh nghiệp, dẫn đến số liệu khác nhau khi báo cáo cho cơ quan Kiểm lâm và cơ quan Thuế, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Hệ thống mẫu biểu báo cáo quy định tại Nghị định số 102/2020/NĐ-CP còn chưa thống nhất với Hệ thống mẫu biểu báo cáo tại Thông tư số 26/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2023 của Bộ trưởng Bộ NNPTNT quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản. Vì vậy đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tổng hợp, báo cáo tình hình nhập, xuất lâm sản khi phải thực hiện đồng thời 02 quy định. + Ngoài ra, việc cấp phép FLEGT là nội dung mới, cần phải có lộ trình để triển khai thực hiện; theo Hiệp định VPA/FLEGT phải có sự thống nhất giữa Việt Nam và EU. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang nỗ lực cùng với Ủy ban thực thi chung thực hiện Hiệp định VPA/FLEGT thống nhất các nội dung liên quan, báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thời điểm thực hiện quản lý gỗ nhập khẩu và cấp phép FLEGT. Xuất phát từ những lý do trên, việc ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản thay thế Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ là rất cần thiết. - Mục đích ban hành: + Tạo ra sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. + Khắc phục những vấn đề không phù hợp với thực tiễn, gây ra vướng mắc, bất cập làm cản trở đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. + Phù hợp với Điều ước quốc tế hoặc Thỏa thuận quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 5 Điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam, cụ thể như sau: - Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. - Điều 2. Thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ, điểm, khoản, điều của Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. - Điều 3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện. - Điều 4. Quy định chuyển tiếp. - Điều 5. Điều khoản thi hành. 10. Quyết định số 14/2024/QĐ-TTg ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 19 tháng 9 năm 2024. b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: - Sự cần thiết ban hành: Thời gian qua, một số bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương đã thực hiện rà soát và phát hiện một số văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có căn cứ pháp lý để xác định hết hiệu lực theo quy định tại các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996, năm 2008, năm 2015 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Về nguyên tắc, các văn bản này vẫn được xác định là “còn hiệu lực”. Do đó, để bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật, đồng thời bảo đảm tuân thủ đúng quy định về hiệu lực của văn bản theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 và Nghị định số 59/2024/NĐ-CP ngày 25/5/2024 của Chính phủ), việc ban hành văn bản để bãi bỏ các văn bản nêu trên là cần thiết. Thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 08/4/2018 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2018, trong đó, Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để chấm dứt hiệu lực các văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có văn bản xác định hết hiệu lực, trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan, Bộ Tư pháp đã tổng hợp và thấy rằng có 37 văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ (6) cần được bãi bỏ toàn bộ. - Mục đích ban hành: Xử lý hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật đã không còn được áp dụng trên thực tế nhưng chưa có căn cứ xác định hết hiệu lực theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật. c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm có 02 Điều bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể như sau: - Điều 1: Quy định việc bãi bỏ toàn bộ một số văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản bãi bỏ được sắp xếp theo hình thức văn bản (Quyết định sắp xếp trước, Chỉ thị sắp xếp sau); theo thời gian ban hành (từ văn bản ban hành trước đến văn bản ban hành sau). - Điều 2: Quy định về điều khoản thi hành (Hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành Quyết định). Nội dung Quyết định chỉ bãi bỏ toàn bộ một số văn bản của Thủ tướng Chính phủ không còn được áp dụng trên thực tế; Quyết định không quy định chính sách mới hay sửa đổi, bổ sung chính sách hiện có trong các Quyết định, do vậy không làm phát sinh nguồn nhân lực và tài chính trong triển khai, thi hành Quyết định sau khi được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Quyết định không có nội dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới và không quy định về thủ tục hành chính hoặc làm phát sinh thủ tục hành chính theo quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ và Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính). Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 9 năm 2024, Bộ Tư pháp xin thông báo./.   (1) Chưa bao gồm văn bản của Bộ Tài chính. (2) Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới; Quy định số 41-QĐ/TW ngày 03/11/2021 về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; Quy định số 50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định số 65-QĐ/TW ngày 28/4/2022 về luân chuyển cán bộ; Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Thông báo số 20-TB/TW ngày 08/9/2022 về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật; Kết luận số 50-KL/TW ngày 28/02/2023 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. (3) Bổ sung: (01) Điều 31a. Xét nâng ngạch khi có thành tích trong hoạt động công vụ; (02) Điều 31b. Xét nâng ngạch khi được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; (03) Điều 68a. Tạm đình chỉ công tác đối với công chức (4) Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp (5) Hành vi dùng chữ ký khắc sẵn để thay cho việc ký trực tiếp của công chứng viên; không vào sổ công chứng đối với hồ sơ đã được công chứng; từ chối tiếp nhận, thực hiện giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng; cản trở hoạt động hòa giải ở cơ sở, cản trở các bên giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng hòa giải ở cơ sở… (6) Thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ: Bộ Công an; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Y tế; Bộ Ngoại giao; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Nội vụ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Xây dựng; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Tư pháp   

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, khơi thông nguồn lực để phát triển

Sáng 21/10, phát biểu tại Phiên Khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Cổng Thông tin điện tử Quốc hội trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm. Kính thưa Quốc hội, Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bậc lão thành cách mạng, các vị khách quốc tế, các quý vị đại biểu, Thưa đồng bào, chiến sĩ và cử tri cả nước, Hôm nay, Quốc hội khóa XV trọng thể khai mạc kỳ họp lần thứ 8. Theo chương trình, đây là kỳ họp của khối lượng công việc lớn nhất kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay và cũng là kỳ họp đầu tiên có trách nhiệm về thể chế hóa Nghị quyết của Trung ương lần thứ 10 khóa XIII, khẩn trương đưa chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống và giải quyết nhiều vấn đề quan trọng khác của đất nước, tạo tiền đề chuẩn bị ngay về mọi mặt để chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi trân trọng gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý, đại diện đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế dự phiên khai mạc kỳ họp toàn thể cử tri, nhân dân, đồng bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài lời chào, lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc kỳ họp thành công tốt đẹp. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Phiên Khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV. Thưa các đồng chí và các quý vị, Vừa qua Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thành công rất tốt đẹp. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã tổ chức Hội nghị toàn quốc đến cấp cơ sở quán triệt triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 với tinh thần đổi mới, đoàn kết, thống nhất rất cao. Hội nghị Trung ương 10 đã thảo luận, quyết định nhiều nội dung quan trọng, thống nhất nhận thức và hành động, việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng tốc, bứt phá, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII, chuẩn bị các công việc cho Đại hội XIV của Đảng. Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, có vấn đề vượt dự báo, chưa có tiền lệ, đặt ra nhiều khó khăn, thách thức rất lớn đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là mất mát to lớn, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho đồng bào và chiến sĩ cả nước. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh kiên cường là một khối thống nhất về ý chí và hành động, sớm kiện toàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước với sự đồng thuận cao, từ đó lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nỗ lực cố gắng tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của năm 2024 cơ bản hoàn thành và vượt với chỉ tiêu đề ra, trong đó có nhiều điểm sáng tích cực. Chính trị xã hội ổn định, tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với khu vực và thế giới. Các cân đối lớn được bảo đảm, chúng ta tăng lương nhưng không làm tăng giá, đã thu hút đầu tư nước ngoài tăng cao, văn hóa xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Các phong trào xóa đói, giảm nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả cơn bão Yagi đã thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tinh thần tương thân tương ái, tình dân tộc, nghĩa đồng bào đã được khơi dậy mạnh mẽ trong lúc khó khăn. Tiềm lực quốc phòng, an ninh đã được tăng cường, Tổ quốc được bảo vệ vững chắc, quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng và nâng tầm, thể hiện sự chủ động đóng góp tích cực của Việt Nam vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại. Những thành tựu quan trọng đó đã củng cố thêm cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta qua 40 năm đổi mới, tạo nên diện mạo mới, thế và lực mới để chúng ta có thể tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình trong thời gian tới. Trong thành tựu chung của đất nước, có sự đóng góp rất quan trọng của Quốc hội nói chung, Quốc hội khóa XV nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, thực chất và hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với ba chức năng quan trọng. ​ Về lập pháp, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Quốc hội đã thông qua 43 luật, hơn 60 nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành 45 nghị quyết và 3 pháp lệnh, ngay trong kỳ họp thứ 8 này Quốc hội dự kiến tiếp tục thông qua 15 dự luật, 3 nghị quyết quy phạm pháp luật và cho ý kiến vào 13 dự thảo luật, trong đó có 1 Luật sửa 3 luật trong lĩnh vực đầu tư, 1 luật sửa 7 luật trong lĩnh vực tài chính, quản lý tài sản, có những dự án luật rất mới, phù hợp với xu thế phát triển như Luật Dữ liệu và Luật Công nghiệp công nghệ số thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao của Quốc hội. Chính phủ cũng đã khẩn trương quán triệt, triển khai thực hiện ngay chủ trương của Hội nghị Trung ương 10. Các văn bản này sẽ góp phần quan trọng trong hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục điểm nghẽn, điều chỉnh các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đảm bảo quyền con người và phục vụ phát triển đất nước. Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng không ngừng được cải tiến, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy các cơ quan nhà nước thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ. Quốc hội cũng đã đồng hành cùng Chính phủ quyết định ban hành kịp thời nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, có ý nghĩa lớn với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chăm lo đời sống nhân dân, nhất là trong những thời điểm khó khăn như dịch COVID-19. Đối ngoại của Quốc hội cũng được mở rộng với nhiều hoạt động nổi bật, Quốc hội cũng đã được bầu ở nhiều vị trí quan trọng tại các diễn đàn lớn, uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội vẫn còn có những tồn tại, hạn chế, cần sớm được khắc phục. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn, chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi, các quy định chưa thực sự đồng bộ còn chồng chéo, nhiều quy định còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực ở trong dân. Thủ tục hành chính còn rườm rà, dịch vụ công trực tuyến tuy đã được cải tiến nhưng chưa thuận tiện, thông suốt. Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu; phân cấp, phân quyền chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập. Một bộ phận còn cồng kềnh, chồng chéo, giữa lập pháp và hành pháp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Những tồn tại, hạn chế kéo dài đã nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nhưng trọng trách rất lớn đặt lên vai của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội và của Chính phủ. Ngoài ra, qua công tác cho thấy các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật để tác động, hướng lái, thậm chí chống phá, xác định đây là con đường ngắn nhất, nhanh nhất để chuyển hóa chính trị của Việt Nam. Các loại tội phạm, các nhóm lợi ích cũng tìm cách tác động nhằm trục lợi, nếu không thật sự sáng suốt, bản lĩnh vì sự nghiệp chung, thể chế không phù hợp có thể gây ra những khúc quanh đối với sự phát triển của đất nước. ​ Từ những vấn đề nêu trên, để đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, tôi trân trọng đề nghị Quốc hội tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 27 ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó tập trung nhấn mạnh 3 vấn đề. Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy không quản được thì cấm. Các quy định của pháp luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài. Luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao cho Chính phủ, địa phương quy định để đảm bảo linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội, luật hóa các quy định của nghị định và thông tư. Đổi mới quy trình xây dựng tổ chức thực hiện pháp luật, bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không nóng vội nhưng không cầu toàn để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể. Thường xuyên đánh giá hiệu quả chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm nhiều thất thoát, lãng phí nguồn lực, chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những điểm nghẽn có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Thứ hai, thực hiện tốt hơn nữa chức năng giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Cần sớm nghiên cứu, xác định rõ phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp với thực tiễn, tránh trùng dẫm với hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác, gây lãng phí. Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn giải trình, giám sát văn bản pháp luật; chú trọng theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất đi đôi với việc giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách. Tại kỳ họp này, khối lượng các công việc giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước cũng rất lớn, thực tiễn đang đặt ra, cử tri đang mong chờ, như là đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách năm 2025; giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023"; xem xét quyết định chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa; đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương... Đề nghị Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng này. ​ Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ tổ chức, hoạt động của Quốc hội, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, coi đây là một trong những yếu tố then chốt của then chốt để đổi mới hoạt động của Quốc hội. Hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội phải đúng vai thuộc bài, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ giữa các cơ quan, nhất là các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ, đảm bảo chặt chẽ, hài hòa trong quy trình quản trị quốc gia. Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội cần thống nhất cao gương mẫu đi đầu đóng góp tích cực quan trọng trong xây dựng thể chế phát triển đất nước với tinh thần đổi mới, cải cách, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trình độ và năng lực công tác, giữ mối liên hệ chặt chẽ, phản ánh trung thực, ý kiến, kiến nghị của cử tri và chịu sự giám sát của cử tri. Luôn khắc cốt, ghi tâm và thực hiện cho bằng được lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đối với đại biểu Quốc hội phải ra sức giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, phải luôn luôn ghi nhớ và thực hành câu "vì lợi nước quên lợi nhà, vì lợi chung quên lợi riêng". Sắp xếp kiện toàn Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, các cơ quan của Quốc hội, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Quốc hội, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Kính thưa các đồng chí và các quý vị, Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, đất nước cũng đang đứng trước cánh cửa lịch sử để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thực tiễn nóng bỏng của đất nước đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết, nhân dân đang mong chờ và kỳ vọng vào những quyết sách của Đảng, Nhà nước, của Quốc hội. Tôi đề nghị Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, đổi mới, bứt phá, hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết, phấn đấu sớm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa sánh vai với các cường quốc 5 châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc. Một lần nữa, xin chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý, các đại biểu quốc tế cùng toàn thể các đồng chí, đồng bào, cử tri cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài. Xin trân trọng cảm ơn. Nguồn: Báo điện tử  Chính Phủ

Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trang Xây dựng và hoàn thiện thể chế, Bộ Tư pháp trân trọng giới thiệu bài viết "Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với việc thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã và đang từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là dấu mốc, là bước chuyển quan trọng. Lần đầu tiên Đảng ta ban hành một Nghị quyết chuyên đề về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó xác định các mục tiêu chủ yếu là: Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Việc thực hiện thành công các mục tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề vững chắc để đất nước phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong gần 02 năm qua, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong đó, xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới, năng lực phản ứng chính sách được nâng cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh; công tác tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng gắn kết hơn với xây dựng và hoàn thiện pháp luật; cải cách hành chính, chuyển đổi số được đẩy mạnh và có những kết quả nhất định; công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai bài bản, thường xuyên và đạt được nhiều kết quả với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, qua đó giúp tăng cường một bước kỷ cương, trách nhiệm, tính nghiêm minh trong thực thi công vụ. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhận thức về tầm quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có lúc, có nơi chưa đồng đều. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành chưa đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, làm thay công việc của địa phương dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu, còn một bộ phận cán bộ chưa chủ động, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ; tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, "đổ lỗi" cho hệ thống pháp luật để không thực hiện chức trách, nhiệm vụ vẫn còn tồn tại ở một số bộ, ngành, địa phương. Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã làm suy giảm ý nghĩa, vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên thực tiễn. Để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đòi hỏi tiếp tục phải đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và xử lý hài hòa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và phát huy vị trí, vai trò của từng nhân tố này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cần chú ý các vấn đề cơ bản sau đây: Một là, Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là biện pháp, cách thức để thực hiện thành công mục tiêu của Đảng ta đã được xác định trong Điều lệ Đảng: "Xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản". Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách; lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chính sách thành pháp luật để quản lý Nhà nước và xã hội. Như vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện tốt công tác này cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phải có quy trình xây dựng pháp luật chặt chẽ, khoa học, dân chủ để chính sách, pháp luật thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển; nhưng cũng phải linh hoạt để kịp thời phản ứng chính sách, có giải pháp xử lý kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh làm chậm sự phát triển theo nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc là trước hết và trên hết. Là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Quốc hội cần đóng vai trò chủ đạo, có các giải pháp bảo đảm hệ thống pháp luật được ban hành đáp ứng được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần phát huy vai trò là cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật để những vướng mắc trong thực thi các đạo luật được xử lý kịp thời, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, Chính phủ cần theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật để kịp thời phát hiện những quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn, cản trở đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực đầu tư, sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý, không để một số điều luật trở thành điểm nghẽn cản trở thực hiện quyền con người, quyền công dân và phát triển kinh tế - xã hội.   Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nhân dân được xác định là người làm chủ theo quy định pháp luật và vận hành theo nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"   Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ để Nhân dân tham gia hoạt động quản lý Nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức khoa học, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động công vụ phải bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, thực hiện quyền hạn theo chức trách, thẩm quyền, có sự thanh tra, kiểm tra chặt chẽ. Bên cạnh đó, với đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì các vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà nước được cơ cấu các vị trí lãnh đạo cấp ủy đảng tương ứng chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hình thành cơ cấu lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước. Từ nguyên lý và thực tiễn này, để phát huy hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với xã hội bằng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cần phải tăng cường đồng thời 02 yếu tố: Đức trị và pháp trị. Trong đó, yếu tố "đức trị" là sự phát huy các ưu điểm, thế mạnh, vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng, tính tiên phong, nêu gương của cán bộ Đảng viên để dẫn dắt yếu tố "pháp trị" là việc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Sự thượng tôn pháp luật là biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì vậy, cán bộ Đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong chấp hành và tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực mình quản lý, do đó, Đảng viên là công chức, viên chức cần tích cực giải quyết công việc theo thẩm quyền và hoàn thành tốt nhiệm vụ; chủ động phát hiện, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, nhất là các khó khăn, vướng mắc trong thực thi pháp luật để kịp thời có giải pháp hoặc tham mưu, báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý. Hay nói cách khác, sẽ không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế nếu như cán bộ, đảng viên, cơ quan Nhà nước thờ ơ, thiếu trách nhiệm, vô cảm với quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy đạo đức cách mạng của từng cán bộ Đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chủ động của từng cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước thì các mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp được thực hiện; người dân, doanh nghiệp sẽ thực sự là trung tâm, là đối tượng phục vụ theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì pháp luật sẽ đi vào cuộc sống, pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ mọi quan hệ xã hội. Kết quả là, xã hội sẽ vận hành và phát triển theo đúng đường lối, chính sách mà Đảng đã ban hành. Từ đó, đất nước ta sẽ đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo đúng Cương lĩnh và mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà Đảng ta đã đề ra. Ba là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhân dân được xác định là người làm chủ theo quy định pháp luật và vận hành theo nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Tuy nhiên, để có dân chủ thực chất thì bên cạnh việc phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện theo các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì sự vận hành hiệu quả của hệ thống chính trị cũng phải đáp ứng, phù hợp với nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Cũng tương tự như trong quản lý nhà nước, vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng và sự phát huy tính tiền phong, gương mẫu, đức hi sinh vì sự nghiệp chung của cán bộ Đảng viên có ý nghĩa quan trọng trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Để làm được điều này, cần đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. Bên cạnh việc triển khai, quán triệt, học tập văn bản, nghị quyết của cấp trên như cách làm hiện nay thì nội dung sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng cần nghiên cứu, bổ sung các chuyên đề như: Nội dung pháp luật cần triển khai; các vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt ra liên quan đến quyền lợi của người dân; vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cần giải quyết; các vấn đề dư luận xã hội, quần chúng quan tâm cần định hướng về quan điểm, nội dung chính sách, pháp luật và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch… Để đạt được các mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì những vấn đề thiết thực này cần được các cấp ủy thảo luận, quán triệt đến Đảng viên ngay từ cơ sở với tinh thần mỗi chi bộ là một tế bào của Đảng ta. Để Đảng vững mạnh thì mỗi chi bộ cơ sở cần phát huy vai trò, đổi mới hoạt động sinh hoạt để có những đóng góp thiết thực cho Đảng. Mỗi Đảng viên là nhân tố quan trọng lan tỏa tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật đến nhân dân; để từ đó phát huy dân chủ trong nhân dân, làm cho mọi cá nhân, tổ chức đồng tình, ủng hộ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chủ động tuân thủ, thực thi pháp luật. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, nhân dân là chủ thể của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi công dân tích cực, chủ động tham gia vào công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, có ý thức thượng tôn pháp luật thì sẽ tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.   Tô Lâm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Theo https://moj.gov.vn)

Cách mạng Tháng Mười Nga và bài học về công tác xây dựng Đảng

Cách đây 107 năm, Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích lãnh đạo đã giành thắng lợi, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Thắng lợi này không chỉ làm thức tỉnh thế giới đương thời, đưa nhân loại bước vào thời kỳ mới, mà còn để lại cho Việt Nam nhiều bài học rất sâu sắc, trong đó có bài học về công tác xây dựng Đảng. Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô viết đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện thế giới. Ảnh tư liệu Giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra đã đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu cấp thiết của lịch sử là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa để xây dựng một chế độ xã hội mới - chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Để có được thắng lợi vang dội đó, những người Bônsêvích Nga dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin đã chuẩn bị về mọi mặt, như: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, quân sự... Dưới ánh sáng của “Luận cương tháng Tư” và sự chỉ đạo của V.I.Lênin, những người Bônsêvích đã xác định nhiệm vụ cấp bách và quan trọng nhất cho toàn Đảng. Đó là phải lôi cuốn đông đảo giai cấp công nhân và nhân dân lao động về phía cách mạng; thành lập đội quân chính trị hùng hậu đủ sức đánh bại lực lượng phản cách mạng; thành lập lực lượng vũ trang cách mạng làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị và chủ động đối phó với sự thay đổi của tình hình. Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã tập trung củng cố chính quyền Xô viết, xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho quần chúng nhân dân. “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất” được ban hành ngay sau khi cách mạng thành công, đáp ứng được ý nguyện của quần chúng nhân dân lao động Nga về một cuộc sống hòa bình, tự do và hạnh phúc. Sự thống nhất về mặt lợi ích của giai cấp vô sản với nhân dân lao động đã hình thành và phát triển một nguyên tắc đạo đức mới, đó là chủ nghĩa tập thể. Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quan trọng đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động là động lực to lớn buộc các thế lực thực dân, đế quốc phải thừa nhận quyền độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa; chính quyền các nước tư bản có những cải cách xã hội để cải thiện đời sống của người lao động… Từ sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô đã giành được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nhất là đã huy động được lực lượng vật chất và tinh thần đánh thắng liên minh các thế lực đế quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, các thế lực phát xít tàn bạo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Bài học đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay Cách mạng Tháng Mười Nga để lại nhiều bài học quý giá, trong đó quan trọng nhất là bài học về công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Từ sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, để xứng đáng với tư cách là một đảng cách mạng chân chính, các đảng cộng sản phải luôn đề phòng và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện tiêu cực trong nội bộ đảng, như: Suy thoái về tư tưởng chính trị, đặc quyền, đặc lợi, xa dân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cơ hội chủ nghĩa; phải nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; phải thường xuyên tự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Đây là những chỉ dẫn hết sức quý báu của V.I.Lênin được rút ra từ thành công của Cách mạng Tháng Mười. Kế thừa những giá trị quý báu của Cách mạng Tháng Mười Nga về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng chủ trương lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt. Ngoài ra, Đảng luôn quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn Cách mạng Tháng Mười chứng minh rằng, bất cứ một chế độ nào đi ngược lại lợi ích chân chính của dân tộc, của nhân dân, cản trở tiến bộ xã hội thì tất yếu bị đào thải, thay thế bởi một chế độ xã hội khác. Ngoài ra, để một tổ chức Đảng có thể tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân, tất yếu phải vì những mục tiêu cao đẹp, nhân văn. Nếu khi tiến hành Cách mạng Tháng Mười, Đảng Bônsêvích Nga luôn nêu cao khẩu hiệu “Chính quyền về tay các Xô viết”, thì ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khi lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, luôn hướng đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những mục tiêu cao đẹp đó chính là ngọn cờ tập hợp lực lượng mà Đảng ta đã kế thừa từ những bài học quý giá của Đảng Bônsêvích Nga trong việc phát huy sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cách mạng. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi đường cho cách mạng Nga thành công từ năm 1917, thì chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn đường cho cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi quan trọng và vĩ đại trong suốt hơn 94 năm qua. Do đó, Đảng ta luôn tự hào mà khẳng định: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười thành công, Đảng Bônsêvích Nga đã đứng trước sự chống phá quyết liệt của các phe phái đối lập. Do đó, một vấn đề đặt ra liên quan đến sự tồn vong của Đảng Bônsêvích là vừa phải bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phải đấu tranh chống những phe phái phi mác xít để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình. Tinh thần đó hiện đang được Đảng ta kế thừa một cách sâu sắc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn nhận thức rõ và xác định: Một mặt cần phải bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; một mặt phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của các thế lực phản động, cơ hội chính trị đang ra sức tấn công nhằm phủ nhận, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều đó được thể hiện rất rõ nét trong các chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là trong Nghị quyết số 35-NQ/TƯ ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới". Đây chính là sự vận dụng sáng tạo tinh thần đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng của người Bônsêvích Nga dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin để bảo vệ thành quả cách mạng trong thời đại ngày nay của Đảng ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”. Dù đã đi qua hơn 100 năm nhưng tinh thần Cách mạng Tháng Mười Nga hiện vẫn là “ngọn đuốc soi đường” cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước của Việt Nam, trong đó có công tác xây dựng Đảng.

Chính thức công bố Bộ Pháp điển Việt Nam

Chiều nay, 5/11, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã dự Hội nghị tổng kết nhiệm vụ hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật kỳ 2019-2023 và công bố Bộ Pháp điển Việt Nam - công cụ tra cứu pháp luật được xây dựng trong 10 năm. Phó Thủ tướng Lê Thành Long và các đại biểu thực hiện nghi thức công bố Bộ Pháp điển Việt Nam - công cụ tra cứu pháp luật được xây dựng trong 10 năm - Ảnh: VGP/Đức Tuân Sự kiện này do Bộ Tư pháp tổ chức với sự tham dự của lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương. Năm 2013 là năm bắt đầu xây dựng Bộ Pháp điển và cũng là năm đầu tiên các bộ, ngành, địa phương thực hiện kỳ hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thống nhất trong cả nước, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết. Đến nay, sau 10 năm, các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện 3 kỳ hệ thống hóa văn bản thống nhất trong cả nước, trong đó kỳ hệ thống hóa văn bản thứ 3 (2019- 2023) vừa được hoàn thành. Việc thực hiện hệ thống hóa văn bản đã được Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai ngày càng bài bản, khoa học, bảo đảm chính xác, đúng quy định. Tạo nên sức mạnh lớn, hiệu quả cao trong việc xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật Cũng sau chặng đường hơn 10 năm triển khai thi hành Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành đã quyết tâm, nỗ lực xây dựng Bộ Pháp điển điện tử, là sản phẩm chính thức của Nhà nước, là công cụ tra cứu pháp luật một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã dự Hội nghị tổng kết nhiệm vụ hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật kỳ 2019-2023 và công bố Bộ Pháp điển Việt Nam - Ảnh: VGP/Đức Tuân "Hôm nay, chúng ta chính thức công bố và đưa Bộ Pháp điển vào cuộc sống", Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh nói. Bộ Pháp điển có vai trò, ý nghĩa, giá trị thiết thực trong việc bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ tra cứu của các quy định pháp luật; đồng thời, thông qua việc hỗ trợ các cá nhân, tổ chức dễ dàng, thuận tiện trong việc tìm kiếm, tra cứu các quy định pháp luật, Bộ Pháp điển góp phần giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng, cập nhật Bộ Pháp điển góp phần nâng cao hiệu quả hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế gắn với công tác tổ chức thi hành pháp luật được xác định là nhiệm vụ quan trọng, đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội của đất nước. Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh khẳng định, việc đưa Bộ Pháp điển vào cuộc sống là một trong các giải pháp quan trọng để truyền thông chính sách, nhiệm vụ này sẽ mở ra những nguồn lực lớn, tạo nên sức mạnh lớn, hiệu quả cao trong việc xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật. Trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị các bộ, ngành, địa phương quan tâm phối hợp tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là đẩy mạnh số hoá, phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và bảo đảm nguồn lực kinh phí phục vụ triển khai hiệu quả các công tác này; thường xuyên cập nhật, quản lý, duy trì kết hợp với truyền thông, giới thiệu và hướng dẫn để từng cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội khai thác, sử dụng hiệu quả Bộ Pháp điển. Quan tâm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư, nâng cấp Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, bảo đảm nguồn dữ liệu về văn bản pháp luật "đúng, đủ, sạch, sống" vận hành liên tục, ổn định, không chỉ phục vụ việc tra cứu, áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm thực hiện mục tiêu công khai, minh bạch hệ thống pháp luật, mà còn là cơ sở để triển khai hiệu quả các công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, trong xây dựng, hoàn thiện đến tổ chức thực thi pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh khẳng định, việc đưa Bộ Pháp điển vào cuộc sống là một trong các giải pháp quan trọng để truyền thông chính sách - Ảnh: VGP/Đức Tuân Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) kỳ 3 (2019-2023) trên cả nước cho thấy, tổng số văn bản QPPL ở Trung ương còn hiệu lực là 8.489 văn bản (trong đó có 169 văn bản QPPL được ban hành chỉ có nội dung bãi bỏ văn bản QPPL khác), bao gồm: 290 văn bản của Quốc hội, 82 văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội, 1.365 văn bản của Chính phủ, 596 văn bản của Thủ tướng Chính phủ, 6.156 văn bản của bộ, ngành. Tổng số văn bản QPPL hết hiệu lực, ngưng hiệu lực toàn bộ: 4.019 văn bản; hết hiệu lực, ngưng hiệu lực một phần: 1.724 văn bản; cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới: 760 văn bản. Đối với văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của HĐND, UBND cấp tỉnh, có 32.251 văn bản còn hiệu lực; 16.205 văn bản hết hiệu lực, ngưng hiệu lực toàn bộ. Tổng số văn bản QPPL cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới: 4.755 văn bản. Phó Thủ tướng Lê Thành Long và các đại biểu dự lễ công bố Bộ Pháp điển Việt Nam - Ảnh: VGP/Đức Tuân Bộ Pháp điển được xây dựng, hình thành từ gần 9.000 văn bản QPPL đang còn hiệu lực của cấp Trung ương Ngày 16/4/2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Pháp điển hệ thống QPPL, tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho công tác pháp điển. Theo đó, "pháp điển là việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp các QPPL đang còn hiệu lực trong các văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành, trừ Hiến pháp, để xây dựng Bộ pháp điển". Bộ Pháp điển của Nhà nước Việt Nam là Bộ Pháp điển điện tử, được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử pháp điển (phapdien.moj.gov.vn) phục vụ việc tra cứu, khai thác, sử dụng miễn phí của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bộ Pháp điển được xây dựng, hình thành từ gần 9.000 văn bản QPPL đang còn hiệu lực của cấp Trung ương và được sắp xếp, cấu trúc vào 45 chủ đề, trong mỗi chủ đề có một hoặc nhiều đề mục (có 271 đề mục thuộc 45 chủ đề). Mỗi đề mục được pháp điển từ nhiều văn bản khác nhau cùng điều chỉnh một lĩnh vực nhất định và được sắp xếp theo một trật tự khoa học, logic. Cấu trúc của đề mục dựa theo bố cục của văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý cao nhất trong các văn bản được pháp điển vào mỗi đề mục. Với cách pháp điển như vậy, Bộ Pháp điển giúp các cá nhân, tổ chức dễ dàng, thuận tiện trong tra cứu, tìm kiếm các quy định pháp luật, qua đó, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống và trình độ pháp lý của người dân ngày càng được nâng cao. Theo chinhphu.vn

Trang