Kinh tế

Tổng Cục Hải quan thực hiện tốt mức độ hài lòng của doanh nghiệp

TĐKT- Trong thời gian qua, ngành Hải quan đã và đang nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách trên tất cả các lĩnh vực, được Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao với tinh thần kết nối, chia sẻ, đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, hướng tới mục tiêu tăng cường quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Tổng cục Hải quan đã nhiều lần tổ chức khảo sát ý kiến doanh nghiệp nhằm kịp thời nắm bắt các khó khăn, vướng mắc, lắng nghe ý kiến phản hồi từ cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục xuất, nhập khẩu tại Việt Nam, từ đó kiến nghị tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi các quy định pháp luật, triển khai các nội dung cải cách để nâng cao hiệu quả thực thi, góp phần tạo thuận lợi thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp, từng bước nâng cao hơn nữa mức độ hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hóa. Quang cảnh Hội nghị ngày 8/1 Năm 2018, Tổng cục Hải quan tiếp tục phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức khảo sát ý kiến mức độ hài lòng của doanh nghiệp về thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Kết quả khảo sát phản ánh những đánh giá của cộng đồngdoanh nghiệp đối với việc thực hiện thủ tục hành chính hải quan trong năm, cũng như những kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp đối với ngành Hải quan trong thời gian tới. Kết quả khảo sát cho thấy, năm 2018 mức độ hài lòng của cộng đồng doanh nghiệp đối với ngành Hải quan đã được cải thiện ở hầu hết các nội dung khảo sát so với năm 2015. Đây là sự ghi nhận đáng khích lệ đối với những nỗ lực cải cách của ngành Hải quan trong những năm qua. Đánh giá về chất lượng thông tin khi doanh nghiệp tiếp cận thông tin thủ tục hành chính hải quan, 91% doanh nghiệp tham gia trả lời đánh giá thông tin cơ quan Hải quan cung cấp là thống nhất, 90% doanh nghiệp đánh giá thông tin thủ tục hành chính (TTHC) sẵn có, dễ tìm. So với số liệu năm 2015, 2 tỷ lệ này lần lượt là 77% và 81%. Đối với việc thực hiện các thủ tục hành chính hải quan, kết quả khảo sát doanh nghiệp năm 2018 cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục (% khó và rất khó) giảm đáng kể so với năm 2015. Điển hình như thủ tục Kiểm tra hồ sơ và Kiểm tra thực tế hàng hóa trong thủ tục thông quan, tỷ lệ này là 6% (năm 2015: 11%) và 14% (năm 2015:21%). Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục hoàn thuế, không thu thuế là 23% so với năm 2015 là 31%. Khi gặp khó khăn trong thực hiện thủ tục hành chính hải quan, trong 2.907 doanh nghiệp trả lời thì có tới 85% doanh nghiệp cho biết tìm đến sự hỗ trợ của cơ quan hải quan. Đánh giá của doanh nghiệp là khá tích cực khi có 79% đánh giá sự hỗ trợ của cơ quan hải quan “phần lớn và hoàn toàn” kịp thời. Đáng chú ý, có tới 84% doanh nghiệp cho biết sự hỗ trợ của cơ quan hải quan là phần lớn hoặc hoàn toàn hiệu quả. Về hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng, kho, bãi (VASSCM), từ tháng 8/2017, Tổng cục Hải quan bắt đầu triển khai thí điểm Hệ thống VASSCM. Theo đó, thực hiện kết nối, trao đổi thông tin bằng phương thức điện tử với cơ quan kinh doanh cảng, kho, bãi tại một số đơn vị lớn. Tính đến ngày 8/8/2018, Hệ thống quản lý hải quan tự động được thực hiện tại 5 cục hải quan địa phương gồm: Hải Phòng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh với 81 doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng tham gia. Đến tháng 11/2018, Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng, kho, bãi đã được triển khai tại 25/35 Cục Hải quan tỉnh, thành phố cho 192 doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi. Tuy mới được triển khai, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp cho biết đã từng thực hiện thủ tục xác nhận hàng hóa qua hệ thống quản lý, giám sát tự động tại cảng biển, cảng hàng không là tương đối cao. Trong số 2.740 doanh nghiệp có cung cấp thông tin về nội dung này, có 1.165 cho biết đã từng thực hiện thủ tục nói trên (43%). Từ khi triển khai hệ thống VASSCM, hồ sơ, thủ tục để đưa hàng ra khỏi kho bãi cảng đơn giản hơn; bỏ hẳn được thủ tục xác nhận của hải quan giám sát tại cổng cảng; giảm tiếp xúc giữa hải quan và doanh nghiệp; giảm thời gian đi lại làm thủ tục của doanh nghiệp xuất, nhập khẩu; khắc phục được tình trạng ùn tắc tại cổng cảng/kho bãi, tốc độ giao hàng nhanh hơn, góp phần làm giảm thời gian thông quan/giải phóng hàng, giảm chi phí quản lý hành chính… Với những doanh nghiệp từng thực hiện thủ tục xác nhận hàng hóa qua khu vực giám sát hải quan qua hệ thống quản lý, giám sát hải quan tự động, thì đánh giá họ về phương thức mới này là rất tích cực. Hệ thống giám sát hải quan điện tử đặc biệt hiệu quả trong việc rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục, với 67% doanh nghiệp nhận thấy lợi ích này. Có đến 62% phản hồi đánh giá rằng hệ thống giúp giảm thiểu các vướng mắc khi thực hiện thủ tục. Cuối cùng, gần một nửa (49%) số phản hồi cho rằng hệ thống điện tử làm giảm chi phí thực hiện thủ tục hải quan cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các kết quả khảo sát liên quan tới cán bộ công chức Hải quan đã có sự cải thiện rất tích cực. Cụ thể: Về mức độ am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, doanh nghiệp đánh giá cao sự am hiểu chuyên môn nghiệp vụ của công chức Hải quan ở tất cả các thủ tục, ví dụ: Thủ tục thông quan, khâu Kiểm tra hồ sơ có tới 70% doanh nghiệp đánh giá khá và tốt trong khi tỷ lệ này năm 2015 là 60%; Thủ tục quản lý thuế, khâu Hoàn thuế không thu thuế có tới 54% doanh nghiệp đánh giá khá tốt so với tỷ lệ này năm 2015 là 44%. Tương tự Kỹ năng giải quyết công việccũng được đánh giá cao so với năm 2015. Có tới 62% doanh nghiệp đánh giá khá và tốt cho kỹ năng giải quyết công việc của công chức hải quan ở cả thủ tục kiểm tra thực tế hàng hóa và thủ tục nộp thuế so với năm 2015 lần lượt là 54%, 49%. Một điều rất đáng chú ý đó là, các chỉ số liên quan đến chi phí ngoài quy định có sự cải thiện vượt bậc. Chỉ có 18% doanh nghiệp tham gia trả lời cho biết phải trả chi phí ngoài quy định so với tỷ lệ này trong cuộc khảo sát 2015 là 28%. Có tới 56% doanh nghiệp tham gia trả lời cho biết không phải trả phí ngoài quy định trong khi tỷ lệ này của 2015 chỉ là 37%. Tỷ lệ doanh nghiệp bị phân biệt đối xử khi không chi trả chi phí không chính thức cũng có sự thay đổi, năm 2018 chỉ còn 15% so với năm 2015 là 31%. Trong thời gian tới, cơ quan Hải quan sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ và các đơn vị khảo sát độc lập như Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam để hoàn thiện hơn phương pháp, cách thức triển khai hoạt động khảo sát, hoàn thiện hệ thống tiêu chí đánh giá đảm bảo tính đầy đủ, khách quan, chính xác sự hài lòng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu đối với sự phục vụ, chất lượng dịch vụ của cơ quan hải quan. Ngoài ra, cơ quan hải quan sẽ thực hiện các cuộc khảo sát mức độ hài lòng về thủ tục hành chính hải quan tại từng Cục Hải quan tỉnh, thành phố, xếp hạng các chi cục trong một cục. Cộng đồng doanh nghiệp cũng đánh giá cao sự cầu thị của ngành Hải quan trong những năm gần đây trong việc lắng nghe, tiếp nhận các ý kiến phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp qua các cuộc khảo sát trước đây đã được Tổng cục Hải quan và Bộ Tài chính kịp thời xử lý. Trong thời gian tới, ngành Hải quan sẽ tiếp tục có thêm nhiều giải pháp cải cách, hiện đại hóa góp phần quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động xuất, nhập khẩu của người dân và doanh nghiệp. Hồng Thiết

Ngân hàng Nhà nước thi đua thực hiện tốt điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2018

TĐKT – Trong năm 2018, bám sát Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT – NHNN ngày 10/01/2018 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong năm 2018, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả. Trên cơ sở đó, NHNN đã triển khai đồng bộ các giải pháp, chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng, đạt được các mục tiêu đề ra từ đầu năm, qua đó góp phần quan trọng trong kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý, đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD). Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, ngay từ đầu năm 2018, NHNN đã thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Cụ thể, NHNN đã đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 3,54% và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt 7,08% , cao nhất trong 11 năm trở lại đây. Đến cuối năm 2018, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2017. Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại họp báo triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2019 ngày 7/1 Mặt bằng lãi suất được duy trì ổn định trong bối cảnh lãi suất thị trường quốc tế gia tăng. Theo đó, NHNN đã điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ; tập trung điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản cho các TCTD, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý; điều chỉnh giảm lãi suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống còn 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí vốn cho TCTD. Chỉ đạo các TCTD tiếp tục rà soát và cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng và đảm bảo an toàn tài chính trong hoạt động. Mặt bằng lãi suất của các TCTD năm 2018 về cơ bản ổn định; lãi suất cho vay phổ biến khoảng 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn, trung - dài hạn khoảng 9 - 11%/năm. Song song với đó, vấn đề điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, gắn liền với nâng cao chất lượng, tập trung tín dụng vào sản xuất, kinh doanh, tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo hoạt động an toàn. Với việc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tín dụng tăng ngay từ những tháng đầu năm và trải đều qua các tháng, tín dụng đến cuối năm 2018 tăng khoảng 14% so với cuối năm 2017. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực; trong đó tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát ở mức hợp lý. Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, thông suốt, NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Trong năm 2018, NHNN đã chủ động và linh hoạt điều tiết thị trường ngoại hối, điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ CSTT, điều tiết thanh khoản, lãi suất tiền VND hợp lý để ổn định thị trường, có điều kiện bổ sung dự trữ ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát. Nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, thanh khoản đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, nhu cầu mua - bán ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Thị trường vàng trong nước tiếp tục diễn biến ổn định và dao động trong biên độ hẹp trong bối cảnh giá vàng quốc tế diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, qua hơn 1 năm triển khai Quyết định 1058, năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng dần. Chất lượng quản trị điều hành của các TCTD từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế; cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm tra, giám sát ở tất cả các cấp từng bước được kiện toàn, ngăn ngừa xung đột lợi ích. Tình trạng sở hữu chéo được giảm thiểu. Công tác thanh tra, giám sát được tăng cường đã góp phần ngăn chặn, phát hiện và xử lý kiên quyết các rủi ro, tồn tại và sai phạm của TCTD, thúc đẩy các TCTD triển khai tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu nghiêm túc, có hiệu quả. Ước tính đến cuối tháng 12/2018, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 149,22 nghìn tỷ đồng nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD là 1,89%, giảm so với mức 2,46% cuối năm 2016 và mức 1,99% cuối năm 2017. Đặc biệt, năm 2018, ngành ngân hàng là một trong những ngành chủ động đi đầu ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghệ (CMCN 4.0), qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ, gia tăng các tiện ích cho khách hàng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). Thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng. Một số ngân hàng thương mại đã nghiên cứu, hợp tác và đưa các công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán trên thiết bị di động, với việc áp dụng sinh trắc học (vân tay, khuôn mặt, giọng nói…), sử dụng mã phản hồi nhanh (QR Code), công nghệ mã hóa thông tin thẻ, thanh toán phi tiếp xúc, công nghệ mPOS... Đây là các hình thức thanh toán hiện đại, an toàn, tiện lợi, được người tiêu dùng đón nhận tích cực. Trong năm 2018, NHNN đã ban hành Bộ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa và Bộ Tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía đơn vị chấp nhận thanh toán tại Việt Nam” làm cơ sở để các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán áp dụng nhằm tăng cường an toàn, bảo mật và tiện ích cho khách hàng trong thanh toán. Ngoài ra, công tác truyền thông được NHNN đặc biệt chú trọng, với việc phối hợp sản xuất các chương trình truyền hình, chương trình giáo dục tài chính như “Tiền khéo tiền khôn”, “Những đứa trẻ thông thái”... Qua đó, nâng cao kiến thức, giảm thiểu rủi ro cho khách hàng khi tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng, thúc đẩy TTKDTM. Từ nay đến giáp Tết Nguyên đán 2019, NHNN theo dõi sát diễn biến tình hình tiền mặt tại từng địa phương, tập trung nguồn lực ở mức cao nhất để điều chuyển bổ sung dự trữ, kịp thời ứng phó nhu cầu đột xuất, bất thường. Với số lượng dự trữ hiện nay, NHNN đảm bảo cung ứng đủ tiền mặt cho lưu thông về giá trị và cơ cấu các mệnh giá tiền một cách hợp lý. Chủ trương không đưa tiền mới in mệnh giá nhỏ ra lưu thông từ năm 2013 đã giúp tiết kiệm hàng ngàn tỷ đồng cho Ngân sách Nhà nước đối với các chi phí liên quan đến in ấn, giao nhận, bốc xếp, kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản… Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, phát huy thành tích đã đạt được, trên cơ sở các mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ và đánh giá kinh tế vĩ mô, tiền tệ, năm 2019, NHNN điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu bình quân dưới 4%; bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng theo định hướng đề ra. Điều hành tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán…; tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông, tín dụng tiêu dùng. Kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và có lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ. Chủ động thực hiện các giải pháp quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng hiệu quả. Tiếp tục củng cố dự trữ ngoại hối nhà nước. Triển khai tích cực các biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa trên lãnh thổ, tăng niềm tin vào đồng Việt Nam, góp phần ổn định thị trường ngoại tệ và kinh tế vĩ mô. Tiếp tục triển khai và giám sát chặt chẽ việc thực hiện cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Đồng thời, kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng gắn với tăng cường xử lý nợ xấu theo nguyên tắc thị trường; hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD… Hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách phát triển TTKDTM; triển khai có hiệu quả Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 và triển khai Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với việc thu phí các dịch vụ công như điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018. Đẩy mạnh thanh toán thẻ qua các thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán (POS). Áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại như mã phản hồi nhanh (QR code), mã hóa thông tin thẻ, thanh toán di động, thanh toán phi tiếp xúc.  Triển khai các mô hình thanh toán tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với việc xây dựng và triển khai Chiến lược Quốc gia về Tài chính Toàn diện tại Việt Nam. Thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ... Hồng Thiết

Ngành xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng 9,2% năm 2018

TĐKT - Sáng 4/1, Bộ Xây dựng tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2018 và triển khai kế hoạch năm 2019 của ngành xây dựng. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng dự và chỉ đạo Hội nghị. Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2018 và triển khai kế hoạch năm 2019 của ngành xây dựng Năm 2018, giá trị sản xuất toàn ngành xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng 9,2%, ở mức cao so với kế hoạch, cao hơn bình quân chung cả nước. Trong số 16 chỉ tiêu của năm 2018, có 3 chỉ tiêu vượt, 11 chỉ tiêu đạt kế hoạch và 2 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch là chỉ tiêu về kính xây dựng (265/320 triệu m2) và gạch ốp lát (705/770 triệu m2). Điểm nhấn trong kết quả công tác của Bộ Xây dựng là công tác xây dựng thể chế; cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính đạt nhiều kết quả quan trọng, đặc biệt trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư phát triển đô thị, thẩm tra thiết kế dự toán, cấp phép xây dựng. Cụ thể, Bộ đã hoàn thành 3 dự án Luật: Luật Kiến trúc; Luật Quản lý phát triển đô thị; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Quy hoạch đô thị. Thực hiện yêu cầu của Chính phủ về cắt giảm thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, ngành xây dựng đã kiến nghị bãi bỏ 5 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Cùng với đó, bãi bỏ 41,3%, đơn giản hóa 47,3% và giữ nguyên 15% trên tổng số 215 điều kiện đầu tư kinh doanh. Bộ cũng đã tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng; cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Bộ Xây dựng là đơn vị đầu tiên trong 22 Bộ, ngành chính thức triển khai tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính theo mô hình bộ phận một cửa. Công tác cấp phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng đã nền nếp hơn. Vi phạm trật tự xây dựng giảm đáng kể. Qua đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam luôn đứng thứ 3 trong các nước ASEAN về chỉ tiêu cấp phép xây dựng (bao gồm cấp giấy phép xây dựng và các thủ tục liên quan); đứng thứ 20/190 nền kinh tế. Công tác quy hoạch, quản lý Nhà nước bằng quy hoạch cũng được triển khai hiệu quả. Đến nay, quy hoạch vùng tỉnh đã cơ bản phủ kín trên cả nước, đã có 58/63 địa phương được phê duyệt; 16/16 khu kinh tế ven biển, 17/26 khu kinh tế, 3 khu công nghệ cao được phê duyệt quy hoạch chung xây dựng; 100% thành phố, thị xã, thị trấn đã có quy hoạch chung được duyệt, tương đương 805 đồ án. Tỷ lệ lập quy hoạch chung xây dựng đô thị đạt 100%; quy hoạch phân khu đạt khoảng 78%; quy hoạch chi tiết đạt khoảng 39% so với diện tích đất xây dựng đô thị; 58/63 địa phương phê duyệt quy hoạch quản lý chất thải rắn; 27/63 địa phương phê duyệt quy hoạch cấp nước; 20/63 địa phương phê duyệt quy hoạch thoát nước. Tỷ lệ số xã có quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên cả nước đạt khoảng 99% (8.926 xã). Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Hội nghị Công tác quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển đô thị; quản lý, kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch đã có nhiều chuyển biến quan trọng, từng bước bảo đảm sự phát triển đô thị hài hòa, bền vững. Công tác thẩm định dự án, thẩm định thiết kế - dự toán, kiểm tra công tác nghiệm thu của các cơ quan chuyên môn về xây dựng tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực, góp phần hạn chế thất thoát, lãng phí. Công tác quản lý Nhà nước đối với thị trường bất động sản được thực hiện có hiệu quả, duy trì tăng trưởng của thị trường. Thị trường vật liệu xây dựng được phát triển hài hòa, bảo đảm đáp ứng nhu cầu trong nước. Bên cạnh đó, ngành cũng đã tập trung phát triển các vật liệu mới, thân thiện môi trường; từng bước giải quyết vấn đề xử dụng tro xỉ nhà máy nhiệt điện… Trong năm 2018, Bộ Xây dựng cũng đã tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ngành Xây dựng theo kế hoạch được Thủ tướng phê duyệt. Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đánh giá cao những kết quả mà ngành xây dựng đạt được trong năm vừa qua. Đồng thời nhấn mạnh trong thời gian tới, Bộ Xây dựng cần tiếp tục đổi mới, tập trung thực hiện có hiệu quả hơn nữa các nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Đặc biệt, cần tiếp tục quan tâm đến phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người có công, hộ nghèo; thực hiện tốt công tác quản lý và phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; đồng thời, quan tâm đến các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong sản xuất và đầu tư xây dựng… Phương Thanh

Ngành nông nghiệp: Cần tháo gỡ “nút thắt” để tăng trưởng bứt phá

TĐKT - Sáng 3/1, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị trực tuyến tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2018 và triển khai kế hoạch năm 2019. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường chủ trì Hội nghị. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị Năm 2018 chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng của ngành nông nghiệp với kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản đạt kỷ lục trên 40 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Ngành nông nghiệp đã thể hiện là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế, trở thành một động lực tăng trưởng mạnh mẽ với mức tăng 3,76%, được xem là cao nhất trong 7 năm trở lại đây. Việt Nam khẳng định vị thế là cường quốc về xuất khẩu nông sản trên thế giới (đứng thứ 15 và đã xuất khẩu sang thị trường hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ). Năm 2018, có 2.200 doanh nghiệp nông nghiệp thành lập mới, tăng hơn 12% so với 2017. Song, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nông nghiệp, nông thôn nước ta vẫn còn những hạn chế, yếu kém và nhiều thách thức cần tập trung khắc phục trong thời gian tới. Đó là cơ cấu lại nông nghiệp triển khai chưa đồng đều ở các địa phương. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu. Tổ chức sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị chưa trở nên phổ biến, chủ đạo. Kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ trọng cao và tiếp tục bộc lộ những hạn chế, yếu kém cản trở quá trình sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Công nghiệp chế biến sâu chưa phát triển, lợi thế cạnh tranh năng suất lao động thấp, tổn thất sau thu hoạch còn cao. Thị trường tiêu thụ ngày càng biến động, nguy cơ rủi ro; trong khi năng lực quản trị, công tác dự báo cung - cầu còn bất cập. Dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát; quản lý an toàn thực phẩm vẫn rất khó khăn, phức tạp. Một số địa phương cơ bản hoàn thành xây dựng nông thôn mới để chuyển sang giai đoạn nâng cao, nhưng một số địa phương có số xã đạt chuẩn rất thấp. Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính  phủ Nguyễn Xuân Phúc đề nghị làm rõ những “nút thắt” trong ngành nông nghiệp để trên cơ sở đó, có những giải pháp tháo gỡ và tăng trưởng bứt phá hơn. Thủ tướng nhấn mạnh, Chính phủ, các bộ, ngành sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để gỡ nút thắt cho nông nghiệp Việt Nam phát triển, không chỉ xử lý vấn đề làm sao để 100 triệu dân có thực phẩm an toàn, đời sống nâng lên, nông dân phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước mà điều quan trọng là hướng vào xuất khẩu, nâng kim ngạch hơn so với năm 2018, một mục tiêu rất khó khi con số hiện nay đã ở mức cao. Phải phấn đấu trong 10 năm nữa, Việt Nam lọt vào nhóm 15 quốc gia có nền nông nghiệp phát triển nhất, riêng lĩnh vực chế biến nông sản, phải vào tốp 10 của thế giới. Phải phấn đấu trở thành trung tâm chế biến, xuất khẩu đồ gỗ, lâm sản hàng đầu thế giới, là nơi sản xuất tôm lớn của thế giới. Thủ tướng đặt chỉ tiêu tăng trưởng nông nghiệp 2019 phải đạt cao, ít nhất là 3%, xuất khẩu khoảng 42 - 43 tỷ USD và đề nghị cán bộ, công chức ngành nông nghiệp suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo để "đạt cao hơn mục tiêu đưa ra”. Gợi mở một số giải pháp, Thủ tướng nhấn mạnh đến việc phải có thể chế pháp luật tốt, phải xóa bỏ những quy định lạc hậu để nông nghiệp Việt Nam có bước tiến. Trong xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng định hướng cần chú trọng tiêu chí thu nhập của người dân, tránh bệnh thành tích.   Đi liền với đó là tái cơ cấu mạnh mẽ hơn, trong đó có xây dựng sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực địa phương; phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp như cá tra, gạo. Đặc biệt chú trọng vấn đề ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Theo dõi diễn biến thời tiết, thiên tai, chủ động làm công tác tham mưu chỉ đạo ứng phó với thiên tai, không để bị động bất ngờ; tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng về quản lý chặt chẽ chất lượng vật tư nông nghiệp… Cán bộ làm nông nghiệp cần có tinh thần là phải cùng nông dân, sống trong lòng nông dân để làm cuộc cách mạng mới trong nông nghiệp, nông thôn. Phương Thanh

10 sự kiện nổi bật của Tổng cục Hải quan năm 2018

TĐKT - Trong năm 2018 ngành Hải quan đã có nhiều điểm sáng nổi bật về nỗ lực thu ngân sách, xử lý nhiều vụ vi phạm, xây dựng quy chế xử lý kỷ luật cán bộ chặt chẽ, dẫn đầu về chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin. Ngành Hải quan đã bầu chọn 10 sự kiện nổi bật của ngành năm 2018. Thứ nhất, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2018. Tổng cục Hải quan phấn đấu thu ngân sách nhà nước năm 2018 đạt 313.000 tỷ đồng, bằng 110,6% dự toán, bằng 106,8% chỉ tiêu phấn đấu, tăng 5,54% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến số thu thuế của ngành Hải quan qua hệ thống ngân hàng phối hợp thu (thuế điện tử) đến 31/12/2018 đạt 297.300 tỷ đồng. Thứ hai, phát hiện, bắt giữ nhiều vụ việc vi phạm. Về công tác kiểm soát hải quan, trong năm vừa qua, lực lượng kiểm soát Hải quan toàn ngành đã chủ trì, phối hợp phát hiện, bắt giữ, xử lý: 16.633 vụ vi phạm pháp luật Hải quan (tăng 9,54 % so với cùng kỳ năm 2017); trị giá hàng hóa vi phạm ước tính 1.702 tỷ 417 triệu đồng (tăng 115,61 % so với cùng kỳ 2017). Cơ quan Hải quan đã khởi tố 62 vụ và chuyển cơ quan khác khởi tố 133 vụ (tăng lần lượt 21,57% và 95,59% so với cùng kỳ 2017). Thứ ba,tổ chức Hội nghị toàn quốc “Thúc đẩy Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại” diễn ra ngày 24/7/2018 do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ trong việc thúc đẩy triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại trong thời gian tới. Thứ tư, hoàn thiện thể chế về chính sách hải quan. Bên cạnh các hoạt động cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, Tổng cục Hải quan đã tham mưu trình Bộ Tài chính, Chính phủ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật để hoàn thiện thể chế về hải quan. Ngoài ra, Bộ Tài chính ban hành các văn bản, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục công cuộc cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất, nhập khẩu (XNK) hàng hóa… Thứ năm, ban hành Quy chế kiểm tra công vụ và xử lý, kỷ luật đối với công chức, viên chức, người lao động trong ngành hải quan. Mục tiêu quan trọng được Tổng cục Hải quan đặt ra trong Quy chế này là chống phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực, tham nhũng; nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức hải quan khi thực thi công vụ… Thứ sáu, tổ chức Tọa đàm: “Hải quan – Doanh nghiệp: Kết nối – Chia sẻ - Đồng hành”. Thông qua Tọa đàm, Tổng cục Hải quan đã gửi tới cộng đồng doanh nghiệp thông điệp là chủ đề buổi tọa đàm, đồng thời cũng là tuyên ngôn thực hiện quan hệ đối tác hải quan - doanh nghiệp hiện nay và những năm tiếp theo: “Hải quan - Doanh nghiệp: Kết nối – Chia sẻ - Đồng hành” trong quá trình cải cách, hiện đại hóa hải quan; trong xây dựng, thực hiện, giám sát thực thi pháp luật hải quan. Thứ bảy, Tổng cục Hải quan dẫn đầu Bảng xếp hạng về chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin ngành Tài chính.Với những nỗ lực không ngừng, năm 2018, Tổng cục Hải quan lần thứ hai liên tiếp được ghi nhận là đơn vị dẫn đầu trên Bảng xếp hạng về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) ngành Tài chính theo Báo cáo đánh giá xếp hạng mức độ sẵn sàng cho ứng dụng CNTT ngành Tài chính năm 2018 (chỉ số ICT Index ngành Tài chính 2018). Thứ tám, triển khai mở rộng Hệ thống quản lý hải quan tự động VASSCM. Trong năm 2018, Tổng cục Hải quan tiếp tục đẩy mạnh triển khai mở rộng hệ thống VASSCM ra phạm vi toàn quốc. Tính đến tháng 12/2018, hệ thống VASSCM đã triển khai tại 25/35 Cục Hải quan, tại 65 chi cục Hải quan và cho 276 doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho hàng không, kho ngoại quan và các kho bãi, địa điểm khác. Thứ chín, triển khai đánh giá năng lực công chức chuyên môn nghiệp vụ đang công tác trong 6 lĩnh vực nghiệp vụ chính. Theo kế hoạch, trong tháng 12/1018 và tháng 1/2019, Tổng cục tiếp tục tổ chức đánh giá năng lực tại các Cục Hải quan tỉnh, TP Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng và 6 Vụ/ Cục chuyên môn nghiệp vụ chính của Tổng cục. Dần tiến tới trong năm 2019, 2020 sẽ tiếp tục đánh giá tại các Cục Hải quan còn lại. Thứ mười, Chính phủ ban hành Nghị Quyết về việc gia nhập công ước ISTANBUL về tạm quản hàng hóa. Đây được coi là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm tạo thuận lợi thương mại với hơn 100 nước thành viên đã gia nhập. Ngoài ra, việc gia nhập Công ước cũng tạo cơ hội cho Việt Nam đăng cai các sự kiện quốc tế lớn về văn hóa, thể thao, nghệ thuật, qua đó góp phần nâng cao hình ảnh của đất nước và con người Việt Nam. Hồng Thiết

Sự kiện tiêu biểu của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam năm 2018

TĐKT – Sau tất cả những khó khăn và thách thức phải đối mặt, năm 2018, ngành Đường sắt Việt Nam (ĐSVN) tiếp tục nỗ lực để vượt qua và gặt hái những kết quả tích cực. Tạp chí Thi đua Khen thưởng cùng bạn đọc xin điểm lại những sự kiện tiêu biểu của ngành Đường sắt trong năm vừa qua. Luật Đường sắt sửa đổi chính thức có hiệu lực Luật Đường sắt sửa đổi có hiệu lực từ 1/7/2018, có vai trò quan trọng, tác động rất lớn tới sự phát triển của ngành đường sắt nói riêng và kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung. Luật Đường sắt sửa đổi, bổ sung một số quy định, mở ra hành lang pháp lý thông thoáng. Đặc biệt ưu đãi để phát triển đường sắt và cơ chế thu hút vốn đầu tư, hứa hẹn sẽ tạo đột phá trong phát triển lĩnh vực đường sắt. Quốc hội thông qua nguồn vốn 7.000 tỷ đồng Trong bối cảnh nguồn lực đầu tư cho đường sắt hạn chế trong khi việc huy động từ xã hội hóa đường sắt rất khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư ngoài Nhà nước thì việc Quốc hội đồng ý thông qua gói vốn đầu tư trung hạn 7.000 tỷ đồng, giai đoạn 2017 - 2020 cho ngành Đường sắt được ví như một cú hích khởi đầu cho việc từng bước triển khai thực hiện các dự án nâng cấp hạ tầng đường sắt hiện có. Với gói 7.000 tỷ đồng này, ngành Đường sắt sẽ sử dụng để nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng tốc độ và tải trọng đồng đều trên toàn tuyến đường sắt Bắc - Nam và đảm bảo kiểm soát an toàn giao thông đường sắt trong giai đoạn 2017 - 2021. Qua đó, tăng năng lực thông qua và sản lượng, khai thác hiệu quả tuyến đường sắt hiện hữu. Tổ chức thành công Hội nghị Tổng giám đốc Đường sắt OSJD Trong các ngày từ 16 – 19/4/2018, Tổng công ty ĐSVN đăng cai tổ chức thành công Phiên họp thứ 33, Hội nghị Tổng giám đốc các đường sắt thuộc Tổ chức hợp tác đường sắt (OSJD) tại TP Đà Nẵng. Đây là Hội nghị quốc tế với quy mô lớn, song với sự chuẩn bị chu đáo, cách thức tổ chức chuyên nghiệp, nước chủ nhà (Tổng công ty ĐSVN) đã để lại nhiều ấn tượng tốt, tiếp tục khẳng định tiềm năng phát triển của ngành đường sắt cũng như đất nước Việt Nam, mở ra nhiều triển vọng hợp tác, giao thương với bạn bè quốc tế… Hội nghị Tổng giám đốc Đường sắt OSJD lần thứ 33 Tổng công ty ĐSVN chuyển giao về Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và  hiệu quả quản lý vốn nhà nước, từ tháng 10 năm 2018, 19 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước thuộc 5 bộ: Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Tài chính, Giao thông vận tải (trong đó có Tổng công ty ĐSVN), được bàn giao về Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Sự chuyển giao này được kỳ vọng sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh và bước phát triển mới cho doanh nghiệp Nhà nước. Tăng cường hoạt động truyền thông, quảng bá hình ảnh ĐSVN Nhằm nâng cao uy tín và vị thế của ngành Đường sắt Việt Nam, trong năm 2018, Tổng công ty ĐSVN đã đẩy mạnh truyền thông, vận động tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ, Quốc hội đối với các dự án Đường sắt, quảng bá rộng rãi các sản phẩm, dịch vụ mới của ngành trên các phương tiện truyền thông. Đặc biệt, Tổng công ty ĐSVN cùng phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát sóng chương trình “Dặm dài đất nước”, đưa hình ảnh đường sắt đến gần hơn với khán giả trên cả nước. Chương trình “Dặm dài đất nước” phát hàng tuần trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam Công nghiệp Đường sắt khởi sắc Cùng với sự chuyển mình của ngành đường sắt những năm gần đây, lĩnh vực công nghiệp Đường sắt cũng có nhiều đột phá khi liên tiếp cho ra mắt những đoàn tàu thế hệ mới được thiết kế và sản xuất trong nước như đoàn tàu thế hệ 3, toa xe VIP hai giường... Đây là tín hiệu khả quan, cho thấy quyết tâm đổi mới, từng bước làm chủ công nghệ, lấy khoa học công nghệ là nền tảng, làm tiền đề cho những chiến lược mang tính bứt phá của ngành đường sắt trong tương lai.   Toa xe VIP hai giường Sẵn sàng hợp tác, cộng đồng lợi ích vì sự phát triển của xã hội Năm 2018, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã tiến hành ký kết chương trình hợp tác với các Tập đoàn, Công ty lớn như Vietel, Mobifone, SASCO, Điện Quang, Vietcombank… nhằm đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, mang đến cho khách hàng nhiều tiện ích và trải nghiệm mới như ví điện tử Momo, Amazing Rail Tour... Việc liên kết này mang tính chiến lược quan trọng, vì nó không chỉ giúp các doanh nghiệp tận dụng hiệu quả tiềm năng của nhau, nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp nước ngoài mà còn góp phần tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. VNR và Mobifone ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện Mai Thảo

Chương trình 135 làm thay đổi nhanh và cơ bản diện mạo nông thôn vùng dân tộc và miền núi

TĐKT - Ngày 28/12, tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc tổ chức Hội thảo “Chương trình 135 - Dấu ấn 20 năm đồng hành với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc (UBDT) Y Thông chủ trì Hội thảo. Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT Y Thông phát biểu tại Hội thảo Trước đó, ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Đây là một chương trình đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có ảnh hưởng không những đến phát triển kinh tế - xã hội cải thiện đời sống cho đồng bào ở các vùng này, mà còn góp phần giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng ở những địa bàn xung yếu của đất nước. Trải qua 20 năm thực hiện, Chương trình 135 đã được cả hệ thống chính trị, các tổ chức quốc tế và nhân dân cả nước ghi nhớ như một “thương hiệu” đồng hành cùng đồng bào dân tộc thiểu số và địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT Y Thông nhấn mạnh, suốt 20 năm qua, Chương trình 135 đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tiêu biểu: Hệ thống cơ sở hạ tầng vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đầu tư với hàng nghìn công trình (đường giao thông liên thôn xã, trường học, trạm y tế, công trình hỗ trợ tưới tiêu, nhà sinh hoạt cộng đồng…). Nhiều mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất và cách làm mới đã tạo cơ hội việc làm, cải thiện sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số, giúp người dân vươn lên thoát nghèo. Từ sự quan tâm của cả hệ thống chính trị các cấp, ngành, địa phương; sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế, Chương trình 135 đã trở thành “thương hiệu” của UBDT nói riêng và Việt Nam nói chung trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Được coi là điển hình cho sự quan tâm về mặt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, chương trình là căn cứ, cơ sở để xây dựng nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội và áp dụng chính sách an sinh đặc thù, là mô hình để các tổ chức quốc tế quan tâm đầu tư hỗ trợ, cũng như kinh nghiệm giảm nghèo trên bình diện quốc tế. UBDT trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc” cho 19 cá nhân Qua từng giai đoạn, Chương trình 135 được thực hiện theo mô hình khác nhau, với mục tiêu, nội dung cụ thể, phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội của địa bàn cũng như khả năng cân đối nguồn lực. Có thể nói, Chương trình 135 cũng như các chính sách dân tộc đã đi vào cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Đến nay, hầu hết các xã đặc biệt khó khăn đã có đầy đủ các công trình hạ tầng: 100% xã có đường ô tô đến trung tâm; 99% trung tâm xã và 80% thôn có điện; 65% xã có hệ thống thủy lợi nhỏ đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống; 88% thôn có đường cho xe cơ giới và 42% thôn có đường giao thông đạt chuẩn; hơn 50% xã có trạm y tế đạt chuẩn. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh theo từng giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn 1999 - 2005 giảm 4,5%/năm; từ 2006 đến nay giảm khoảng 3,5%/năm… Việc phổ biến, học tập các mô hình sản xuất, làm ăn hiệu quả, năng suất cao, tăng cường khuyến nông khuyến lâm, kết hợp với hỗ trợ giống cây trồng vật nuôi, chính sách cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất đã góp phần thay đổi nhận thức của một bộ phận lớn đồng bào các dân tộc, giúp nhiều hộ vươn lên thoát nghèo, nhiều hộ có thu nhập cao. Đội ngũ cán bộ cơ sở được đào tạo, tập huấn thường xuyên, góp phần nâng cao năng lực cho cộng đồng, đáp ứng yêu cầu quản lý các hoạt động của Chương trình. Thời gian tới, Phó Chủ nhiệm Y Thông mong muốn sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm, phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và người dân. Từ đó, giúp Chương trình 135 trong các năm tiếp theo, gần nhất là giai đoạn 2021 - 2025, được triển khai thực hiện thành công, tiếp tục đóng góp những thành tựu và dấu ấn đối với công cuộc giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của cả nước. Nhân dịp này, để ghi nhận đóng góp cho sự nghiệp giảm nghèo của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, UBDT đã trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc” cho 19 cá nhân thuộc các bộ, ngành đã có thành tích xuất sắc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Phương Thanh

Xây dựng doanh nghiệp, thương hiệu Việt Nam xanh bền vững

TĐKT - Chiều 28/12, tại Hà Nội, Báo Tài nguyên và Môi trường tổ chức Chương trình “Doanh nghiệp, thương hiệu công nghệ xanh Việt Nam” năm 2018. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Võ Tuấn Nhân dự và phát biểu ý kiến. Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân trao Giấy chứng nhận cho các doanh nghiệp, thương hiệu công nghệ xanh Chương trình lần này được tổ chức nhằm truyền thông, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc ứng dụng công nghệ xanh trong sản xuất, kinh doanh bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên vì mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia. Đồng thời, đây cũng là dịp để các doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế, môi trường trong và ngoài nước chia sẻ, thảo luận để có hướng đi phù hợp trong việc xây dựng thương hiệu Việt Nam xanh bền vững và tâm thế sẵn sàng trước làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với đó, các doanh nghiệp có cơ hội kiến nghị với các bộ, ngành, địa phương, cơ quan chức năng về những vướng mắc cơ chế trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng và đầu tư công nghệ mới. Đặc biệt là khó khăn trong tìm kiếm nguồn vốn ưu đãi, chính sách và hình thức hỗ trợ doanh nghiệp, đơn cử như tiêu thụ sản phẩm xanh. Trong Chương trình, một số doanh nghiệp đã giới thiệu giải pháp ứng dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường: Giải pháp bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt cho công trình; giải pháp xử lý rác thải tại Việt Nam; giải pháp quản lý vận hành các tòa nhà tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường… Phát biểu tại Chương trình, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân cho biết: Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của ô nhiễm môi trường do áp lực phát triển kinh tế và thuộc vùng bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Do vậy, trong quá trình phát triển kinh tế, việc các doanh nghiệp chủ động, ý thức giảm thiểu ô nhiễm là vô cùng cần thiết đối với sự phát triển bền vững. Mỗi doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Đây là tiêu chí để doanh nghiệp phát triển bền vững, đồng thời là cơ sở để người dân tin dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Đã đến lúc cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam muốn tồn tại và phát triển phải tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn, là lợi thế của Việt Nam; đồng thời chuyển hướng sang các mô hình phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế các–bon thấp. Doanh nghiệp cần thể hiện vai trò tiên phong, sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, xây dựng được các hệ thống quan trắc, giám sát nước thải, khí thải hiện đại; đầu tư các hệ thống dự báo, cảnh báo tác động của môi trường đến cộng đồng xung quanh… Đồng thời, doanh nghiệp cần phải thay đổi nhận thức, mô hình hoạt động sản xuất, gắn sản xuất, kinh doanh với tiêu dùng xanh; xây dựng văn hóa các – bon thấp, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và hài hòa với môi trường. Đây là thời điểm để thay đổi mô hình tăng trưởng hiện tại, xây dựng mô hình tăng trưởng xanh nhằm đạt được sự phát triển nhanh và bền vững. Cùng với đó, tận dụng các cơ hội về liên kết khu vực, hợp tác giữa các quốc gia trong phát triển, chuyển giao công nghệ thân thiện môi trường, giảm phát thải nhà kính thông qua sử dụng các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, giảm dần và tiến tới xóa bỏ năng lượng hóa thạch. Từ năm 2015, Báo Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức chương trình thường niên “Doanh nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường vì mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia”. Qua 3 lần tổ chức, chương trình đã truyền cảm hứng, ý thức cho một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, doanh nhân về ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm, hiệu quả, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tăng trưởng xanh. Phương Thanh

Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới

TĐKT - Trong năm qua, kinh tế - xã hội nước ta có nhiều mặt chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Họp báo chuyên đề chiều 27/12 về công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại của ngành Hải quan năm 2018 Trước tình hình trên, với quyết tâm "tích cực, chủ động” trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo lực lượng kiểm soát hải quan, nòng cốt là Cục Điều tra chống buôn lậu, bám sát các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo 389 Quốc gia, Ban chỉ đạo 138/CP, Bộ Tài chính, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả nhiều giải pháp. Qua đó, đã chủ động kiểm soát được tình hình, chủ động phát hiện và đấu tranh triệt để với các phương thức, thủ đoạn mới, triệt phá thành công nhiều chuyên án, vụ việc lớn, phức tạp, bóc gỡ thành công nhiều ổ nhóm, tụ điểm buôn lậu, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành Hải quan trong công tác phòng, chống tội phạm và phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại, hàng giả, góp phần tích cực đảm bảo tăng thu cho ngân sách nhà nước. Phó Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng Cục Hải quan) Nguyễn Khánh Quang cho biết, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Các đối tượng vi phạm hoạt động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, liều lĩnh, táo bạo, tổ chức thành đường dây, ổ nhóm để buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa vào Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ, từ ngày 16/12/2017 đến ngày 15/12/2018, lực lượng kiểm soát Hải quan toàn ngành đã chủ trì, phối hợp phát hiện, bắt giữ, xử lý 16.633 vụ việc vi phạm trong lĩnh vực hải quan (tăng 9,54 %); trị giá hàng hóa vi phạm ước tính hơn 1.702 tỷ đồng (tăng hơn 115,6 %); thu ngân sách đạt 350,966 tỷ đồng (tăng 4,83 %) so với cùng kỳ năm 2017. Cơ quan Hải quan khởi tố 62 vụ án hình sự, chuyển cơ quan khác kiến nghị khởi tố 133 vụ. Riêng về ma túy, toàn ngành hải quan đã chủ trì, phối hợp phát hiện, bắt giữ 216 vụ vi phạm liên quan đến chất ma túy, thuốc gây nghiện hướng thần và xuất nhập khẩu tiền chất (tăng 115 vụ, tương đương tăng 113,86% so với cùng kỳ năm 2017). Thu giữ: 54.021,81 gram và 444 bánh Heroin; 128.166,87 gram, 364.258 viên và 185 túi, gói ma túy tổng hợp; 176.176 gram ma túy đá; 104,833 kg Cocain; 2.500 kg lá Khát; 3.800 kg tiền chất... Năm 2018, số vụ vi phạm pháp luật Hải quan tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2017, đáng chú ý hơn là trị giá hàng hóa vi phạm tăng cao. Các vụ việc vi phạm diễn ra ở tất cả các tuyến biên giới, cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, bưu điện quốc tế... Mặt hàng vi phạm đa dạng bao gồm hàng cấm, hàng xuất nhập khẩu có điều kiện, hàng sở hữu trí tuệ, hàng vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe cộng đồng... Theo Cục Điều tra chống buôn lậu, trong thời gian qua, các đối tượng đã vận chuyển ma tuý đã chuyển hướng trong cách vận chuyển, để lẫn ma tuý trong hàng hoá, vận chuyển qua các phương tiện, qua nhiều chặng để qua mắt các cơ quan chức năng. Đơn cử, ngày 11/12/2018, Chi cục Hải quan cửa khẩu Lao Bảo – Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị kiểm tra, kiểm soát phát hiện 1 phương tiện vận tải hành khách có cất giấu ma túy trong 2 chiếc loa thùng do 1 đối tượng người Lào thuê vận chuyển về Việt Nam.  Qua theo dõi, phương tiện đến Bến xe Miền Đông– TP Hồ Chí Minh, bắt quả tang 2 đối tượng nhận 2 chiếc loa có chứa ma túy. Tang vật thu giữ: 19 kg ma túy tổng hợp dạng đá. Lý giải khi phát hiện có ma tuý mà không bắt ngay tại cửa khẩu, đại diện Cục điều tra chống buôn lậu cho biết, trong đấu tranh chống ma tuý cần sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng đặc biệt là Công an và phải xác định và bắt được đúng đối tượng, đường dây lớn. Trong thời gian qua, lực lượng Hải quan đã phối hợp với các lực lượng phòng, chống ma tuý triệt phá được nhiều ổ nhóm, đường dây lớn. Từ nay đến Tết Nguyên đán, hoạt động buôn lậu dự báo tiếp tục gia tăng, diễn biến phức tạp, các đơn vị tăng cường cải cách, hiện đại hóa phương thức kiểm soát hải quan, ứng dụng triệt để công nghệ thông tin, tăng cường sử dụng các trang thiết bị, kỹ thuật quản lý hiện đại trong hoạt động nghiệp vụ kiểm soát hải quan, đảm bảo kịp thời phân tích thông tin, xác định trọng điểm, chủ động phòng ngừa, đấu tranh triệt để với các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Qua đó, hỗ trợ đắc lực cho lực lượng kiểm soát hải quan toàn ngành trong việc phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật Hải quan. Tại những tuyến địa bàn nổi cộm, đại diện Tổng cục Hải quan cho biết sẽ tập trung vào những mặt hàng trọng điểm: Tăng cường chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới tại địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị; tăng cường công tác phòng, chống ma tuý và quản lý tiền chất giai đoạn 2018 - 2020; tăng cường công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng; cao điểm đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trước, trong và sau Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019. Hồng Thiết

Bảo vệ thương hiệu hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc

TĐKT - Ngày 24/12, tại Hà Nội, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương chủ trì tổ chức Hội thảo Thông tin thị trường, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại Doãn Thị Thu Thủy cho biết, mục đích của Hội thảo nhằm cập nhật những thông tin mới nhất về tình hình thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các rào cản kỹ thuật, thương mại; đồng thời giải đáp những vướng mắc trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hóa xuất khẩu tại thị trường Trung Quốc, qua đó tăng cường khả năng xuất khẩu qua con đường chính ngạch những mặt hàng có thế mạnh sang thị trường Trung Quốc. Bảo vệ thương hiệu hàng nông sản Việt Nam Với những điểm tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán cũng như vị trí địa lý thuận lợi, Trung Quốc vẫn luôn là một trong những thị trường thương mại lớn nhất và giàu tiềm năng của Việt Nam. Các mặt hàng nông, lâm, thủy, hải sản luôn là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam; trong đó, kể đến các sản phẩm thủy sản Việt Nam hiện được xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu: Tôm đông lạnh, cá tra, cá basa, cua, ghẹ, bạch tuộc.. Riêng khu vực Tây Nam, Trung Quốc (Trùng Khánh, Tứ Xuyên) có nhu cầu lớn với cá hố. Ngoài ra, Vân Nam cũng là địa phương có nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thủy sản lớn, tuy nhiên do khó khăn về khâu vận chuyển và thời gian thông quan nên Việt Nam chưa khai thác được hiệu quả thị trường này. Khu vực Tây Nam (bao gồm cả Quảng Tây và Vân Nam) và miền Trung, Trung Quốc là các địa phương có ngành sản xuất giày dép không phát triển, chủ yếu tiêu dùng các sản phẩm giày dép thông thường và yêu cầu đối với chất lượng sản phẩm không quá cao, do vậy các sản phẩm giày dép của Việt Nam sẽ có cơ hội thâm nhập thị trường khi được tập trung thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường này. Hiện kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tháng 9/2018 ước đạt 3,38 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng năm 2018 đạt 29,55 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc với 22,9% (tương đương khoảng 6,7 tỷ USD). Hiện Việt Nam đang đàm phán thêm các sản phẩm: Na, chanh leo, bưởi, măng cụt và quả roi. Quảng Tây và Vân Nam dự kiến vẫn là các địa phương nhập khẩu chủ yếu các loại hoa quả nhiệt đới của Việt Nam trong thời gian tới. Các chuyên gia khuyến cáo, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực và nhận thức trong việc nắm bắt các quy định kỹ thuật và yêu cầu về SPS của thị trường Trung Quốc. Qua đó, xây dựng chiến lược quảng bá và tiếp thị cho sản phẩm cho thị trường trong nước và nước ngoài; các kênh phân phối. La Giang

Trang