Kinh tế

Giải đáp những vướng mắc liên quan đến hoàn thuế giá trị gia tăng

TĐKT - Thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều báo đã đưa tin phản ánh vướng mắc liên quan đến hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang theo khi xuất cảnh theo quy định tại Thông tư số 72/2014/TT-BTC ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính. Về vấn đề này, Tổng cục Hải quan thông tin đến báo chí như sau: Trước đó, tại Chi cục Hải quan Cửa khẩu Sân bay Quốc tế Nội Bài xuất hiện trường hợp cháu bé 9 tuổi có quốc tịch Australia đứng tên trên tờ khai đề nghị hoàn thuế giá trị gia tăng với tư cách người mua hàng, hàng hóa là một chiếc đồng hồ trị giá 6 tỷ đồng. Bé 9 tuổi người Australia mua đồng hồ giá 6 tỷ đồng tại Việt Nam, Hải quan Hà Nội từ chối hoàn thuế vì cháu bé dùng hộ chiếu Việt Nam khi xuất cảnh Tổng cục Hải quan cho biết, cháu bé có hai hộ chiếu Việt Nam và Australia. Khi xuất cảnh đã xuất trình hộ chiếu Việt Nam, do vậy, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Sân bay Quốc tế Nội Bài - Cục Hải quan TP Hà Nội đã từ chối hoàn thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp này do không thuộc đối tượng hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư 72/2014/TT-BTC nêu trên. Ngoài ra, hiện nay, Thông tư số 72/2014/TT-BTC ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính chưa quy định cụ thể về độ tuổi của người đề nghị hoàn thuế. Để ngăn ngừa các trường hợp có thể lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng nêu trên, Tổng cục Hải quan sẽ nghiên cứu, phối hợp với các đơn vị liên quan để đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản chính sách có liên quan việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang theo khi xuất cảnh phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Một trường hợp khác là trường hợp người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam, đã được cấp thẻ tạm trú dài hạn, khi xuất cảnh có đề nghị hoàn thuế (trị giá tài sản hoàn thuế lớn, ví dụ: Đồng hồ đeo tay), sau đó nhập cảnh trở lại Việt Nam và có mang tài sản đã được hoàn thuế theo người, đó là ông Hwang Gi Sun, Quốc tịch Hàn Quốc được cấp thẻ tạm trú dài hạn, ngày 3/1/2019 có đề nghị hoàn thuế cho chiếc đồng hồ đeo tay trị giá 4,39 tỷ đồng. Cụ thể, ngày 15/01/2019, ông Hwang Gi Sun xuất cảnh từ Nội Bài đi Thái Lan (trong hóa đơn đặt vé máy bay thể hiện cả chiều đi từ Việt Nam đến Thái Lan và chiều về từ Thái Lan về Việt Nam), mang theo chiếc đồng hồ đã được hoàn thuế. Tuy nhiên, đến ngày 16/1/2019 ông này nhập cảnh trở lại Việt Nam cầm theo chiếc đồng hồ nêu trên. Đối với trường hợp này Tổng cục Hải quan lý giải, đối chiếu quy định tại Thông tư số 72/2014/TT-BTC, ông Hwang Gi Sun là đối tượng hoàn thuế giá trị gia tăng; tại thời điểm đề nghị hoàn thuế giá trị gia tăng nếu có đầy đủ các chứng từ hợp lệ và làm thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định Thông tư số 72/2014/TT-BTC thì việc Chi cục Hải quan Cửa khẩu Sân bay Quốc tế Nội bài đã thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng cho trường hợp này là đúng quy định. Bên cạnh đó, trong khi nhập cảnh, căn cứ Điều 54 Luật Hải quan và Nghị định số 134/2016/NĐ-CP, Tổng cục Hải quan cho biết, trường hợp này chiếc đồng hồ đã được hoàn thuế giá trị gia tăng, nếu cơ quan hải quan phát hiện ông Hwang Gi Sun nhập cảnh mang theo hành lý có vật phẩm vượt định mức miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 6 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP thì phải kê khai nộp thuế nhập khẩu theo quy định. Hồng Thiết  

Kêu gọi đầu tư 8 dự án thành phần xây dựng đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam

TĐKT - Ngày 17/5, tại Hà Nội, Bộ Giao thông vận tải tổ chức Hội nghị kêu gọi đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020. Đoạn Cao Bồ (Nam Định) - Mai Sơn (Ninh Bình) là một trong 3 dự án cao tốc được đầu tư theo hình thức công Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Nhật cho biết: Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 (Nghị quyết 52) thông qua chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020. Theo đó, giai đoạn 2017 - 2020 sẽ đầu tư xây dựng 654 km, chia thành 11 dự án thành phần gồm 3 dự án đầu tư công và 8 dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Tổng mức đầu tư của các dự án khoảng 118 nghìn tỷ đồng, trong đó phần vốn Nhà nước tham gia là 55 nghìn tỷ đồng đầu tư cho 3 dự án đầu tư công, hỗ trợ toàn bộ công tác giải phóng mặt bằng  và góp một phần vốn xây dựng công trình để đảm bảo tính khả thi của các dự án. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc lựa chọn nhà đầu tư các dự án thành phần theo hình thứ PPP sẽ áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi quốc tế theo 2 giai đoạn: Sơ tuyển quốc tế và giai đoạn đấu thầu. Đến nay, hồ sơ mời sơ tuyển quốc tế của toàn bộ 8 dự án thành phần đầu tư theo hình thức PPP đã được phát hành rộng rãi đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật khẳng định: "Các tiêu chí lựa chọn sơ tuyển nhà đầu tư đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, cạnh tranh và minh bạch, không phân biệt nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Bất kỳ nhà đầu tư nào đáp ứng đủ năng lực, kinh nghiệm, cung cấp được dịch vụ tốt nhất với chi phí hợp lý sẽ được lựa chọn để thực hiện dự án”. Tại Hội nghị, các đại biểu đã được cung cấp đầy đủ thông tin về Dự án; quy trình sơ tuyển; yêu cầu năng lực, kinh nghiệm của nhà đầu tư theo quy định pháp luật; những thông tin cần thiết về môi trường đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng tại Việt Nam… Bên cạnh việc công khai, minh bạch toàn bộ thông tin liên quan tới dự án, tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước được bảo đảm quyền bình đẳng theo quy định pháp luật Việt Nam; có thể đăng ký tham gia đầu tư dự án nếu có đủ năng lực và kinh nghiệm. Công tác sơ tuyển, đấu thầu nhà đầu tư sẽ được bên mời thầu thực hiện theo đúng luật định trên nguyên tắc công bằng, minh bạch và cạnh tranh. Phương Thanh

Tái cấu trúc doanh nghiệp gia đình Việt Nam: Thúc đẩy lợi ích kinh tế bền vững

TĐKT- Chiều 16/5, Công ty cổ phần P&A Illances cùng các đối tác tổ chức Tọa đàm “Tái cấu trúc doanh nghiệp gia đình Việt Nam: Thách thức và kiến tạo”. Tọa đàm “Tái cấu trúc doanh nghiệp gia đình Việt Nam: Thách thức và kiến tạo” Tọa đàm có sự tham gia của nhiều cố vấn, chuyên gia kinh tế cùng sự góp mặt của hơn 50 các công ty gia đình lớn tại Việt Nam. Mục tiêu của tọa đàm nhằm hỗ trợ các chủ doanh nghiệp Việt Nam, vốn xuất thân từ mô hình sở hữu gia đình, xây dựng và thực thi tốt hơn chiến lược phát triển bền vững và mở rộng quy mô trong giai đoạn mới. Thực tế cho thấy, top 100 doanh nghiệp gia đình lớn nhất Việt Nam đã đóng góp tới 1/4 GDP của Việt Nam trong năm 2018. Mô hình quản trị doanh nghiệp gia đình có nhiều lợi thế như: Sự gắn bó của các thành viên, của ban lãnh đạo và nhân viên chủ chốt. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, có rất nhiều vấn đề đặt ra đối với một doanh nghiệp do gia đình sở hữu như làm sao để cân bằng được mối quan hệ, áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại, thu hút nhân tài bên ngoài và đặc biệt là vấn đề xây dựng và thực thi một chiến lược và kế hoạch kế nhiệm. Trong quá trình xây dựng và thực thi một chiến lược phát triển doanh nghiệp và kế hoạch kế nhiệm (Succession Planning), một doanh nghiệp gia đình tại Việt Nam thông thường sẽ đứng trước 3 lựa chọn chiến lược chính: Thứ nhất, tiếp tục duy trì mô hình quản trị gia đình nhưng có một Succession Planning rõ ràng và gia đình vẫn duy trì sở hữu chi phối và điều hành; thứ hai, từng bước “đại chúng hóa” qua các bước như đa dạng hóa cơ cấu cổ đông cho các đối tác chiến lược hoặc quỹ đầu tư vốn cổ phần và qua đó từng bước cải thiện công tác quản trị cũng như tận dụng nguồn lực từ việc bán cổ phần để tiếp tục đưa doanh nghiệp lên một tầm cao mới; thứ ba, chuyển nhượng toàn bộ hoặc chi phối cho các đơn vị trong cùng ngành hoặc các nhà đầu tư nước ngoài. Các sự lựa chọn chiến lược này sẽ đòi hỏi chủ doanh nghiệp có được sự đánh giá thấu đáo về không chỉ đặc thù của gia đình mình mà còn đòi hỏi có được một tầm nhìn dài hạn và rộng, trong bối cảnh mà các doanh nghiệp tốt và có mô hình kinh doanh tốt đều “có giá” và nhất là trong bối cảnh làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ Hàn Quốc và Nhật Bản đang xem kênh M&A là hình thức mở rộng kinh doanh ở Việt Nam một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều so với kênh đầu tư trực tiếp FDI truyền thống. Hồng Thiết  

Đánh giá tình hình triển khai thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công

TĐKT - Ngày 16/5, tại Hà Nội, Bộ Tài chính tổ chức Hội nghị trực tuyến đánh giá tình hình triển khai thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương và các điểm cầu trực tuyến trên cả nước. Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà phát biểu khai mạc Hội nghị Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Trần Xuân Hà cho biết: Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Triển khai Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Bộ Tài chính đã phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 14 Nghị định, 3 Quyết định. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành 8 Thông tư hướng dẫn. Ngoại trừ Nghị định quy định việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho các Hợp đồng BT Chính phủ đang xem xét để ban hành, cho đến nay, tất cả văn bản hướng dẫn Luật Quản lý, sử dụng tài sản công đã được ban hành đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện. Sau 1 năm triển khai luật, đã có 11 bộ, ngành ở trung ương và 62 địa phương đã ban hành văn bản về phân cấp thẩm quyền trong việc quản lý, sử dụng tài sản công; 12 bộ, ngành và 32 địa phương đã ban hành tiêu chuẩn, định mức máy móc, thiết bị chuyên dụng; tạo ra sự đồng bộ chung trong việc thực thi quy định pháp luật. Trong năm qua, Bộ Tài chính đã phối hợp với các bộ, ngành địa phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện sắp xếp lại, xử lý các cơ sở nhà, đất, tạo điều kiện cho các đơn vị trong việc bố trí trụ sở làm việc cũng như rà soát các cơ sở nhà, đất để xây dựng phương án cổ phần hóa đối với các các doanh nghiệp nhà nước chặt chẽ, đúng quy định. Bên cạnh đó, các bộ ngành địa phương cũng đã rà soát để phân loại các tài sản là kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa, hiện nay cũng đang rà soát để phân loại tài sản kết cấu hạ tầng đường bộ theo tinh thần Nghị định Chính phủ mới ban hành. Bộ Tài chính tiếp tục hoàn thiện hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công, hướng dẫn phân cấp đăng nhập dữ liệu tài sản công và sử dụng các phần mềm khác để quản lý tài sản chuyên dùng, tạo điều kiện cho các đơn vị truy cập vào hệ thống để quản lý tài sản của mình, đồng thời đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách cho các cơ quan, đơn vị. Việc quản lý tài sản công theo luật mới đã được thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả, bước đầu đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong quá trình thực hiện cho thấy có một số vấn đề cần được tập trung trao đổi để hoàn thiện, cụ thể là: Việc phân cấp quản lý tài sản công cần được phân cấp mạnh hơn nữa, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương có thẩm quyền quyết định phương án xử lý sắp xếp xử lý tài sản công ở đơn vị, địa phương mình, có thể là quyết định hình thức bán đấu giá tài sản trên đất để lấy tiền thu vào ngân sách Nhà nước (NSNN). Một số quy định trong các văn bản hướng dẫn, chủ yếu ở cấp Nghị định cần được nêu rõ hơn như đối tượng áp dụng, đặc biệt là việc sắp xếp lại các cơ sở nhà, đất đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có trên 50% vốn của nhà nước, doanh nghiệp có hình thức công ty mẹ, công ty con… đều cần có hướng dẫn cụ thể. Việc ban hành các tiêu chuẩn, định mức tài sản chuyên dùng của một số bộ, ngành như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội chậm, từ đó đã có những khó khăn nhất định trong việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở. Việc sắp xếp cơ sở nhà, đất của các cơ quan hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp cũng cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thực hiện và có biện pháp quản lý, giám sát chặt chẽ để sử dụng quản lý tài sản công đúng mục đích, hiệu quả, tránh thất thoát tài sản nhà nước. Do đó, Hội nghị là dịp để Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, các địa phương đánh giá và làm rõ hơn những kết quả đã đạt được, những khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoàn thiện cơ chế chính sách; đồng thời các bộ, ngành, địa phương cũng sẽ phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát thực hiện, nhằm phát huy hiệu quả việc quản lý, sử dụng tài sản công, phòng, tránh các biểu hiện tiêu cực, thất thoát tài sản công. Hồng Thiết  

Toạ đàm an toàn an ninh trong lĩnh vực chứng khoán

TĐKT - Ngày 15/5, tại Hà Nội, Tọa đàm tực tuyến "An toàn, an ninh trong lĩnh vực chứng khoán" đã được Báo điện tử Thời báo Chứng khoán Việt Nam tổ chức với sự tham gia của đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Sở Giao dịch Chứng khoán (GDCK) Hà Nội cùng các chuyên gia, doanh nghiệp… Các đại biểu trao đổi tại Toạ đàm Tọa đàm "An toàn, an ninh trong lĩnh vực chứng khoán" diễn ra trong bối cảnh tin đồn trên thị trường chứng khoán đang ngày càng phức tạp, nhất là trên môi trường internet. Từ đó đòi hỏi các thành viên thị trường, nhất là nhà đầu tư và doanh nghiệp niêm yết phải có những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Phát biểu khai mạc Tọa đàm, nhà báo Vũ Kim Thành – Tổng biên tập Báo điện tử Thời báo Chứng khoán Việt Nam cho rằng: Gần đây trên thị trường chứng khoán liên tục xuất hiện tin đồn. Có tin đồn đã thành sự thực nhưng không ít tin đồn thất thiệt, gây thiệt hại cho nhà đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp tới giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường. Để góp phần bảo vệ doanh nghiệp, nhà đầu tư trước những thông tin thất thiệt, trong buổi tọa đàm, các quan chức, chuyên gia sẽ đưa ra các giải pháp giúp tăng cường quản lý, kiểm soát tin đồn thất thiệt trong thời gian tới. Cùng với đó, đại diện một số doanh nghiệp sẽ chia sẻ kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng khi vướng tin đồn thất thiệt. Thông qua 2 phiên thảo luận với các chủ đề như: Tin đồn tiêu cực đã gây ảnh hưởng thế nào tới doanh nghiệp, nhà đầu tư và thị trường chứng khoán; tin đồn liệu có là đòn bẩy giá cổ phiếu, dưới sự phân tích của các cơ quan quản lý, chuyên gia, những giải pháp hiệu quả trong việc xử lý và kiểm soát tin đồn đã có nhiều hướng tháo gỡ. Trao đổi về thực tế tin đồn trên thị trường chứng khoán hiện nay, ông Nguyễn Thế Thọ - Vụ trưởng Vụ Giám sát thị trường chứng khoán - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho rằng: Thông tin là một kênh rất quan trọng tác động đến tâm lý của tất cả mọi người trong lĩnh vực chứng khoán. "Tin đồn tồn tại trong mọi thị trường, khi thị trường chứng khoán còn non trẻ thì tin đồn càng có khả năng có đất sống. Tin đồn là truyền tải những thông tin chưa được xác thực qua truyền miệng, qua mạng xã hội, qua công nghệ nên sức lan tỏa rất lớn, có thể tin đồn trở thành sự thật hoặc không, có thể xuất phát từ sự kiện hoặc có thể tạo ra từ một nhóm đối tượng, cá nhân với mục đích gây ra những sự bất thường trong lĩnh vực kinh tế. Theo quy định, tại các nước kinh tế phát triển, tin đồn là mục tiêu để một nhóm đối tượng nào đó trục lợi thị trường khi xem xét đến hành vi giao dịch mang tính thao túng thị trường. Các đối tượng, các chủ thể liên quan trực tiếp đến tin đồn phải có phản ứng kịp thời để thông tin lại, khiến tin đồn thất thiệt không có đất sống. Vai trò của các cơ quan giám sát của các tổ chức tham gia thị trường theo Luật Kinh doanh chứng khoán yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết phải công bố thông tin bất thường, thông tin định kỳ", ông Thọ nhấn mạnh. Còn theo ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Chuyên gia kinh tế: "Nếu nói về tin đồn, chúng ta có nhiều cách tiếp cận. Phải biết phân biệt tin đồn. Có tin đồn có chủ đích, có tin đồn không có chủ đích. Có tin đồn có chủ thể, có tin đồn không có chủ thể. Có những tin đồn sẽ trở thành sự thật, có những tin đồn không trở thành sự thật. Có những tin đồn mang đến lợi ích, có những tin đồn không mang đến lợi ích. Tin đồn là thông tin thì phải trị bằng chính thông tin. Khi bưng bít thông tin, không rõ nguồn gốc, không có thông tin phản hồi, câu chuyện sẽ khác. Kết luận buổi Tọa đàm, ông Nguyễn Thanh Kỳ - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam cho rằng: "Sau buổi thảo luận hôm nay, tôi mong rằng UBCKNN nên gắn kết hơn với các thành viên. Vì thị trường chứng khoán là thị trường của niềm tin và quan trọng hơn, nó là một thị trường gắn liền với nền kinh tế, sức khỏe của thị trường chứng khoán thể hiện sức khỏe của nền kinh tế". Mai Thảo  

Nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập

TĐKT - Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức “Hội nghị Ổn định kinh tế và cạnh tranh doanh nghiệp” vào sáng 15/5, tại Hà Nội. Toàn cảnh Hội nghị Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá và đưa ra giải pháp, chính sách đảm bảo vấn đề kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập. Năm 2018, nền kinh tế Việt Nam khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đạt 7,08% so với năm 2017 - mức tăng cao nhất 11 năm qua. Chất lượng tăng trưởng và môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh. Nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố và từng bước được tăng cường. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng giảm dần, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018, Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh giá Việt Nam đứng thứ 77/140 nền kinh tế với số điểm và thứ hạng tương đối cao về ổn định kinh tế vĩ mô. Trong chương trình, các đại biểu đã được nghe các chuyên gia chia sẻ quan điểm về những vấn đề: Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động đến hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Thực trạng và những vấn đề đặt ra; hành lang pháp lý ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh; năng lực của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế; vai trò quản trị trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; giải pháp tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay… Trung tướng, PGS.TS. Đường Minh Hưng, Cục trưởng Cục An ninh Kinh tế cho rằng: Cạnh tranh có tác dụng đổi mới, thúc đẩy sản xuất, là động lực để tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vì lợi ích mà nhiều nhà kinh doanh đã bất chấp, sử dụng các phương thức cạnh tranh không lành mạnh, đã gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Để tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, hành lang pháp lý ngăn ngừa và xử lý những hành vì cạnh tranh không lành mạnh đã được xây dựng, bao gồm: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản pháp luật có liên quan... Luật Cạnh tranh 2018 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng, phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế, mở rộng phạm vi điều chỉnh để điều tra, xử lý toàn diện mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh dù xảy ra tại đâu nhưng có tác động hoặc có khả năng gây tác động tiêu cực đối với cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Theo chuyên gia kinh tế, TS. Cấn Văn Lực, trong bối cảnh rủi ro ngoại sinh gia tăng, diễn biến phức tạp, khó lường, khi nền kinh tế Việt Nam ngày càng mở, hội nhập sâu rộng, việc xây dựng các giải pháp phù hợp nhằm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Để có sự chuẩn bị tốt nhất, các doanh nghiệp Việt Nam cần có kế hoạch ứng xử tốt, chủ động đón lường các thuận lợi, thách thức đem lại, cụ thể: Chủ động đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nâng cao năng lực hội nhập, trong đó chú trọng việc tuân thủ các tiêu chuẩn, chuẩn mực theo các hiệp định FTA đã ký kết; tập trung đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển những ngành, mặt hàng có lợi thế; chủ động nắm bắt thông tin và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế để chủ động đưa ra chiến lược hoạt động phù hợp. Tăng khả năng chống chịu đối với cú sốc bên ngoài của bản thân doanh nghiệp… Phương Thanh

Vietnam Dairy 2019: Tạo điều kiện cho ngành sữa hội nhập và phát triển bền vững

TĐKT - Chiều 14/5, tại Hà Nội, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Công ty Cổ phần Hội chợ Triển lãm và Quảng cáo Việt Nam VIETFAIR tổ chức họp báo thông tin về "Triển lãm Quốc tế ngành sữa và sản phẩm sữa lần thứ hai - Vietnam Dairy 2019". Ban Tổ chức giới thiệu về Triển lãm Triển lãm diễn ra từ ngày 30/5 - 2/6/2019 tại Nhà thi đấu Thể dục Thể thao Phú Thọ, số 1 Lữ Gia, phường 15, quận 11, TP Hồ Chí Minh, quy tụ trên 200 gian hàng của các đơn vị là những doanh nghiệp hàng đầu ngành sữa trong nước và quốc tế. Sản phẩm trưng bày tại sự kiện gồm: Sữa và các sản phẩm sữa; nguyên liệu phụ gia sử dụng trong ngành sữa; công nghệ, dây chuyền và bao bì phụ kiện trong chế biến sữa; kỹ thuật chăn nuôi bò sữa; các doanh nghiệp kinh doanh giống bò sữa; thức ăn chăn nuôi; thuốc thú y; công nghệ xử lý môi trường, hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng an toàn thực phẩm; tài chính, ngân hàng, dịch vụ tư vấn, du lịch, vận tải; tư vấn chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng... Tham dự Triển lãm có các thương hiệu uy tín trong nước và quốc tế: Vinamilk, Nestle, Friesland Campina, Mead Johnson, Abbott, Eneright, Nutricare... và một số thương hiệu quốc tế mong muốn tìm hiểu, tiếp cận thị trường ngành sữa Việt Nam như: Noluma, G.D.I, Calfotel, Dong Bang... Trong khuôn khổ Triển lãm, Hiệp hội Sữa Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan, giới chuyên môn, Hiệp hội Chăn nuôi gia súc lớn Việt Nam và doanh nghiệp đồng hành, tổ chức các hội thảo chuyên ngành: Hội thảo "Sữa với sức khỏe người Việt" ngày 30/5; Hội thảo "Ngành sữa Việt Nam - Cơ hội và thách thức trước thềm CPTPP" ngày 31/5; Hội thảo "Phát triển chăn nuôi bò sữa quy mô vừa và nhỏ - Hiệu quả bền vững" ngày 31/5; Chương trình giao thương giữa Noluma và các doanh nghiệp ngành sữa Việt Nam ngày 31/5... Đặc biệt, tại Triển lãm sẽ diễn ra Lễ kỷ niệm "Ngày sữa thế giới" - Chương trình "Ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6" với các khu vui chơi và các hoạt động rèn luyện thể chất dành cho thiếu nhi; chương trình tặng sản phẩm, tư vấn sử dụng của các nhãn hàng... Tại Triển lãm còn diễn ra các hoạt động phổ biến kiến thức; tư vấn chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng; cách sử dụng sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa; các hoạt động hỗ trợ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp ngành sữa, các hộ chăn nuôi, trang trại bò sữa... Phát biểu tại họp báo, PGS, TS Trần Quang Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sữa Việt Nam cho biết: Ngành sữa Việt Nam đang từng bước phát triển bền vững theo hướng hiện đại, đồng bộ, từ sản xuất nguyên liệu đến thành phẩm, có khả năng cạnh tranh để chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội. Năm 2018, cả nước hiện có 294,4 ngàn con bò sữa, với tốc độ tăng đàn bình quân là 10,9%/năm. Sản lượng sữa năm 2018 đạt 936 ngàn tấn, tăng bình quân 15,0%/năm cho giai đoạn 2011 - 2018, nhưng mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu tiêu dùng trong nước. Các doanh nghiệp trong ngành đang không ngừng đầu tư, xây dựng, cải tiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ nhằm tăng sản lượng, chất lượng, an toàn thực phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và tiếp cận ngày càng sâu rộng vào chuỗi giá trị sữa, sản phẩm sữa ở thị trường trong và ngoài nước. Năm 2018, sữa và sản phẩm sữa của Việt Nam đã xuất khẩu sang 43 nước và vùng lãnh thổ. Tổng xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt trên 300 triệu USD. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực và châu Âu. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong ngành đang khẩn trương chuẩn bị kế hoạch sản xuất để xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Trung Quốc theo tinh thần Nghị định thư đã ký giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc ngày 25/4/2019 vừa qua. Dự báo trong những năm tới ngành sữa Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 9 - 10% và đạt mức 28 lít sữa/người/năm vào năm 2020. Ban tổ chức tin tưởng Triển lãm Vietnam Dairy 2019 là hoạt động xúc tiến thương mại quan trọng, làm cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế gặp gỡ, trao đổi, tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng hợp tác đầu tư, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh hướng tới sự phát triển bền vững cho ngành sữa Việt Nam. Phương Thanh

Nhà máy xơ sợi Đình Vũ tăng công suất sản xuất sợi DTY lên 900 tấn/tháng

TĐKT - Nhà máy xơ sợi (NMXS) Đình Vũ đã tiến hành đưa thêm 2 dây chuyền sản xuất sợi DTY vào vận hành, nâng công suất phân xưởng sợi DTY lên khoảng 900 tấn sợi/tháng. Công nhân kỹ thuật xưởng Filament - NMXS Đình Vũ đứng máy sản xuất sợi DTY Thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công thương (Ban Chỉ đạo), Công ty Cổ phần Hóa dầu và Xơ sợi Dầu khí (PVTEX) đã tích cực phối hợp cùng đối tác là liên danh giữa Tập đoàn An Phát Holdings với Tập đoàn Reliance - Ấn Độ và Fortrec - Singapore từng bước vận hành lại NMXS Đình Vũ. Theo báo cáo mới nhất của PVTEX, trong quý I/2019, nhà máy đã sản xuất ổn định và liên tục 10 dây chuyền sợi DTY, cung cấp cho thị trường trong nước và các đối tác Hàn Quốc, Nhật Bản gần 2.000 tấn sợi DTY. Đáng lưu ý là sản phẩm của NMXS Đình Vũ đạt chất lượng cao và ổn định, vượt mức kế hoạch, đồng thời chi phí sản xuất giảm đều giảm so với trước đây. Toàn bộ các dòng sản phẩm sợi DTY loại A do PVTEX sản xuất đều trong biên độ từ 96 -98%. Căn cứ trên nhu cầu thực của thị trường và đối tác đang chịu trách nhiệm kinh doanh sản phẩm sợi DTY là Công ty Cổ phần Xơ sợi tổng hợp An Sơn, NMXS Đình Vũ đã phối hợp đưa thêm hai dây chuyền sản xuất mới vào vận hành. Việc đưa hai dây chuyền này không chỉ nâng công suất sản xuất sợi của nhà máy lên khoảng 20% so với trước đây mà còn khẳng định mốc phát triển mới theo đúng lộ trình hợp tác đã đặt ra giữa PVTEX và các đối tác. Kiểm tra chất lượng nguyên liệu sợi tại NMXS Đình Vũ Với sự tin tưởng và hỗ trợ của khách hàng trong nước và quốc tế, việc PVTEX đã và đang làm chủ công nghệ sản xuất, áp dụng thành công các giải pháp tiết giảm chi phí, nguyên liệu đã thực sự chứng minh việc đưa NMXS Đình Vũ vào vận hành thương mại là khả thi. Hiện nay, PVTEX vẫn đang tiếp tục thực hiện tốt công tác bảo quản, bảo dưỡng hệ thống thiết bị, máy móc của nhà máy theo đúng quy chuẩn và hướng dẫn của nhà sản xuất chế tạo. Được biết, PVTEX đã tiến hành rà soát thực tế, lên chi phí tài chính để xây dựng kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng phục vụ công tác vận hành toàn bộ nhà máy.            Hiện các đối tác cùng đội ngũ chuyên gia tư vấn nước ngoài đang tiến hành xem xét đánh giá và góp ý để sửa đổi và bổ sung hoàn thiện tiến tới thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng chính thức và đi vào vận hành toàn bộ NMXS Đình Vũ. Hồng Thiết

Fitch nâng triển vọng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên tích cực

TĐKT - Tổ chức xếp hạng tín nhiệm (XHTN) Fitch Ratings đã có thông cáo báo chí nâng triển vọng tín nhiệm quốc gia Việt Nam từ mức ổn định lên tích cực, khẳng định duy trì mức xếp hạng BB. Việc cải thiện triển vọng XHTN của Việt Nam lên mức tích cực thể hiện ghi nhận của Fitch đối với thành quả của Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực cải thiện chất lượng và hiệu quả điều hành kinh tế, góp phần tăng cường mức đệm dự phòng trước những cú sốc từ bên ngoài thông qua bảo đảm thặng dư tài khoản vãng lai, giảm dần nợ Chính phủ trong khi tiếp tục duy trì đà tăng trưởng với tốc độ cao và lạm phát ổn định. Fitch dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2019 sẽ khoảng 6,7% Theo đánh giá của Fitch, Chính phủ Việt Nam tiếp tục quyết liệt thực hiện cam kết củng cố tài khóa và kiềm chế nợ công và đã thành công trong việc đưa nợ Chính phủ từ mức 53% GDP năm 2016 xuống khoảng 50,5% GDP vào cuối năm 2018. Tổ chức này dự báo nợ Chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm xuống còn khoảng 46% GDP vào năm 2020. Nợ công của Việt Nam theo tính toán của Fitch cũng giảm xuống còn khoảng 58% GDP vào cuối năm 2018. Đây là kết quả được Fitch đánh giá cao trong bối cảnh chỉ tiêu nợ công tiệm cận mức trần 65% GDP được Quốc hội cho phép vào cuối năm 2016 và có sự đóng góp của việc kìm hãm bội chi ngân sách thấp hơn dự toán, thực hiện chủ trương siết chặt cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, cũng như tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa cao hơn kế hoạch đề ra. Việt Nam tiếp tục tập trung phấn đấu tạo nền tảng vĩ mô ổn định vững chắc hơn trong những năm tiếp theo, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ, chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất cũng như mở rộng đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp, cũng góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Fitch dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2019 sẽ khoảng 6,7%, trong mục tiêu từ 6,6 - 6,8% do Quốc hội đề ra. Trong bối cảnh tăng trưởng toàn cầu chậm lại và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tạo áp lực lên dòng chảy thương mại khu vực và có khả năng ảnh hưởng mạnh tới các nền kinh tế có độ mở thương mại lớn. Tuy nhiên, Fitch nhận định Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất so với các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như so với nhóm các nước đồng hạng BB, là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài do lợi thế chi phí thấp. Hơn nữa, có dấu hiệu cho thấy Việt Nam có thể hưởng lợi dưới tác động của căng thẳng thương mại Mỹ - Trung trong thời gian qua từ việc dòng thương mại chuyển hướng ra khỏi Trung Quốc. Fitch nhìn nhận cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam nhìn chung được điều hành linh hoạt hơn, tuy vậy quy mô dự trữ ngoại hối so với nhu cầu thanh toán quốc tế vẫn thấp hơn trung vị của các nước với XHTN quốc gia tương đồng. Những điểm yếu mang tính cơ cấu của khu vực ngân hàng tiếp tục là lý do Fitch đưa ra cho việc hệ số tín nhiệm quốc gia chưa ở mức cao hơn. Nhu cầu tái cấp vốn của khu vực ngân hàng vẫn bị coi là rủi ro đối với Chính phủ và tốc độ tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao trong những năm vừa qua có khả năng ảnh hưởng tiêu cực lên tính ổn định của hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, nghĩa vụ nợ dự phòng tiềm ẩn từ những vấn đề chưa được giải quyết triệt để đối với một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn cũng có khả năng gây áp lực lên nền tài chính công, tuy nợ Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Hồng Thiết

Bộ Tài chính đăng cai tổ chức Hội nghị toàn thể Mạng lưới Quản lý chi tiêu công tại châu Á (PEMNA) năm 2019 tại Quảng Ninh

TĐKT - Bộ Tài chính cho biết, dự kiến từ ngày 22 - 24/5/2019, Bộ Tài chính Việt Nam lần đầu tiên đăng cai tổ chức Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của Mạng lưới Quản lý chi tiêu công tại châu Á (PEMNA). Hội nghị được tổ chức tại TP Hạ Long, Quảng Ninh với chủ đề “Cơ cấu lại ngân sách Nhà nước (NSNN) và quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững”. Đây là một trong những trụ cột về tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện ý chí quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế và góp phần thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Thông qua Hội nghị này, Bộ Tài chính Việt Nam mong muốn được cùng chia sẻ, học hỏi những kinh nghiệm trong việc củng cố hoạt động tài khóa và quản lý nợ công, thiết thực cho việc chuẩn bị xây dựng Chiến lược tài chính giai đoạn 2021 - 2030 và xây dựng Kế hoạch tài chính – ngân sách giai đoạn 2021 - 2025. Mạng lưới Quản lý chi tiêu công tại châu Á (The Public Expenditure Management Network in Asia - PEMNA) là mạng lưới học hỏi giữa các đồng nghiệp gồm cán bộ và chuyên gia về quản lý tài chính công (QLTCC) trong khu vực. Mạng lưới này được thành lập từ năm 2012 theo sáng kiến của Ngân hàng thế giới, Bộ Tài chính và Chiến lược Hàn Quốc, với mục tiêu hỗ trợ các Chính phủ trong khu vực giải quyết các vấn đề liên quan đến tài chính công và nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thông qua việc tạo ra diễn đàn trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về quản lý tài chính công giữa các quốc gia trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. PEMNA hiện có 14 quốc gia thành viên gồm: Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Philipin, Singapore, Thái Lan, Timor-leste và Việt Nam. Bên cạnh đó, PEMNA còn có các đối tác phát triển là Bộ Tài chính và Kinh tế Hàn Quốc (MOEF), Bộ Ngân sách và Quản lý Philippin (DBM), Bộ Tài chính Timor-leste, Viện Tài chính công Hàn Quốc (KIPF), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Ngân sách hoạt động của PEMNA chủ yếu được tài trợ bởi các đối tác phát triển, cùng với sự tham gia đóng góp theo khả năng của các quốc gia thành viên. Các hoạt động của PEMNA được tổ chức xung quanh hai cộng đồng hành nghề ngân sách (B-CoP) và kho bạc (T-CoP). Mỗi cộng đồng là tập hợp các chuyên gia, nhà quản lý trong cùng lĩnh vực để chia sẻ kinh nghiệm, quan điểm giữa các quốc gia thành viên và cùng nhau xác định các phản ứng chính sách đối với các thách thức mà các nước đang phải đối mặt. Các thành viên thuộc mạng lưới gặp mặt định kỳ thông qua hội nghị toàn thể, các hội nghị riêng của Cộng đồng hành nghề, các chuyến khảo sát và hội nghị trực tuyến được tổ chức trong suốt năm. Những kiến thức và kinh nghiệm trao đổi qua từng hoạt động góp phần tăng cường năng lực chuyên môn của từng thành viên và được áp dụng trong hoạch định chính sách của từng quốc gia thành viên nói chung. Ban chỉ đạo PEMNA (SC) bao gồm đại diện của các quốc gia thành viên và các đối tác phát triển, với vai trò giám sát hoạt động của mạng lưới nói chung và từng cộng đồng hành nghề nói riêng. Giúp việc cho Ban chỉ đạo là Ban Thư ký PEMNA đặt tại Viện Tài chính công Hàn Quốc, đóng vai trò là cơ quan thường trực của mạng lưới. Bộ Tài chính Việt Nam tham gia PEMNA ngay từ khi mạng lưới được thành lập và có những đóng góp tích cực vào hoạt động của cả mạng lưới, cũng như từng cộng đồng hành nghề. Hồng Thiết

Trang