Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông CDIT đóng góp mạnh mẽ cho xã hội, cộng đồng
TĐKT – Ngày 22/3, tại Hà Nội, Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông CDIT – Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông tổ chức kỷ niệm 20 năm thành lập. Trong suốt thời gian 20 năm xây dựng và phát triển, CDIT luôn trung thành với sứ mệnh thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) Việt Nam bằng sự tâm huyết và những nỗ lực không mệt mỏi. CDIT đã tích cực tham gia đóng góp vào hoạt động khoa học - công nghệ của nước nhà bằng việc chủ động trong nghiên cứu công nghệ mới, nắm bắt làm chủ công nghệ mạng lưới, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ với hàm lượng công nghệ cao được thị trường đón nhận. Chương trình văn nghệ Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Viện CDIT Cụ thể, sau 20 năm, CDIT đã có 7 sản phẩm được giải thưởng VIFOTEC; được Bộ Khoa học và Công nghệ và Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tặng Cờ Đơn vị áp dụng xuất sắc các công trình đoạt giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ; đã có 8 sản phẩm được hợp chuẩn quốc gia; 17 sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả, 6 nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ, 6 sản phẩm đoạt cúp vàng công nghệ thông tin... CDIT đã vinh dự 3 lần được nhận Huân chương Lao động các hạng: Hạng Ba năm 2004, hạng Nhì năm 2009 và hạng Nhất năm 2014. Đây là sự ghi nhận cho những nỗ lực đóng góp của CDIT đối với sự nghiệp khoa học công nghệ của Việt Nam. Bên cạnh đó, các sản phẩm, dịch vụ của CDIT trong các giai đoạn khác nhau đã vươn đến mọi miền của Việt Nam và ngày càng khẳng định vị trí của CDIT trong xã hội, đó là những giải thưởng đáng tự hào nhất cho đội ngũ cán bộ của CDIT. Thời gian gần đây, các công nghệ mới xuất hiện nhiều và nhanh hơn. Nhờ sức mạnh của hạ tầng kết nối ICT, các công nghệ này được kết hợp với nhau tạo nên sức mạnh đột phá được đề cập đến như Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tiềm năng của các công nghệ mới rất lớn và Việt Nam đang mong muốn khai thác, xem đó như một đòn bẩy đưa đất nước phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, do khoảng cách về mặt công nghệ của các doanh nghiệp Việt với các công nghệ mới còn khá lớn nên việc khai thác đó không hề đơn giản. CDIT nhận thấy, để thu hẹp khoảng cách này cần đồng thời có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của các công nghệ mới; sự đồng cảm với nhu cầu và khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp và phải có năng lực chuyển giao công nghệ làm cho các công nghệ này phù hợp với khả năng tiếp nhận của cộng đồng doanh nghiệp hơn là yêu cầu doanh nghiệp phải hiểu về sự phức tạp của công nghệ. “Với bề dày tri thức được tích lũy trong 20 năm nghiên cứu ứng dụng, với vị thế là một đơn vị nghiên cứu trực thuộc một trường đại học lớn trong lĩnh vực ICT, Viện CDIT thấy có trách nhiệm với xã hội trong việc đưa Việt Nam khai thác thành công tiềm năng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đây cũng là sứ mệnh của Viện CDIT trong thời gian tới. Sứ mệnh này rất vẻ vang, rất thách thức nhưng cũng là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển của Viện CDIT trong những năm tiếp theo.” - TS Nguyễn Trung Kiên, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và Truyền thông CDIT khẳng định. Hưng VũĐiển hình tiên tiến
Giao lưu điển hình tiên tiến Cụm thi đua 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc
TĐKT - Tối 18/3, tại Trung tâm hội nghị tỉnh Cao Bằng, đã diễn ra chương trình Giao lưu điển hình tiên tiến thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Cụm thi đua 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc phối hợp tổ chức. Tới dự có: Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Trần Thị Hà; đồng chí Hoàng Xuân Ánh, Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Cao Bằng, Cụm trưởng Cụm thi đua 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc; đại diện lãnh đạo cùng 14 tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu của 7 tỉnh thuộc Cụm thi đua. Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương Trần Thị Hà dự buổi giao lưu Phát biểu khai mạc chương trình, đồng chí Hoàng Xuân Ánh, Cụm trưởng Cụm thi đua 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc năm 2018 khẳng định: Năm qua, các phong trào thi đua yêu nước của 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc đã phát huy hiệu quả thiết thực, làm xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực lao động, học tập, sản xuất. Họ là những nhân tố quan trọng, làm nòng cốt cho các phong trào thi đua yêu nước ở mọi cấp, mọi ngành. Các điển hình tiên tiên chia sẻ kinh nghiệm tại buổi giao lưu Chương trình giao lưu là dịp để biểu dương, tôn vinh những tập thể, cá nhân, những tấm gương điển hình tiên tiến ấy; qua đó, khơi dậy, cổ vũ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong phong trào thi đua yêu nước; đồng thời chia sẻ kinh nghiệm từ những mô hình phát triển trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Từ đó, thúc đẩy nâng cao chất lượng phong trào thi đua yêu nước, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, cũng như xây dựng quốc phòng - an ninh, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh. Trong đêm giao lưu, 7 tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi… đã chia sẻ về những nỗ lực, phấn đấu của bản thân cũng như những kinh nghiệm hay, mô hình tốt của mình. Đó là Trưởng thôn Phạm Văn Cường, thôn Hưng Thịnh, xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên luôn gương mẫu đi đầu trong tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực xây dựng nông thôn mới. Ngoài việc thường xuyên lồng ghép các nội dung của phong trào xây dựng nông thôn mới vào các buổi họp thôn, họp chi bộ, họp các tổ chức đoàn thể, ông còn tích cực tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, từ đó làm những gì mà nhân dân đề xuất, phù hợp với nhu cầu của đa số nhân dân; dân chủ, công khai trong mọi hoạt động, được nhân dân tín nhiệm. Ông đã phát huy tốt vai trò của nhân dân trong giám sát, thực hiện xây dựng nông thôn mới. Đó là tấm gương nữ doanh nhân Nguyễn Thị Lan Dung, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Gia Long, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang đã dành nhiều tâm huyết giúp người dân nơi đây thoát nghèo. Bà đã giúp người dân chuyển đổi từ lao động sản xuất nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp sang lao động sản xuất hàng hóa; liên kết được mô hình 4 nhà, giúp cho nông dân vùng đất Xín Mần sản xuất hàng hóa đạt được kết quả cao hơn. Đặc biệt, bà đã đứng ra kết nối được chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa nông nghiệp từ việc hợp tác với người dân trồng nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp theo tiêu chuẩn Vietgap, doanh nghiệp sản xuất hàng hóa bằng nguyên liệu sạch đảm bảo chất lượng cao, khâu tiêu thụ hàng hóa theo hệ thống bán buôn, bán lẻ tại các tỉnh; nguồn gốc hàng hóa được chỉ dẫn địa lý rõ ràng, khẳng định được thương hiệu vùng miền của sản phẩm, tạo ra chỗ đứng trên thị trường, giúp người nông dân tiêu thụ sản phẩm làm ra với mức giá cao và ổn định… Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Hoàng Xuân Ánh và Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu Tống Thanh Hải tặng hoa cho 14 tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Cụm thi đua 7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc. Các điển hình giao lưu tại Chương trình có mô hình chăn nuôi khép kín hiệu quả của Hợp tác xã Quý Hiền, tỉnh Lào Cai; kinh nghiệm xây dựng thương hiệu, nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng của cây na Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Công ty TNHH một thành viên cấp nước Cao Bằng đã không ngừng cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất và kinh doanh; đưa vào vận hành 3 trạm bơm tăng áp đặt trực tiếp trong đường ống, giải quyết được bài toán đảm bảo cấp nước cho nhân dân khu vực vùng cao, vùng xa trung tâm TP Cao Bằng… Có thể nói, đây là những đóa hoa tươi thắm nhất trong vườn hoa người tốt, việc tốt của Cụm thi đua7 tỉnh miền núi biên giới phía Bắc. Họ là những minh chứng sống động nhất về giá trị to lớn mà Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Bác Hồ phát động từ 70 năm trước, tạo sức lan tỏa, khí thế thi đua sôi nổi, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mai ThảoTặng Huân chương Chiến công cho cho 6 cá nhân, tập thể của Hải quan Hải Phòng
TĐKT - Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh vừa ký Quyết định 343/QĐ-CTN tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì và hạng Ba cho 6 cá nhân, tập thuể của Cục Hải quan Hải Phòng. Trong đó, 2 cá nhân được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì gồm: Ông Nguyễn Tiến Lộc, Cục trưởng Cục Hải quan Hải Phòng và ông Nguyễn Thái Hưng, Đội trưởng Đội Kiểm soát hải quan. Xử lý tiêu hủy gần 2,3 tấn lá Khat 4 tập thể, cá nhân được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba gồm: Đội Kiểm soát hải quan; ông Nguyễn Sỹ Tráng, Phó Cục trưởng Cục Hải quan Hải Phòng; ông Vũ Mạnh Hùng, Phó Đội trưởng Đội Kiểm soát hải quan; ông Đào Văn Cường, Phó Tổ trưởng Tổ Kiểm soát hải quan số 1 thuộc Đội Kiểm soát hải quan. Các cá nhân, tập thể được tặng Huân chương Chiến công nhờ lập chiến công xuất sắc trong điều tra, phát hiện và phối hợp bắt giữ khối lượng lớn ma túy vận chuyển trái phép vào Việt Nam tại cảng Nam Hải Đình Vũ (Hải Phòng) tháng 5/2018. Tháng 5/2018, Đội Kiểm soát hải quan Hải Phòng phối hợp bắt giữ 2,6 tấn lá Khat - loại lá cây chứa chất ma túy (được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018). Lô hàng được vận chuyển từ Kenia (châu Phi) về cảng Nam Hải Đình Vũ. Người nhận hàng trên vận đơn là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tạm nhập tái xuất. Hàng hóa được thể hiện (trên vận đơn) là 302 hộp cà phê, chè, gia vị. Tuy nhiên, trước nhiều biểu hiện nghi vấn của lô hàng, lãnh đạo Cục Hải quan Hải Phòng yêu cầu Đội Kiểm soát hải quan lập phương án đấu tranh, bắt giữ có hiệu quả, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ lô hàng và chỉ phá án khi doanh nghiệp làm thủ tục để bắt giữ được đối tượng. Sau khi phát hiện, bắt giữ số lượng lớn lá Khat nêu trên, cơ quan Hải quan đã chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra (Công an Hải Phòng) xử lý theo quy định. Ngày 29/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hải Phòng đã ban hành Quyết định số 32/PC47, khởi tố vụ án hình sự “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, xảy ra tại cảng Nam Hải Đình Vũ, phường Đông Hải 2, quận Hải An, TP Hải Phòng. La GiangTĐKT - Phát huy phẩm chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, cựu chiến binh (CCB) Vì Văn Thìn, xóm Lầu (xã Mai Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) đã nỗ lực vượt khó vươn lên làm giàu, đồng thời giúp nhiều hội viên cựu chiến binh trong xã thoát nghèo, ổn định cuộc sống.
Ông Thìn chăm sóc vườn cây
Sau khi xuất ngũ, ông trở lại quê hương lập gia đình và phát triển kinh tế. Những ngày đầu lập nghiệp, gia đình ông gặp nhiều khó khăn. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Hai vợ chồng lao động vất vả cũng chỉ đủ trang trải cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Không lùi bước trước khó khăn, ông Thìn quyết tâm tìm hướng phát triển kinh tế. Trong một lần tập huấn công tác của hội CCB tại Hòa Bình, trò chuyện cùng một đồng chí CCB hiện đang phát triển kinh tế trang trại, ông Phương nhận thấy đó là mô hình phù hợp với điều kiện gia đình và địa phương, có thể khai thác diện tích đất của gia đình để phát triển trang trại tổng hợp.
Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, năm 2010, ông mạnh dạn vay vốn ngân hàng cùng với nguồn vốn của gia đình để phát triển kinh tế. Với số vốn này, ông đã đầu tư mở rộng mô hình, phát triển chăn nuôi, trồng cây màu, đào ao nuôi cá, xây chuồng trại chăn nuôi lợn, gà...
Hiện gia đình ông có gần 100 con gà, 12 con lợn thịt, 8 con trâu và trồng nhiều loại cây màu có giá trị kinh tế. Mỗi năm gia đình ông xuất ra thị trường 2 lứa gà, 2 lứa lợn, 3 lứa bầu, cho thu nhập từ 250 - 300 triệu đồng.
Theo ông Thìn, để chủ động được các khâu trong chăn nuôi, trồng trọt, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, ông đã tích cực tham gia các lớp tập huấn kiến thức chăn nuôi, thú y, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, chịu khó học hỏi thêm kinh nghiệm chăn nuôi từ trang trại của bà con các địa phương và qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Ông còn đầu tư xây dựng hầm biogas xử lý chất thải trong chăn nuôi, sử dụng các chế phẩm vi sinh góp phần bảo vệ môi trường, tăng sức đề kháng cho đàn gia súc, gia cầm, giảm công sức lao động, mang đến hiệu quả kinh tế cao.
Cần cù, chịu khó, nắm vững kỹ thuật chăm sóc nên rau quả và thủy sản của gia đình ông Thìn luôn sinh trưởng, phát triển tốt, sản phẩm của gia đình đã có thị trường tiêu thụ ổn định, được các thương lái thu mua ngay tại trang trại.
Không chỉ phấn đấu làm giàu cho gia đình, ông Thìn còn giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn về cây, con giống: Gà con, cá con, các loại hạt giống... và phổ biến cho bà con về kỹ thuật chăm sóc các loại cây trồng, vật nuôi.
Ông cũng thường xuyên vận động người dân trong xóm, xã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ gia đình khó khăn trong xóm từng bước phát triển kinh tế, vươn lên ổn định cuộc sống. Đồng thời tích cực tham gia các phong trào tại địa phương.
Cần cù, năng động, sáng tạo, Cựu chiến binh Vì Văn Thìn đã phát triển mô hình kinh tế cho thu nhập cao, trở thành tấm gương điển hình làm kinh tế giỏi, vươn lên thoát nghèo và làm giàu để hội viên hội CCB học tập và làm theo.
Tùng Chi
TĐKT – Để khai thác lợi thế đồi vườn phát triển kinh tế, chị Nguyễn Thị Dung, 53 tuổi, thôn Thành Vân, xã Thành Vân, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa đã mạnh dạn đầu tư cải tạo vùng đất hoang để xây dựng trang trại, trồng nhiều loại cây ăn quả cho thu nhập cao, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương.
Vườn thanh long tại trang trại của gia đình chị Dung
Hồi tưởng lại những gì đã trải qua, chị Dung cho biết: Lúc đầu mới lập nghiệp trên vùng đồi cằn cỗi, vốn liếng chẳng có gì, chỉ có ý chí quyết tâm làm giàu trên chính quê hương mình và tinh thần lao động miệt mài. Những thước đất ban đầu được cải tạo đã đem đến cho chị một hy vọng về tương lai sản xuất của gia đình, bởi vùng đất đỏ này thích hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là các loại cây ăn quả.
Năm 1992, thời điểm bắt đầu nhận thầu với xã gần 30 ha, trong đó có 20 ha đất canh tác, nguồn vốn quý giá nhất khi ấy mà gia đình chị có được là sức khỏe của 2 vợ chồng và 30 triệu đồng vay từ nguồn Quỹ hỗ trợ nông dân.
Với điều kiện kinh tế gia đình lúc này buộc chị phải đầu tư theo kiểu lấy ngắn nuôi dài, chị khoanh vùng lại để phát quang, cày cuốc, cải tạo các phần đất bằng phẳng có độ dốc ít, dễ canh tác để trồng mía, dứa và các loại rau xanh làm thực phẩm bán hàng ngày tại các chợ, một số diện tích trồng rau làm thức ăn chăn nuôi.
Làm lụng vất vả nhưng những khi dư được chút vốn nào là chị dành đầu tư cho các loại cây có tính chất lâu dài hơn như mắc ca, ổi, cam, bưởi, thanh long ruột đỏ… Xác định gắn bó lâu dài với trang trại nên chị tự tìm tòi, học hỏi và tham gia các lớp tập huấn kiến thức khuyến nông do Hội Nông dân tổ chức để có thể chủ động kỹ thuật trong quá trình sản xuất.
Nhờ siêng năng và nắm vững kiến thức nên công sức lao động của gia đình chị đã đem lại những kết quả ban đầu. Ngày khởi nghiệp phải lo chạy ăn hàng ngày, chạy tiền phân, giống cho mỗi vụ sản xuất, sau 2 năm chị đã chủ động được nguồn lương thực cho gia đình, chủ động được vốn đầu tư để chăm sóc vườn cây. Khi những loại cây ngắn ngày đem lại thu nhập ban đầu thì những cây mắc ca đã đến kỳ cho quả, đem đến một cơ hội, mở ra hướng đầu tư mới.
Từ chỗ phải mua giống, chị bắt đầu sản xuất giống mắc ca để mở rộng diện tích của gia đình và cung cấp cho các hộ khác trong vùng khi có nhu cầu. Lúc này, khi kinh tế đã dần ổn định, chị từng bước tiếp cận với mô hình trồng cây ăn quả, trồng mía là chủ yếu. Những diện tích trồng rau màu ngắn ngày trước kia được chuyển sang chuyên canh 3 ha cam, 2 ha bưởi, 3 ha dứa, 1 ha thanh long và 10 ha cây mắc ca, đầu tư các loại máy móc, xe tải vận chuyển phục vụ công việc sản xuất của gia đình.
Chia sẻ kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại, chị Dung cho biết: Để đầu tư hiệu quả, trước tiên phải nắm vững kiến thức về loại cây trồng mà mình muốn đầu tư, bên cạnh đó là phải thực sự đam mê và gắn bó với cây trồng, coi cây trồng là người bạn thân thiết của mình. Trong đó cần tìm hiểu rõ và nghiên cứu chắc chắn sức tiêu thụ của thị trường, không vì sự khan hiếm nhất thời mà đầu tư chạy theo, tránh sản xuất theo phong trào, làm theo cảm tính.
Một kinh nghiệm nữa mà chị muốn gửi gắm bằng những trải nghiệm của mình là chị đã đầu tư từng bước, đầu tư chắc chắn, trước hết là đảm bảo duy trì hoạt động của trang trại bằng chính các sản phẩm ngắn ngày, có lợi nhuận đến đâu đầu tư đến đó, không đầu tư nóng và quá nhanh. Làm như vậy vừa không vượt quá sức của gia đình về quy mô vốn, vừa từng bước học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, đầu tư mới bền và mới cho hiệu quả lâu dài.
Cũng chính từ mô hình của gia đình, chị thấy rằng, những kiến thức được tập huấn thông qua Hội Nông dân chỉ là những phần lý thuyết cơ bản, cần có thời gian thực nghiệm và biến nó thành kiến thức riêng của mình mới chủ động và tự tin đầu tư quy mô lớn.
Hiện nay, 5 ha mắc ca đã cho thu hoạch, cùng với các loại cam, bưởi, dứa, mía, chị còn tận dụng nguồn cỏ trong trang trại để nuôi 15 con bò thịt, bình quân mỗi năm đem về nguồn lãi trên 700 triệu đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 20 lao động với mức thu nhập từ 4,5 đến 5,5 triệu đồng/người/tháng. Với quy mô trang trại vào thời điểm hiện tại, nguồn lãi thu về có thể cao hơn, tuy nhiên chị sử dụng chăm sóc và mở rộng vườn cây ăn quả, tái đầu tư vào máy móc để trang trại phát triển lâu dài.
Kinh tế gia đình chị ổn định và có của ăn, của để, chị lại dang tay giúp đỡ những bà con có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ xây dựng quỹ khuyến học, thăm hỏi, động viên các gia đình chính sách, neo đơn vào dịp cuối năm.
Với người dân địa phương, chị không chỉ là người có tấm lòng thơm thảo, nhân ái mà còn là tấm gương mẫu mực trong việc chịu thương, chịu khó, biết biến ước mơ của mình thành hiện thực, một tấm gương sáng trong việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hưng Vũ
Kỷ niệm 60 năm ngày phát sóng Chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân
TĐKT - Sáng 15/3, tại Hà Nội, Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội (Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 60 năm ngày phát sóng Chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân (16/3/1959 - 16/3/2019), đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam dự và phát biểu tại Lễ kỷ niệm. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa trao Bằng khen tặng Phòng Thời sự Phát thanh và Phòng Chuyên đề Phát thanh Ngày 16/3/1959, bản nhạc “Vì nhân dân quên mình” vang trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của Chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân (PTQĐND), bổ sung vào đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam một tờ báo nói của lực lượng vũ trang nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và Bộ Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Chương trình PTQĐND đã đóng vai trò nòng cốt, xung kích trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam trong việc tuyên truyền nhiệm vụ quân sự - quốc phòng với những tin tức nóng hổi tính thời sự và hơi thở cuộc sống chiến đấu, lao động, sản xuất, phục vụ chiến đấu của bộ đội và nhân dân trên khắp các chiến trường, mặt trận. Trong 60 năm xây dựng, phát triển, Chương trình Phát thanh QĐND đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, có sự tiến bộ, trưởng thành nhanh, toàn diện và vững chắc, có tính định hướng chỉ đạo, cổ vũ ngày càng cao đối với bộ đội và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, những năm gần đây, để đáp ứng với xu hướng phát triển tất yếu của báo chí nói chung, báo phát thanh nói riêng theo hướng hiện đại, Chương trình PTQĐND đã không ngừng đổi mới cả nội dung và hình thức thể hiện. Các chuyên mục trong Chương trình PTQĐND ngày càng phong phú, đa dạng, mở rộng đề tài, cách thể hiện sinh động theo hướng tăng tính tương tác và trên đa nền tảng. Nội dung tuyên truyền của PTQĐND đã góp phần quan trọng vào động viên, cổ vũ phong trào hành động cách mạng của toàn dân, toàn quân; đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vị trí, uy tín của chương trình tiếp tục được khẳng định, trở thành người bạn gần gũi với bộ đội và nhân dân cả nước, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Trong những năm qua, Chương trình PTQĐND đã có hàng chục tác phẩm được Giải Báo chí Quốc gia, Giải Báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng, giải thưởng của Bộ Quốc phòng, Liên hoan Phát thanh toàn quốc và của các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương phát động, tổ chức. Ghi nhận thành tích và hiệu quả tuyên truyền trong 60 năm qua, Chương trình PTQĐND đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Huân chương Quân công Hạng Nhì; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất; Huân chương Lao động hạng Nhì; 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất... Tại Lễ kỷ niệm, Phòng Thời sự Phát thanh và Phòng Chuyên đề Phát thanh đã được trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì những thành tích xuất sắc đã đạt được. Phát biểu tại buổi lễ, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa chúc mừng và đánh giá cao những kết quả đạt được của PTQĐND trong 60 năm qua. Đồng chí yêu cầu, trong thời gian tới, phát huy những kết quả đã đạt được, Trung tâm Phát thanh Truyền hình Quân đội nói chung và PTQĐND nói riêng cần giữ vững định hướng chính trị, tôn chỉ mục đích, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo tuyên truyền của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; không để sai sót trên sóng, lộ lọt thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Cùng với đó, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới và nhu cầu ngày càng cao của cán bộ, chiến sĩ; chú trọng tuyên truyền giáo dục lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, Quân đội tới các tầng lớp nhân dân; đấu tranh chống các quan điểm sai trái, diễn biến hòa bình của các thế lực chống phá, thù địch; xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc; xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đáp ứng được nhiệm vụ tuyên truyền trong tương lai. Phương ThanhTĐKT - Tối 14/3, tại Hội trường Bộ Tư lệnh Thủ đô, Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tổ chức Lễ tuyên dương Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân năm 2018. Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam chủ trì buổi lễ.
Dự Lễ tuyên dương có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Quân ủy Trung ương.
Cùng dự có các đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam: Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương; Trung tướng Đỗ Căn; Trung tướng Lê Hiền Vân, Chủ tịch Hội đồng bình chọn Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân; Bí thư Thường trực Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Nguyễn Anh Tuấn; đại diện lãnh đạo cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng cùng các Gương mặt trẻ tiêu biểu, Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân năm 2018 và đông đảo cán bộ, chiến sĩ, đoàn viên, thanh niên của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Các gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân giao lưu tại Lễ tuyên dương
Lễ tuyên dương là hoạt động được Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hàng năm, nhằm động viên, khích lệ các Gương mặt trẻ tiêu biểu, Gương mặt trẻ triển vọng và tuổi trẻ toàn quân tiếp tục phát huy thành tích, xung kích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
10 gương mặt trẻ tiêu biểu và 15 gương mặt trẻ triển vọng toàn quân được tuyên dương dịp này là những tấm gương sáng trên các lĩnh vực huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, vận động quần chúng, thể thao, kinh doanh, lao động, sản xuất …
Đại tướng Lương Cường và Thượng tướng Phan Văn Giang trao Bằng khen của Bộ Quốc phòng tặng các Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân năm 2018
Phát biểu tại buổi lễ, Đại tướng Lương Cường biểu dương những thành tích của tuổi trẻ Quân đội đã đạt được trong năm 2018 và đặc biệt là những Gương mặt trẻ tiêu biểu, Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân được vinh danh lần này.
Đại tướng Lương Cường nhấn mạnh, thanh niên Quân đội là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, là lực lượng chủ yếu, trực tiếp, xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, học tập, nghiên cứu khoa học, lao động, sản xuất; giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm nhiệm vụ quốc tế...
Với tinh thần “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” lớp lớp các thế hệ cán bộ, đoàn viên, thanh niên quân đội đã có những đóng góp to lớn, trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Thông qua các phong trào thi đua, các Cuộc vận động, nhất là phong trào “Thanh niên Quân đội rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo, quyết thắng” và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”... đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, nhiều tấm gương tiêu biểu, xuất sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Càng trong điều kiện khó khăn, gian khổ, nhiệm vụ quan trọng thì sự đóng góp, cống hiến của Thanh niên Quân đội càng được thể hiện và khẳng định rõ nét, đó là tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; sẵn sàng vượt qua mọi gian khó, hiểm nguy để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
Để phát huy sức mạnh to lớn của đoàn viên, thanh niên và công tác đoàn trong quân đội trong giai đoạn mới, Đại tướng Lương Cường đề nghị cấp ủy, chỉ huy cơ quan chính trị, tổ chức đoàn các cấp tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về thanh niên và công tác thanh niên Quân đội trong thời kỳ mới.
Đồng thời, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng; giữ vững và phát huy thành quả, truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, của quân đội; có “tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống văn hóa, đoàn kết, kỷ luật cao; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bên cạnh đó, phải thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh xuất sắc; tạo điều kiện hơn nữa cho hoạt động của tổ chức đoàn; làm tốt công tác phát hiện, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú, tạo nguồn phát triển đảng viên, giới thiệu cán bộ trẻ quy hoạch vào các vị trí lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp; tiếp tục phát hiện, bồi dưỡng, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, các gương điển hình tiên tiến xuất sắc trên các lĩnh vực công tác, tạo sự lan tỏa sâu rộng trong toàn quân, toàn quốc.
Các Gương mặt trẻ tiêu biểu và Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân được vinh đanh hôm nay cần không ngừng học tập, rèn luyện để đạt thành tích cao hơn nữa; giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân nòng cốt, lôi cuốn, thúc đẩy tuổi trẻ trong cơ quan, đơn vị phát triển tài năng, sức sáng tạo, khắc phục khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Tại lễ tuyên dương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã trao Bằng khen của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tặng các Gương mặt trẻ tiêu biểu, Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân năm 2018.
Nguyệt Hà
Xứng tầm trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị hàng đầu của Quân đội và đất nước
TĐKT - 70 năm qua, các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ Học viện Quân y đã đoàn kết, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, bám sát chiến trường, đơn vị và bộ đội; hết lòng phục vụ thương binh, bệnh binh và người bệnh; không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị... Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam trao Huân chương Độc lập hạng Ba cho Học viện Quân y về thành tích đào tạo bác sĩ cử tuyển Tây Nguyên, năm 2015. Học viện Quân y, trực thuộc Bộ Quốc phòng (tiền thân là Trường Quân y sĩ Việt Nam) được thành lập theo Nghị định số 187/NĐ ngày 4/10/1948 của liên Bộ: Quốc phòng, Y tế và Giáo dục. Ngày 10/3/1949, tại thôn Tuần Lũng, xã Hoàng Hoa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, Nhà trường tổ chức Lễ khai giảng đào tạo Quân y sĩ Khóa 1, từ đó ngày 10/3 hàng năm được lấy làm ngày truyền thống của Học viện. Ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa chiến đấu, vừa giảng dạy, học tập, cán bộ, học viên của Nhà trường đã tham gia bảo vệ sức khỏe bộ đội, cứu chữa thương bệnh binh trong nhiều chiến dịch lớn. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các thầy thuốc, các đội điều trị của Học viện đã tham gia vào tất cả các chiến dịch lớn như: Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hòa Bình, Điện Biên Phủ; Bình Giã, Đồng Xoài, Quảng Trị, Mậu Thân và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử… với phương châm “bám sát chiến trường, bám sát bộ đội” góp phần cùng quân - dân cả nước giành chiến thắng. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển với những tên gọi khác nhau: Trường Quân y sĩ Việt Nam (1949 - 1957), Trường Sĩ quan Quân y (1957 - 1962), Viện Nghiên cứu Y học Quân sự (1962 - 1966), Trường Đại học Quân y (1966 - 1981) và Học viện Quân y (1981 đến nay), từ cơ sở đơn sơ, nhỏ bé ban đầu, ngày nay Học viện đã trở thành trường trọng điểm quốc gia, một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và điều trị hàng đầu của Quân đội và cả nước. Về thực hiện nhiệm vụ đào tạo, Học viện đã quán triệt, triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về công tác giáo dục đào tạo trong tình hình mới; đã triển khai xây dựng định hướng và kế hoạch phát triển của Học viện giai đoạn 2011 - 2020; xây dựng và ban hành sứ mệnh, mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2025; các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể được xác định trong Đại hội Đảng bộ Học viện Quân y nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2016 - 2020, đồng thời xây dựng Nghị quyết số 51 của Đảng ủy Học viện về phát triển và nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên, sinh viên. Học viên luôn có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo từ bậc trung cấp đến đại học và sau đại học; được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá là một cơ sở đào tạo có chất lượng cao, cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ giảng viên giỏi và quan hệ quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học với 10 nước trên thế giới; được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là 1 trong 17 Trường trọng điểm Quốc gia - là một trung tâm lớn, rất có uy tín về đào tạo chất lượng cao cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật chuyên ngành Y- Dược của Quân đội, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước và hai nước bạn Lào, Campuchia. Hiện nay, 100% giảng viên của Học viện đạt trình độ sau đại học, trong đó có 18 giáo sư, 128 phó giáo sư; 91 tiến sĩ, 191 thạc sĩ, 28 bác sĩ chuyên khoa (BSCK) cấp 1 và cấp 2; 5 Nhà giáo Nhân dân, 29 Nhà giáo Ưu tú; 3 Thầy thuốc Nhân dân, 64 Thầy thuốc Ưu tú; 10 chuyên viên kỹ thuật đầu ngành và nhiều chuyên viên kỹ thuật của ngành Quân y. Trong 70 năm qua, Học viện đã có 47 giáo sư, 210 phó giáo sư, 15 Nhà giáo Nhân dân, 35 Nhà giáo Ưu tú, 20 Thầy thuốc Nhân dân, 179 Thầy thuốc Ưu tú; đào tạo được gần 90.000 cán bộ, gồm: 1.000 tiến sĩ, 3.781 thạc sĩ, 4.814 BSCK I, 1.332 BSCK II, hơn 25.000 bác sĩ đa khoa, dược sĩ đại học, cử nhân cao đẳng điều dưỡng, cử nhân cao đẳng kỹ thuật y học, sĩ quan dự bị y dược và trên 55.000 nhân viên y, dược (trong đó có hơn 2.000 bác sĩ cho 9 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 623 bác sĩ cử tuyển cho các tỉnh Tây Nguyên và 200 bác sĩ cho hai tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái). Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, Học viện đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc và đặc biệt xuất sắc, đóng góp to lớn trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho bộ đội và nhân dân. Từ năm 2007 đến nay đã hoàn thành 56 đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học – công nghệ cấp Nhà nước; 136 đề tài cấp Bộ, ngành và cấp tỉnh, thành phố; 605 đề tài cấp cơ sở và 400 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên. Nhiều đề tài có giá trị khoa học cao, được tặng giải thưởng quốc gia và quốc tế, có ý nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh như: Nghiên cứu khắc phục hậu quả chất độc da cam/ dioxin; chế tạo một số chế phẩm sinh học phục vụ chẩn đoán, điều trị bệnh cho bộ đội và cộng đồng... được ứng dụng rộng rãi trong điều trị tại các bệnh viện. Đặc biệt, Học viện Quân y là đơn vị đầu tiên trong nước triển khai nghiên cứu và thực hiện thành công 5 ca ghép tạng đầu tiên trên người, góp phần tạo nên bước phát triển vượt bậc của nền y học nước nhà; được tặng Huân chương Lao động và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ. Học viện hiện có 2 bệnh viện thực hành (Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Bỏng quốc gia) và 1 Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, đồng thời cũng là cơ sở thực hành đào tạo bác sĩ đại học và sau đại học. Các bệnh viện của Học viện luôn là địa chỉ tin cậy đối với thương binh, bệnh binh và người bệnh: Ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại vào điều trị như mổ nội soi, đặt stent, ghép tạng, cấp cứu điều trị bỏng, phẫu thuật tạo hình vi phẫu trong điều trị di chứng bỏng và vết thương, vết loét lâu liền, điều trị cho các trường hợp vô sinh... Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội là cơ sở thứ 3 trong cả nước và là cơ sở đầu tiên của Quân đội thực hiện thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, hiện đã có 4.500 cháu ra đời bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản, trong đó có 2.000 cháu ra đời bằng thụ tinh trong ống nghiệm. Trung bình hàng năm, các cơ sở điều trị của Học viện khám bệnh cho trên 500.000 lượt người, điều trị trên 50.000 lượt bệnh nhân. Đặc biệt, việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị của Học viện vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân trong tình hình mới. Học viện đã triển khai nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong chẩn đoán, điều trị bệnh và đã nghiên cứu ứng dụng những công nghệ mới (công nghệ sinh khối tế bào thực vật; công nghệ chiết siêu tới hạn) trong sản xuất thuốc cũng như nguyên liệu làm thuốc, thu được nhiều kết quả tốt. Để đạt được những thành tích toàn diện đó, trong những năm qua, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm trong lịch sử xây dựng và phát triển, lãnh đạo Học viện đã chủ động, sáng tạo, thực hiện các giải pháp: Bám sát yêu cầu nhiệm vụ, xác định đúng mục tiêu, nâng cao chất lượng, định hướng phát triển của từng lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực trong đào tạo; phát triển tiềm năng khoa học và công nghệ; ứng dụng, phát triển các kỹ thuật mới hiện đại nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị (chú trọng đầu tư, phát triển các chuyên ngành mũi nhọn trong nội soi, chẩn đoán và điều trị; kỹ thuật can thiệp mạch, nâng cao kỹ thuật ghép tạng, cấp cứu, điều trị bỏng...). Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và tin học đáp ứng tốt nhiệm vụ là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ và sự phát triển của đơn vị. Phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ các cấp, trước hết là cán bộ chủ trì trong thực hiện nhiệm vụ và trong xây dựng phát triển Học viện. Phát huy tốt vai trò đòn bẩy của công tác thi đua - khen thưởng trong thực hiện nhiệm vụ và các mặt công tác của đơn vị. Mở rộng và tăng cường hợp tác với các trường đại học, các cơ sở khoa học, các bệnh viện trong nước và quốc tế trên lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị. Cùng với đó, lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ; thường xuyên quan tâm xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Ghi nhận những thành tích của Học viện trong 70 năm qua, Đảng, Nhà nước đã trao tặng cho Học viện nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; ba lần được tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân, 2 cụm công trình đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ... 15 lượt đơn vị trực thuộc và 17 cán bộ từng công tác, học tập tại Học viện được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân và Anh hùng Lao động… Năm 2017, nhân dịp tổng kết 25 năm thành tựu ghép tạng tại Việt Nam, Học viện Quân y đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Hội Ghép tạng Việt Nam đã trao Bằng xác lập và biểu tượng Kỷ lục Việt Nam cho tập thể Học viện Quân y, Bệnh viện Quân y 103 và 5 cá nhân thuộc Học viện. Trung tướng, GS.TS. Nguyễn Trọng Chính (Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Học viện Quân y)Học viện Quân y đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai
TĐKT - Sáng 9/3, tại Hà Nội, Học viện Quân y long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống (10/3/1949 - 10/3/2019) và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu ý kiến. Cùng dự, có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Thượng tướng Trần Đơn, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương, một số địa phương, các đơn vị trong toàn quân... Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Học viện Quân y Trường Quân y sĩ Việt Nam (tiền thân của Học viện Quân y) được thành lập ngày 10/3/1949 tại thôn Tuần Lũng, xã Hoàng Hoa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với cơ sở vật chất nghèo nàn, nhưng bằng trí tuệ và nghị lực, thầy và trò, cán bộ và chiến sĩ của Trường đã đồng cam cộng khổ, vượt qua mọi thử thách, gian nan, vừa giảng dạy, học tập, vừa tham gia chiến đấu, đã đào tạo cho Quân đội một đội ngũ thầy thuốc đáp ứng kịp thời yêu cầu cứu chữa thương bệnh binh trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trải qua năm tháng phát triển, đội ngũ cán bộ, giảng viên của học viên đã có những phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, 100% cán bộ, giảng viên đạt trình độ sau đại học, trong đó có 18 giáo sư, 106 phó giáo sư, 128 tiến sĩ, 191 thạc sĩ, 15 Nhà giáo Nhân dân, 35 Nhà giáo Ưu tú, 20 Thầy thuốc Nhân dân, 179 Thầy thuốc Ưu tú, 10 chuyên viên đầu ngành và nhiều chuyên viên kỹ thuật của ngành Quân y. Trong 70 năm qua, Học viện đã đào tạo được gần 90 nghìn cán bộ y dược, trong đó có gần 55.000 nhân viên chuyên môn kỹ thuật y, dược, hơn 25 nghìn bác sĩ, dược sĩ quân y; 1000 tiến sĩ, hơn 3.700 thạc sĩ; hơn 7000 bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II, bác sĩ nội trú. Ngoài ra, Học viện đã đào tạo được 623 bác sĩ cử tuyển là con em đồng bào dân tộc thiểu số thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên, hơn 2000 bác sĩ cho 9 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 200 bác sĩ cho các tỉnh Bắc Kạn và Yên Bái; đào tạo cho 2 nước bạn Lào và Campuchia được gần 200 y sĩ, dược sĩ trung cấp, 700 bác sĩ đa khoa, 25 bác sĩ chuyên khoa I và bác sĩ chuyên khoa II, 40 thạc sĩ và 3 tiến sĩ. Từ năm 2007 đến nay, Học viện đã hoàn thành 56 đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Nhà nước; 136 đề tài cấp bộ, ngành và cấp tỉnh, thành phố; 605 đề tài cấp cơ sở và 400 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên. Đặc biệt, Học viện là đơn vị đầu tiên trong nước triển khai nghiên cứu và thực hiện thành công 5 ca ghép tạng đầu tiên trên người, góp phần tạo nên bước phát triển vượt bậc của nền y học nước nhà; được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - công nghệ. Học viện hiện có 2 bệnh viện thực hành (Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Bỏng Quốc gia) và 1 Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, đồng thời là cơ sở thực hành đào tạo bác sĩ đại học và sau đại học. Trung bình hàng năm, các cơ sở điều trị của Học viện khám bệnh cho trên 500 nghìn lượt người, điều trị trên 50 nghìn lượt bệnh nhân. Việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị của Học viện vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân trong tình hình mới. Học viện đã triển khai nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong chẩn đoán, điều trị bệnh và đã nghiên cứu ứng dụng những công nghệ mới, đặc biệt trong sản xuất dược liệu quý hiếm ở Việt Nam ứng dụng vào sản xuất thuốc cũng như nguyên liệu làm thuốc, thu được nhiều kết quả tốt. Với những thành tích nổi bật, Học viện Quân y đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống, Học viện vinh dự đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Lễ kỷ niệm Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự nỗ lực và những thành tựu đạt được trong suốt 70 năm xây dựng và trưởng thành của Học viện Quân y, thực hiện tốt ba nhiệm vụ trọng tâm là: Đào tạo nguồn nhân lực y tế cho Quân đội và ngành y tế; nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ y dược; nâng cao chất lượng và hiệu quả điều trị, khám, chữa bệnh. Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao, Thủ tướng Chính phủ đề nghị tập thể lãnh đạo, đội ngũ giáo sư, bác sĩ, học viên Học viện Quân y tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả sứ mệnh, mục tiêu và tầm nhìn đến năm 2025 đã đề ra, phải có chiến lược phát triển lâu dài, có tầm nhìn đến năm 2030 (100 năm thành lập Đảng), đến năm 2045 (100 năm thành lập nước); phấn đấu xây dựng Học viện Quân y thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và điều trị mang tầm khu vực, quốc tế. Trước mắt, Học viện phải sớm đạt tiêu chí trường trọng điểm Quốc gia, trở thành một trung tâm nghiên cứu y dược học quân sự và y dược học hàng đầu của Việt Nam với một số chuyên ngành sâu đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Học viện phải nỗ lực hơn nữa, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học gắn với khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Phương ThanhTĐKT - Nền y học cổ truyền Việt Nam đã có bề dày lịch sử trải dài theo suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Ngày nay, dù đã có sự phát triển lớn mạnh của Tây y nhưng nền Đông y nước nhà vẫn giành vị thế vững vàng, đặc biệt là Đông y gia truyền. Để nét đẹp truyền thống cùng giá trị vô giá của Đông y còn song hành và tồn tại phải kể đến công lao của bao thế hệ lương y có tâm với nghề.
Gần 25 năm gắn bó với ngành y, Đại tá, bác sĩ chuyên khoa II, Lại Lan Phương, Trưởng khoa Nội 3, Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ công an đã mang đến sự sống và niềm vui cho không ít bệnh nhân "chẳng còn tia hy vọng" nhờ cái tâm trong sáng và nền tảng kiến thức vững chắc về y học cổ truyền dân tộc.
Đại tá, bác sĩ chuyên khoa II, Lại Lan Phương, Trưởng khoa Nội 3, Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ công an
Với chị, đến và gắn bó với y học cổ truyền như một cái “duyên” mà ông trời đã sắp đặt. Dù là sinh viên chuyên ngành bác sĩ đa khoa của Học viện Quân y nhưng chị được tiếp xúc với những cây thuốc nam, bài thuốc dân gian từ khá sớm bởi chị có nhiều bạn bè có gia đình làm nghề thuốc đông y gia truyền.
Năm 1989, sau khi ra trường, chị về nhận công tác tại Viện Chăm sóc sức khỏe cho cán bộ cao cấp của Bộ Công an – nay là Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ công an.
Chị nhớ: Đó là thời điểm đất nước ta còn nhiều khó khăn, ngành y cũng vậy. Thuốc men cực kỳ thiếu. Để có thể giúp bệnh nhân của mình vượt qua các cơn bạo bệnh, bên cạnh khám và kê những đơn thuốc tây, chị đã phải tự nghiên cứu, tìm kiếm, bổ sung thêm nguồn thuốc đông y vào đơn thuốc. Nhờ đó, nhiều bệnh nhân của chị đã thoát khỏi những căn bệnh một cách diệu kỳ.
Chị quyết định vừa làm, vừa đi học bổ sung thêm kiến thức đông y chuyên sâu. May mắn được những chuyên gia đầu ngành về y học cổ truyền hướng dẫn và truyền cảm hứng, nên càng học, càng nghiên cứu, chị càng thấy đam mê và bị cuốn hút bởi những cây thuốc nam và cây kim châm kỳ diệu.
Dần dần, trong quá trình làm việc, nữ bác sĩ Lại Lan Phương càng nhận ra rằng thuốc y học hiện đại bên cạnh những tác dụng nhanh, hiệu quả cũng có những hạn chế và tác dụng phụ. Trong khi đó, y học cổ truyền lại có rất nhiều phương thuốc điều trị có hiệu quả, có khả năng hạn chế các tác dụng phụ. Chính điều này đã thôi thúc chị mạnh dạn đề xuất với lãnh đạo bệnh viện chủ động, sáng tạo kết hợp đông tây y trong khám và điều trị cho người bệnh.
Bản thân chị đã chủ động tìm đọc, nghiên cứu các đề tài, đi sâu tìm hiểu, đánh giá tác dụng của một số bài thuốc y học cổ truyền để điều trị một số bệnh: Zona thần kinh, viêm mũi vận mạch, hỗ trợ cai nghiện ma túy, rối loạn lipid máu… Các đề tài của chị đều mang lại hiệu quả rõ rệt trên từng bệnh nhân.
Bác sĩ Lại Lan Phương thường xuyên dành thời gian để hỏi thăm, chia sẻ với người bệnh
Nhắc đến Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ Công an, nhiều người dân ở khắp mọi miền Tổ quốc vẫn thầm cảm ơn công chăm sóc, cứu mạng của nữ bác sĩ Lại Lan Phương. Đặc biệt, biệt danh “Phương zona” hay “Phương y học cổ truyền Bộ Công an” đã trở thành những cái tên được nhiều người bệnh trên khắp cả nước truyền tai nhau khi nói về một bác sĩ đáng tin cậy, một địa chỉ đỏ, uy tín trong chữa các bệnh về zona thần kinh, hay các bệnh nội khoa.
Chị Thư, ở tỉnh Hưng Yên cho biết: Năm 2001, chị có triệu chứng chóng mặt và buồn nôn, rối loạn tiêu hóa và mồm méo biến dạng. Hai vợ chồng đã đi đến gõ cửa nhiều bệnh viện và đều nhận được chuẩn đoán bị mắc bệnh u góc cầu tiểu não. Đó là một căn bệnh khá bi quan, khiến chị càng suy sụp, dường như chỉ nằm một chỗ chờ chết. Trong lúc gia đình và bệnh nhân đều rất tuyệt vọng thì được gặp bác sĩ Phương.
Cùng là phận nữ với nhau, bác sĩ Phương thấu hiểu nỗi khổ của nữ bệnh nhân khi mà người chồng vẫn còn trẻ tuổi và con của chị đang tuổi học hành. Bác sĩ Phương đã động viên, ổn định tâm lý cho người bệnh; đồng thời cố gắng hết vận dụng mọi kiến thức chuyên môn y học hiện đại, kết hợp y học cổ truyền để định hướng điều trị.
Với chẩn đoán bệnh nhân bị vi rút làm rối loạn tiền đình, làm liệt dây thần kinh số 7, bác sĩ Phương đã kết hợp châm cứu và uống thuốc đông y; đồng thời cho bệnh nhân sử dụng một số loại thuốc tây. Kết quả là sau 1 tuần chị Thư đã tỉnh táo, đi lại được bình thường, khuôn mặt của bệnh nhân đã khỏi hẳn.
“Hàng xóm của gia đình bệnh nhân đã kéo nhau lên tận bệnh viện để xem thông tin chị Thư khỏi bệnh có phải là sự thật không. Họ bắt tay tôi cảm ơn vì đã cứu sống cuộc đời chị Thu, mang lại hạnh phúc cho cả một gia đình và cả làng xóm láng giềng” – bác sĩ Lại Lan Phương nhớ lại.
Không chỉ đặt bản thân vào vị trí của người bệnh để thấu hiểu được tâm tư bệnh nhân, dù bận rộn với công tác lãnh đạo, quản lý khoa phòng, nhưng bác sĩ Phương vẫn dành thời gian đến những phòng bệnh động viên lắng nghe ý kiến phản hồi từ người bệnh, đồng thời trực tiếp khám, chữa cho các bệnh nhân nặng, giúp đỡ kêu gọi ủng hộ các bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn.
Chính từ những việc làm trách nhiệm, ân cần, bác sĩ Phương đã nhận được nhiều tình cảm yêu mến, kính trọng từ đồng nghiệp và bệnh nhân.
Năm 2017, bệnh nhân Quang (Hà Nội) được bác sĩ Phương tiếp nhận trong tình trạng bàn chân bị loét đến hở hết cả gân xương do bị nhiễm trùng. Lãnh đạo bệnh viện đã yêu cầu chuyển bệnh nhân sang tây y để tiến hành ghép da.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, bác sĩ Phương biết bệnh nhân khá hoàn cảnh, lại không có người chăm sóc, nếu tiến hành ghép da theo phương pháp y học hiện đại có thể bệnh nhân không đủ điều kiện.
Chị quyết giữ lại bệnh nhân, vừa cắt lọc sạch sẽ vết thương, vừa dùng thuốc đông y để điều trị vết loét lâu liền. Mồng 1, 2 Tết, chị đều có mặt ở viện cùng với đội ngũ điều dưỡng rửa vết thương cho bệnh nhân, hái lá mỏ quạ tươi về giã để để đắp vào vết thương cho sạch, sau đó kết hợp với tế bào gốc.
Nhờ đó, sau một thời gian ngắn, bàn chân của người bệnh liền lành hoàn toàn, vết sẹo rất đẹp. Bệnh nhân đã vô cùng cảm động trước tấm lòng của chị.
Đó chỉ là vài trong số hàng nghìn ca bệnh mà chị đã mát tay cứu chữa.
Bác sĩ Lại Lan Phương thường xuyên giúp đỡ chuyên môn, truyền lửa cho thế hệ trẻ về tình yêu nghề và y đức của người thầy thuốc
Hơn 2 thập kỷ hết lòng với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, chị đã được tặng nhiều giấy khen, bằng khen. Nhưng với nữ bác sĩ ấy, phần thưởng lớn nhất mà chị nhận được chính là những cái nắm tay chặt cảm ơn, niềm tin, nụ cười hạnh phúc của bệnh nhân và người nhà họ. Đó là nguồn động lực lớn lao nhất giúp chị thêm vững tin và gắn bó với nghề đã chọn.
Chị thường nhắc nhở các thế hệ bác sĩ trẻ hôm nay rằng: Mỗi bệnh nhân đến với mình, đồng nghĩa họ đang trao cả mạng sống, cả tương lai cho mình. Hãy sống cùng cơn đau của bệnh nhân, “thấm” từng niềm vui, nước mắt của người bệnh khi đó các em mới có thể thực sự sống cùng nghề y cao quý.
“Bác sĩ dù có nghèo về tiền bạc, nhưng chúng ta luôn giàu sự kính trọng và tin tưởng của bệnh nhân. Chăm sóc sức khỏe nhân dân nhất định phải kết hợp tốt giữa ứng dụng y học cổ truyền và y học hiện đại” – bác sĩ Lại Lan Phương chia sẻ.
Hưng Vũ
Trang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- …
- sau ›
- cuối cùng »