Điển hình tiên tiến

Biểu dương những “thủ lĩnh” công đoàn tiêu biểu xuất sắc

TĐKT - Nhân kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn (CĐ) Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2019), ngày 20/7, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức Hội nghị biểu dương chủ tịch công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn tiêu biểu toàn quốc lần thứ IV và trao tặng Giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ I. Đây là hoạt động ý nghĩa nhằm mục đích tôn vinh, nhân rộng những thành tích của chủ tịch công đoàn cơ sở (CĐCS), nghiệp đoàn tiêu biểu, xuất sắc trong hoạt động công đoàn; cổ vũ, động viên, tạo động lực thi đua, xây dựng đội ngũ chủ tịch CĐCS, nghiệp đoàn ngày càng nâng cao về chất lượng, số lượng; phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ CĐCS trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn; góp phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị phát triển bền vững, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức CĐ ngày càng vững mạnh. 10 cá nhân được trao tặng giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ nhất năm 2019 Được lựa chọn từ 112 hồ sơ do Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) cấp tỉnh, thành phố và công đoàn ngành trung ương đề xuất, 90 chủ tịch CĐCS được biểu dương, đại diện cho 127.180 chủ tịch CĐCS trên toàn quốc. Đó là những tấm gương tiêu biểu trong công tác, sinh hoạt, học tập, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiều sáng kiến, sáng tạo, chủ động, đổi mới trong hoạt động công đoàn; luôn có ý chí khắc phục khó khăn; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, đấu tranh vì lợi ích của tập thể, vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên CĐ và người lao động; là chỗ dựa tin cậy và được cán bộ, đoàn viên CĐ và người lao động tín nhiệm; đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho đoàn viên CĐ, người lao động và đóng góp vào sự phát triển bền vững của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Họ thực sự là những nhân tố nòng cốt để tiếp tục thúc đẩy phong trào công nhân và hoạt động CĐ trong tình hình mới. Trong 90 tấm gương được biểu dương, có 34 chủ tịch CĐCS khu vực hành chính sự nghiệp, chiếm 38%; 35 chủ tịch CĐCS doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước; chiếm 39%; 21 chủ tịch CĐCS khu vực doanh nghiệp nhà nước và các loại hình khác, chiếm 23%. Cán bộ CĐ cao tuổi nhất là 63 tuổi, trẻ tuổi nhất là 31 tuổi. Nhiều cán bộ CĐ có thời gian công tác công đoàn từ 10 năm trở lên, trong đó có cán bộ CĐ trên 20 năm. Các cán bộ CĐ tiêu biểu được lựa chọn ở các lĩnh vực, ngành, nghề. Có thời gian giữ chức vụ chủ tịch CĐCS, nghiệp đoàn ít nhất 3 năm tại CĐCS có từ 150 đoàn viên CĐ trở lên; có tỷ lệ đoàn viên CĐ đạt trên 90% tổng số người lao động trong đơn vị cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tổ chức CĐ nơi cá nhân đó được xét tặng danh hiệu phải có ít nhất 3 năm liên tục (tính đến năm 2018) đạt CĐCS vững mạnh và đã đạt được các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng của LĐLĐ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, công đoàn ngành Trung ương và tương đương trở lên. Các cán bộ CĐCS xuất sắc được tuyên dương tại buổi lễ Trong dịp này, Tổng LĐLĐVN cũng tổ chức Lễ trao tặng Giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ nhất. Đây là phần thưởng cao quý của Tổng LĐLĐ Việt Nam dành tặng cán bộ CĐ các cấp có thành tích đặc biệt xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng tạo, giải pháp đổi mới trong hoạt động CĐ, góp phần xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh, xây dựng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị phát triển bền vững, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. 2019 là năm đầu tiên Tổng LĐLĐ Việt Nam khởi xướng giải thưởng này. Từ 43 hồ sơ đề nghị xét chọn của 26 LĐLĐ tỉnh, thành phố, 11 CĐ ngành trung ương và tương đương và cơ quan Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội đồng đã quyết định trao Giải năm nay cho 10 cán bộ CĐ tiêu biểu. Trong đó: 1 đồng chí là cán bộ CĐ cấp Tổng Liên đoàn; 4 đồng chí là cán bộ CĐ cấp tỉnh, ngành; 3 đồng chí là cán bộ CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở và 2 đồng chí là cán bộ CĐ cơ sở. Đó là các đồng chí: Bùi Văn Cường - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam; Trần Danh Chức, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Quảng Ninh; Vũ Minh Đức, Chủ tịch CĐ Giáo dục Việt Nam; Trương Thị Bích Hạnh, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Dương; Trương Văn Hiền, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Tiền Giang; Vũ Tiến Dũng, Chủ tịch CĐ Công nghiệp Hóa chất Việt Nam; Phạm Thị Hằng, Chủ tịch CĐ Khu Kinh tế Hải Phòng; Tôn Kim Thúy, Chủ tịch LĐLĐ huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên; Trương Văn Tuyên, Chủ tịch CĐ Công ty CP Sản xuất ôtô Hyundai Thành Công Việt Nam (Ninh Bình); Đặng Tuấn Tú, Chủ tịch CĐ Công ty TNHH Chang Shin (Đồng Nai). Giải thưởng Nguyễn Văn Linh được tổ chức trao tặng hằng năm vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (ngày 28/7). Mỗi cá nhân chỉ được trao tặng Giải thưởng này 1 lần. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Thị Mai - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương đánh giá cao sáng kiến của Tổng LĐLĐ Việt Nam trong đề xuất tổ chức Giải thưởng Nguyễn Văn Linh, để tôn vinh các cán bộ CĐ. Điều này đã khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo trong hoạt động CĐ. “Đồng chí Nguyễn Văn Linh là người lãnh đạo bắt đầu cho sự nghiệp đổi mới của Đảng, người đã có thời gian gắn bó với tổ chức CĐ với cương vị người đứng đầu tổ chức CĐ, đồng chí luôn dành cho giai cấp công nhân và tổ chức CĐ Việt Nam những tình cảm và sự quan tâm sâu sắc. Tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, vượt qua khó khăn của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phải được lan tỏa mạnh mẽ trong đội ngũ cán bộ CĐ để giải thưởng này ngày càng mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống xã hội”, đồng chí Trương Thị Mai phát biểu. Trước Lễ biểu dương, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã gặp gỡ, động viên, ghi nhận thành tích của 100 đồng chí cán bộ CĐ gồm 10 cán bộ CĐ xuất sắc nhận Giải thưởng Nguyễn Văn Linh và 90 chủ tịch CĐ cơ sở, nghiệp đoàn tiêu biểu được tôn vinh dịp này. Mai Thảo

Bệnh viện K: 50 năm không ngừng phát triển

TĐKT - 50 năm hình thành và phát triển, Bệnh viện K luôn nỗ lực hết mình để trở thành phấn đấu sớm trở thành một trung tâm hàng đầu trong khu vực về ung bướu và đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ rằng “ung thư biết sớm trị lành”. Giám đốc Bệnh viện K, GS. TS Trần Văn Thuấn cho biết: Bệnh viện được thành lập từ tiền thân là Viện Curie Đông Dương, ra đời tại Hà Nội vào ngày 19/10/1923 do ông Pièrre Moullin, người Pháp phụ trách với mục đích là chữa bệnh ung thư cho người dân Đông Dương và người Pháp. Viện đã áp dụng thành quả các công trình nghiên cứu của nhà khoa học Marie Curie. Các kim và type radium dùng tại Viện lúc đó được đích thân nhà khoa học Marie Curie kiểm tra, xác nhận tại Viện Curie Pháp rồi mới chuyển về Việt Nam để điều trị cho người bệnh. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao Huân chương Độc lập hạng Ba cho Bệnh viện K Từ ngày 6/7/1926, Viện Curie Đông Dương được đổi tên thành Viện Radium Đông Dương, là trung tâm nghiên cứu bệnh ung thư duy nhất tại khu vực Đông Dương thời đó. Năm 1959, Viện Radium được sáp nhập vào Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt Đức) và trở thành Khoa Ung thư của Bệnh viện trong những năm 1959 - 1969. Năm 1969, Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập Bệnh viện K, mở ra trang phát triển mới đối với ngành ung thư Việt Nam. Đội ngũ thầy thuốc và nhân viên y tế của bệnh viện phát triển cả về số lượng và chất lượng, giỏi về chuyên môn và trách nhiệm với nghề nghiệp. Từ lúc chỉ có 68 cán bộ, nhân viên khi thành lập, đến nay Bệnh viện đã có trên 1.500 cán bộ, nhân viên; đội ngũ chuyên gia hùng hậu với 15 giáo sư và phó giáo sư, 65 tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa II; 206 thạc sĩ…; có đầy đủ chuyên gia các chuyên khoa sâu trong các lĩnh vực điều trị ung thư như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, chăm sóc giảm nhẹ... Bệnh viện đã chủ trì, tham gia, hợp tác nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học có giá trị cao, đóng góp vào hoàn thiện các phương pháp điều trị ung thư trên thế giới; có nhiều bài báo trên các tạp chí khoa học y - dược uy tín trong nước và quốc tế. Đồng thời, Bệnh viện là cơ sở thực hành của các trường y dược, tham gia biên soạn nhiều tài liệu, sách giáo khoa, giảng dạy cho hàng chục ngàn bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên đại học và sau đại học. Bệnh viện đã chủ động và có nhiều hoạt động hợp tác quốc tế hiệu quả, tiếp cận với trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tiên tiến của thế giới. Nhiều giáo sư, tiến sĩ của Bệnh viện đã vinh dự được nhiều viện, trường đại học uy tín của Pháp, Hàn Quốc… mời giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu. Từ một cơ sở với 120 giường bệnh, đến nay Bệnh viện đã có 3 cơ sở khang trang với 2.400 giường bệnh với trang thiết bị hiện đại, ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, như hệ thống máy chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ thế hệ mới nhất, hệ thống xạ trị gia tốc đa mức năng lượng, hệ thống xạ phẫu hiện đại nhất hiện nay, hệ thống phẫu thuật robot điều khiển từ xa, hệ thống trung tâm pha chế thuốc tập trung… Tỷ lệ điều trị khỏi một số bệnh ung thư của Bệnh viện K ngang tầm các nước tiên tiến trên thế giới (tỷ lệ điều trị thành công ung thư vú đạt 75%, ngang với Singapore). Ung thư ngày càng có xu hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Ở Việt Nam, mỗi năm 165.000 ca mắc mới và hiện có trên 300.000 bệnh nhân đang sống chung với ung thư. Tình trạng này đặt ra cho ngành y tế nói chung, ngành khám điều trị ung thư nói riêng những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề. Bệnh viện đã áp dụng thành công nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật điều trị tiên tiến, nâng cao hiệu quả điều trị. Trong thời gian tới, Bệnh viện sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả khám, chữa bệnh với phương châm “lấy người bệnh làm trung tâm, lấy hiệu quả điều trị, lấy sự hài lòng của người bệnh là thước đo giá trị, là mục tiêu phấn đấu”. Phát huy hiệu quả Trung tâm phẫu thuật robot, Trung tâm pha chế thuốc tập trung, triển khai kỹ thuật xạ phẫu, áp dụng phương pháp xạ trị hiện đại của thế giới như xạ trị Proton, I-on nặng... Đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, chỉ đạo tuyến, đặc biệt là chuyển giao kỹ thuật cho các bệnh viện vệ tinh, bệnh viện tuyến dưới. Chú trọng hợp tác quốc tế, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong công tác đào tạo đội ngũ thầy thuốc và nghiên cứu điều trị ung thư. Cùng với việc không ngừng nâng cao y đức, Bệnh viện sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo cả về quy mô, chất lượng chuyên môn của đội ngũ thầy thuốc, y, bác sĩ, nắm bắt những kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới để ứng dụng trong phòng, chống ung thư tại Việt Nam. Mỗi thầy thuốc, nhân viên y tế của Bệnh viện K còn phải là chỗ dựa, động viên, an ủi, chia sẻ, đồng hành cùng người bệnh theo đúng tinh thần “Trao hy vọng - nhận niềm tin”. Tiếp tục cùng ngành y tế đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về phòng bệnh, sàng lọc phát hiện sớm ung thư, để người dân hiểu rõ rằng “ung thư biết sớm trị lành”. Đặc biệt, Bệnh viện K sẽ chủ động sáng tạo trong việc triển khai Đề án tự chủ sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cùng với đó là nghiên cứu phát triển mô hình chuỗi bệnh viện chuyên sâu, góp phần quan trọng giảm gánh nặng chi phí cho bệnh nhân và gia đình, giảm nhu cầu người dân ra nước ngoài chữa bệnh và thu hút người nước ngoài điều trị tại bệnh viện. Hiện nay, mỗi năm người Việt Nam bỏ ra hơn 2 tỷ USD ra nước ngoài chữa bệnh, trong đó phần lớn là để chữa trị ung thư. Đặc biệt, Bệnh viện sẽ luôn bảo đảm quyền lợi cho đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế, đối tượng chính sách, nhất là bệnh nhân nghèo, bệnh nhân thuộc diện khó khăn trong tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng với chi phí hợp lý; quan tâm thực hiện trách nhiệm xã hội, vận động các nguồn lực để hỗ trợ các bệnh nhân, bệnh nhi ung thư có hoàn cảnh khó khăn, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Với những nỗ lực không ngừng Bệnh viện K đã vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba. Hồng Thiết

Trao tặng Giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ nhất năm 2019

TĐKT – Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 – 28/7/2019), từ ngày 19 - 20/7, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam sẽ tổ chức trao tặng Giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ nhất (năm 2019). Theo đó, 10 cán bộ công đoàn xuất sắc nhất sẽ được lựa chọn tôn vinh, khen thưởng. Đó là thông tin được lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đưa ra tại Hội nghị thông tin các hoạt động kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam và giao ban báo chí quý II/2019, tổ chức sáng 16/7 tại Hà Nội. Theo đó, năm 2019, 10 cá nhân tiêu biểu vinh dự được tặng Giải thưởng bao gồm: Ông Bùi Văn Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam; ông Trần Danh Chức, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Quảng Ninh; ông Vũ Tiến Dũng, Chủ tịch Công đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam; ông Vũ Minh Đức, Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt Nam; bà Trương Thị Bích Hạnh, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Dương; bà Phạm Thị Hằng, Chủ tịch Công đoàn Khu Kinh tế Hải Phòng; ông Trương Văn Hiền, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Tiền Giang; bà Tôn Kim Thúy, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Hưng Yên; ông Trương Văn Tuyên, Chủ tịch Công đoàn Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam; ông Đặng Tuấn Tú, Chủ tịch công đoàn Công ty TNHH Chang Shin (Đồng Nai). Đồng chí Trần Thanh Hải, Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam trả lời câu hỏi của báo chí Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam Trần Thanh Hải cho biết: Đây là những cán bộ công đoàn tiêu biểu, đại diện cho 4 cấp của tổ chức công đoàn: Công đoàn cơ sở; công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; công đoàn cấp tỉnh thành phố và công đoàn cấp Trung ương; có thành tích đặc biệt xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng tạo, giải pháp đổi mới trong hoạt động công đoàn, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, xây dựng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị phát triển bền vững, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Giải thưởng Nguyễn Văn Linh được tổ chức trao tặng một lần cho cán bộ công đoàn đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. Tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo Tổng LĐLĐ Việt Nam cũng cho biết, cùng với Lễ trao giải thưởng Nguyễn Văn Linh còn nhiều hoạt động ý nghĩa khác được tổ chức. Tiêu biểu là Hội thảo khoa học cấp quốc qua với chủ đề “Công đoàn Việt Nam 90 năm xây dựng và phát triển”. Hội thảo tiếp tục làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận - lịch sử về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam; xác định vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam đối với đoàn viên, người lao động, với việc xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh, với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và việc giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng qua đó khẳng định những cống hiến nổi bật và những thành tựu xuất sắc trong hoạt động Công đoàn và phong trào công nhân Việt Nam trong 90 năm qua. Hội thảo cũng nhằm góp phần đánh giá cơ hội, thách thức và đề xuất định hướng lớn, giải pháp quan trọng cho hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới. Bên cạnh đó, còn có hoạt động trưng bày “Công đoàn Việt Nam 90 năm xây dựng và phát triển”, dự kiến khai mạc ngày 25/7 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Nội dung trưng bày gồm có 3 phần: Quá trình hình thành và phát triển của tổ chức Công đoàn Việt Nam (1929 - 2019); sự đóng góp của tổ chức Công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc (1929 - 2019); gương lao động sáng tạo của công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Triển lãm trưng bày trong 3 tháng. Lễ mít tinh kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam sẽ được tổ chức trọng thể vào sáng 28/7 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Dự kiến, chương trình sẽ được truyền hình trực tiếp trên VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam và phát thanh trực tiếp trên VOV1 - Đài Tiếng nói Việt Nam. Mai Thảo

Tiến sĩ Lê Bích Thắng – Gương sáng phụ nữ tỉnh Thanh Hóa thế kỷ 21

TĐKT - Mạnh mẽ, sắc sảo và quyết đoán, Tiến sĩ Lê Bích Thắng (sinh năm 1950), Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH đầu tư du lịch Hải Tiến trở thành hình mẫu phụ nữ lý tưởng của tỉnh Thanh Hóa trong thế kỷ 21 bởi sự năng động trong các hoạt động làm kinh tế du lịch và những cống hiến to lớn mà bà đã dành cho quê hương. Dám nghĩ dám làm Sinh ra dưới thời mưa bom đan lạc tại vùng quê Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa anh hùng, Tiến sĩ Lê Bích Thắng đã sớm tham gia các hoạt động vận chuyển vũ khí, đạn dược cho bộ đội tại ga nghĩa trang. Vốn thông minh, sáng dạ, sau khi học xong cấp 3 và được kết nạp Đảng, bà nhanh chóng được cử đi học tại Liên Xô. Sau khi học xong, nữ tiến sĩ được phân công về công tác tại vụ điều tra cơ bản - Ủy ban khoa học nhà nước, sau này là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Trong quá trình công tác ở cơ quan nhà nước, bà đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tiên phong gương mẫu của người đảng viên và được bổ nhiệm làm trưởng phòng kiểm soát ô nhiễm của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nhiều năm liền bà là Chiến sĩ thi đua của ngành và làm bí thư chi bộ, đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được giao và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học về môi trường. Trong quá trình công tác tại Bộ, Tiến sĩ Lê Bích Thắng đã dành nhiều quan tâm và giúp đỡ các dự án cho Thanh Hóa như: Đưa đoàn của Tổ chức JICA (Nhật Bản) về khảo sát xây dựng dự án nuôi trồng, phục hồi con phi tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa; trồng cây sú vẹt bảo vệ môi trường ở xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa. Tiến sĩ Lê Bích Thắng  Năm 2007, hưởng ứng lời kêu gọi của tỉnh Thanh Hóa và huyện Hoằng Hóa, sau khi được nhà nước cho nghỉ chế độ, bà Lê Bích Thắng đã xung phong về đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái biển Hải Tiến, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Từ một vùng đất đặc biệt khó khăn (nhiều năm liền theo chế độ bãi ngang), đến nay nhờ có Tiến sĩ Lê Bích Thắng, Hải Tiến đã trở thành khu du lịch (KDL) nổi tiếng của Thanh Hóa và cả nước. Với quyết tâm cống hiến cho quê hương, bà là người đầu tiên đầu tư xây dựng khu du lịch Hải Tiến và kêu gọi được 7 doanh nghiệp tại Hà Nội đầu tư tiếp theo với số vốn đầu tư lên đến 4.000 tỷ đồng, với tổng số phòng lên đến 4.000 phòng. Từ năm 2012 đến nay, KDL đã đón nhận hơn một triệu khách du lịch trong nước và quốc tế, biến Hải Tiến trở thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn của tỉnh Thanh Hóa. Đồng thời, Công ty TNHH Đầu tư và Du lịch Hải Tiến do bà Thắng làm chủ đã kêu gọi các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào KDL biển Hải Tiến, xây dựng các khu khách sạn, khu vui chơi giải trí cảm giác mạnh, xây dựng thêm gần 1,2 km tuyến đường ven biển, kè bờ biển... nhằm phát huy những ưu thế của thiên nhiên và lịch sử, đưa Hải Tiến trở thành một KDL sinh thái biển hấp dẫn. Các công trình, dự án có kiến trúc hiện đại, đa tiện ích đã và đang có sự kết hợp hài hoà, tinh tế với vẻ nguyên sơ của vùng biển Hải Tiến. Sức đầu tư lớn, quy mô, bài bản, tôn trọng mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích kinh tế - môi trường – đời sống nhân dân là những yếu tố làm nên giá trị, nâng tầm thương hiệu du lịch biển Hải Tiến, thu hút đông đảo du khách tham gia. Năm 2018 vừa qua, KDL Hải Tiến đã đón hơn 1 triệu ba trăm nghìn lượt khách trong và ngoài nước, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, họp mặt, tập huấn nghiệp vụ... Công suất sử dụng phòng bình quân đạt trên 80%, vào các ngày lễ, ngày cuối tuần gần đạt 100%. Doanh thu từ các hoạt động du lịch, khách sạn năm sau cao hơn năm trước. Năm 2019, tại KDL Ánh Phương (thuộc Công ty TNHH Đầu tư và Du lịch Hải Tiến), các nhà đầu tư thứ cấp trong và ngoài tỉnh đã đầu tư xây dựng thêm 10 khách sạn và biệt thự du lịch đạt tiêu chuẩn 3 - 4 sao, nâng tổng số lên 2.500 phòng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách về với biển Hải Tiến. Các nhà đầu tư thứ cấp như công ty Đại Dương Xanh xây dựng cảng du lịch với nhiều tàu cao tốc đưa khách đi tham quan các đảo và dọc sông Mã, thăm các danh lam thắng cảnh của xứ Thanh như đền Độc Cước, Lam Kinh, Thành Nhà Hồ... Nhằm tổ chức kinh doanh khai thác tốt nhất cho mùa du lịch năm 2019, Công ty TNHH Đầu tư và Du lịch Hải Tiến và công ty Thanh Vân đã đầu tư hệ thống đèn chiếu sáng, hệ thống vỉa hè, bồn hoa, cây cảnh; công ty Thanh Vân đầu tư khu vui chơi cảm giác mạnh, công viên nước… Đồng thời, chú trọng xây dựng thương hiệu du lịch thực sự văn minh, đẳng cấp và bền vững, để KDL sinh thái biển Hải Tiến thực sự trở thành điểm hấp dẫn du khách, góp phần phát triển “ngành công nghiệp không khói” xứ Thanh… Tâm huyết với quê hương Không chỉ dừng lại ở những đóng góp cho sự phát triển kinh tế của quê hương, với cương vị là những người hoạt động sáng tạo và trưởng thành từ lao động khoa học, bà Thắng cùng chồng là Tiến sĩ Lê Xuân Thảo hiểu hơn ai hết giá trị của sự học.  Xuất phát từ nhận thức đó, nhằm tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của gia đình cùng cái tâm trong sáng, nhiệt thành, vợ chồng Tiến sĩ Lê Bích Thắng đã tự mình và tích cực vận động anh em, con cháu, người thân trong gia đình, dòng họ, các nhà hảo tâm quyên góp trên 10 tỷ đồng cho công tác khuyến học, khuyến tài. Quỹ khuyến học Lê Xuân Lan mang tên bố chồng bà – nhà giáo, người chiến sĩ cách mạng kiên trung do bà và chồng cùng sáng lập đã chi trên 5 tỷ đồng để trao thưởng cho hơn 7 nghìn lượt học sinh giỏi các cấp; cấp học bổng cho 1.750 lượt học sinh nghèo vượt khó học khá giỏi. Bà Thắng cũng tài trợ quỹ khuyến học cho 43 hội khuyến học xã, thị trấn; đầu tư cơ sở vật chất trường học 1 tỷ 600 triệu đồng, in và phát hành 3.000 cuốn sách “Quỹ khuyến học Lê Xuân Lan - Chắp cánh tương lai”. Tiến sĩ Lê Bích Thắng được tặng Giải thưởng vì sự phát triển của Thanh Hóa năm 2019 nhân “Kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa”... Đặc biệt, trong dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Quỹ khuyến học Lê Xuân Lan, vợ chồng Tiến sĩ Lê Bích Thắng – Lê Xuân Thảo đã ủng hộ thêm 1 tỷ đồng thêm vào quỹ, 100 triệu đồng ủng hộ trường Quốc học Huế và 100 triệu đồng ủng hộ trường Tiểu học Quảng Ngọc (huyện Quảng Xương). Ngoài ra, bà Thắng còn tổ chức các đoàn bác sĩ về khám, chữa bệnh miễn phí và tặng quà cho các gia đình chính sách, người có công với cách mạng ở 2 xã Hoằng Tiến và Hoằng Thanh. Bà còn tặng hàng trăm suất quà cho các gia đình liệt sĩ ở các xã. Tham gia nhiều hoạt động từ thiện và luôn nỗ lực không ngừng để xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp, bà tâm niệm: “Vợ chồng tôi đã, đang và luôn thầm nghĩ, sẽ làm nhiều việc thiện để góp phần cùng anh em vun đắp cây đức cho dòng tộc cũng như cho đời. Chúng tôi cảm thấy mình làm bao nhiêu cũng chưa đủ”. Song hành cùng các hoạt động khuyến học – khuyến tài, TS Lê Bích Thắng còn là người không ngừng đấu tranh, đòi lại công bằng, quyền lợi cho các nạn nhân Việt Nam nhiễm chất độc da cam/dioxin trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Với tấm lòng biết thơm thảo của mình, bà Thắng còn được biết đến là một điển hình trong việc phát tâm cung tiến, thiện nguyện, góp phần phục dựng lại nhiều đình, chùa, miếu mạo và các công trình văn hoá – lịch sử xứ Thanh: Đền thờ Đức Thánh Cả xã Đa Lộc (huyện Hậu Lộc), đền thờ Đức Thánh Cả xã Hoằng Trung, đền thờ Tô Hiến Thành xã Hoằng Tiến (Hoằng Hoá)… Năm 2009, bà Lê Bích Thắng là người phụ nữ duy nhất đóng vai trò quan trọng được quyền tham dự vào “hành trình trở về của một hoàng đế” là vua Lê Dụ Tông từ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trở về đất mẹ ở xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân. Đồng thời, bà Thắng đã nhận phụng dưỡng 5 Mẹ Việt Nam Anh hùng; nuôi nhiều cháu mồ côi học hết đại học; tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động của Hoằng Hóa nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho người dân vùng bãi ngang. Với những đóng góp đó, Tiến sĩ Lê Bích Thắng đã nhận được nhiều danh hiệu, bằng khen, giấy khen của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương qua các năm: Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; năm 2014, bà được Chủ Tịch nước tặng biểu trưng vàng về thành tích đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Giấy khen của Giám đốc công an tỉnh Thanh Hóa vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2016; Giải thưởng vì sự phát triển của Thanh Hóa năm 2019 nhân “Kỷ niệm 990 năm danh xưng Thanh Hóa”... Nhưng hơn hết, đó là sự yêu quý, tin tưởng của bà con nhân dân Hải Tiến đã dành cho bà – người phụ nữ đã thắp sáng vùng quê nghèo Hải Tiến. Mai Thảo

Tôn vinh 140 cán bộ công đoàn, công nhân lao động tiêu biểu ngành dệt may

TĐKT - Sáng 13/7, Công đoàn Dệt May Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 – 28/7/2019) và tuyên dương cán bộ công đoàn, công nhân, lao động tiêu biểu của ngành. Tới dự, có các đồng chí: Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Lê Tiến Trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam. Đồng chí Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát biểu tại buổi lễ Trong diễn văn kỷ niệm, đồng chí Lê Nho Thướng, Chủ tịch Công đoàn Dệt May Việt Nam đã ôn lại chặng đường vẻ vang của Công đoàn Việt Nam nói chung và Công đoàn Dệt may nói riêng từ khi thành lập cho đến nay. Cùng với giai cấp công nhân Việt Nam, công nhân lao động ngành dệt may Việt Nam được hình thành và phát triển gắn với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, kiến thiết đất nước, từ phong trào công nhân dệt may đấu tranh giành quyền sống, chống áp bức bóc lột dưới ách cai trị của Pháp, mà tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh ngày 25/3/1930 của hơn 4.000 công nhân của Dệt May Nam Định, đã buộc chủ nhà máy phải chấp nhận các yêu sách của công nhân - đến việc tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của kẻ thù, tăng gia sản xuất, để chi viện cho tiền tuyến trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ - đến những phong trào hành động, những đột phá để tạo ra bước phát triển vượt bậc sau ngày thống nhất đất nước. Từ chỗ chưa tạo được tên tuổi trong bản đồ xuất khẩu dệt may thế giới, đến nay, ngành dệt may Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu dệt may toàn cầu, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế; đồng thời góp phần tạo công ăn việc làm, đảm bảo an sinh xã hội. Giao lưu với cán bộ công đoàn tiêu biểu ngành dệt may Trong cả hành trình đó, hoạt động công đoàn và phong trào công nhân của ngành đã đã có những đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục, vận động người lao động; tham gia quản lý; tổ chức các phong trào hành động; chăm lo nâng cao chất lượng đội ngũ; thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ; nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của từng doanh nghiệp và của toàn ngành; làm đẹp cho đời, làm giàu cho xã hội… Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ghi nhận và chúc mừng những kết quả đạt được của Công đoàn Dệt May Việt Nam thời gian qua. Trước bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, đồng chí cho rằng, Công đoàn ngành dệt may có nhiều thuận lợi, thời cơ, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức. Để tranh thủ được cơ hội, vượt qua thách thức, đồng chí Ngọ Duy Hiểu cho rằng Công đoàn Dệt May Việt Nam cần tăng cường tuyên truyền vận động cán bộ công nhân lao động bằng nhiều hình thức đa dạng để họ hiểu được những thời cơ, thách thức này. Bên cạnh đó, phải tiếp tục làm tốt hơn công tác đại diện chăm lo bảo vệ - nhiệm vụ cốt lõi của tổ chức Công đoàn Việt Nam; quan tâm động viên người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ; tổ chức tốt các phong trào thi đua để người lao động hăng say sản xuất, nâng cao ý thức kỷ luật; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng bám sát tâm tư nguyện vọng của người lao động, tổ chức ngày càng nhiều những hoạt động thiết thực. Cùng với đó, Công đoàn Dệt May Việt Nam cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn; nhất là đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở. Công đoàn Dệt May Việt Nam tuyên dương, khen thưởng các công nhân, lao động tiêu biểu Tại buổi lễ, Công đoàn Dệt May Việt Nam đã tuyên dương và khen thưởng 50 cán bộ công đoàn và 90 công nhân, lao động tiêu biểu. Đây là những điển hình xuất sắc đã gắn với những mô hình, những phong trào hoạt động thiết thực, những cách làm hiệu quả, được hình thành trong thực tiễn hoạt động công đoàn và phong trào công nhân của ngành giai đoạn 2015 đến nay. Phương Thanh

Bệnh viện Nhi Trung ương long trọng đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì

TĐKT - Ngày 13/7, tại Hà Nội, Bệnh viện Nhi Trung ương tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm xây dựng và phát triển Bệnh viện, đồng thời đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu ý kiến. Cùng tham dự buổi lễ có nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cùng lãnh đạo các ban, bộ, ngành. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Bệnh viện Nhi Trung ương Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Hải - Giám đốc bệnh viện cho biết, 50 năm là hành trình phấn đấu không biết mệt mỏi của lớp lớp các thế hệ cán bộ, thầy thuốc, nhân viên y tế, người lao động của Bệnh viện Nhi Trung ương cho mục tiêu mọi trẻ em Việt Nam đều được chăm sóc sức khỏe toàn diện với chất lượng tốt nhất. Với nội lực, ý chí phấn đấu, sự đoàn kết, thống nhất, không quản ngại gian khổ, dám nghĩ, dám làm, áp dụng nhiều tiến bộ khoa học vào chẩn đoán, chăm sóc, điều trị và phòng bệnh, Bệnh viện Nhi Trung ương đã khẳng định được vị thế của mình trong nền y học nước nhà, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhà nước, sự trông đợi của nhân dân trong công cuộc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em. Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Hải cũng khẳng định quyết tâm của Ban Giám đốc bệnh viện là đưa bệnh viện tiến tới là bệnh viện hàng đầu về nhi khoa trong khu vực Đông Nam Á. Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, công tác bảo vệ sức khỏe cho trẻ em, thế hệ tương lai của đất nước luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đến nay, chúng ta đã xây dựng một Bệnh viện Nhi Trung ương đầu ngành của cả nước, ngang tầm khu vực. Thủ tướng đánh giá cao kết quả bệnh viên đạt được thời gian qua. Bệnh viện đã có gần 2.000 giường bệnh với trang thiết bị, phương tiện hiện đại. Đặc biệt, từ năm 2012, bệnh viện đã được trang bị hệ thống phẫu thuật nội soi ứng dụng robot đầu tiên của Việt Nam và ứng dụng trên trẻ em lần đầu tiên ở châu Á. Hiện bệnh viện có gần 2.000 thầy thuốc, nhân viên y tế, người lao động với 10 giáo sư, phó giáo sư, 83 tiến sĩ và bác sĩ chuyên khoa cấp 2, 300 thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa cấp 1. Một số nhà khoa học của bệnh viện là các chuyên gia có uy tín trong nước, khu vực và thế giới như Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm có phương pháp phẫu thuật được thế giới công nhận và ứng dụng. Riêng năm 2018 vừa qua, Bệnh viện tiếp nhận hơn 1 triệu lượt trẻ bệnh đến khám và hơn 100 nghìn bệnh nhi điều trị nội trú. Thủ tướng cũng nhắc đến những thành tựu mới nhất của bệnh viện như bệnh nhi xơ gan giai đoạn cuối được hồi sinh nhờ ghép gan; ứng dụng thành công và làm chủ phương pháp sử dụng kim Endo trong phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý thoát vị bẹn ở trẻ em; lần đầu tiên phẫu thuật động kinh kết hợp đặt điện cực bề mặt vỏ não thành công. Thủ tướng cho rằng, chặng đường phía trước đối với Bệnh viện Nhi Trung ương còn nhiều gian lao, thử thách như nhiều căn bệnh khó, bệnh hiếm, bệnh lạ, bệnh dịch theo mùa ở trẻ em xuất hiện ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp; nhu cầu được khám, chữa bệnh với chất lượng cao của nhân dân ngày càng tăng; sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, kỹ thuật và thiết bị y tế… Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi cán bộ, đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế và người lao động phải không ngừng nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa trên mọi lĩnh vực; phấn đấu đưa Bệnh viện Nhi Trung ương sớm trở thành một trung tâm nhi khoa tiên tiến, hiện đại, chất lượng cao trong khu vực và trên thế giới. Thời gian tới, Thủ tướng đưa ra 5 giải pháp quan trọng để Bệnh viện Nhi Trung ương lưu ý thực hiện: Một là, không ngừng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại trong những lĩnh vực mới, chuyên sâu. Hai là, chủ động tiếp cận, nắm bắt, làm chủ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế giới trong việc chẩn đoán, điều trị, chăm sóc, dự phòng các bệnh lý trẻ em, nhất là bệnh khó, bệnh hiếm, bệnh nặng; đồng thời chú trọng nghiên cứu khoa học. Ba là, phát huy đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh xã hội hóa nguồn lực, trong đó có huy động các nguồn lực, đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế cho phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị khám, chữa bệnh theo hướng hiện đại, thân thiện. Bốn là, tiếp tục phát triển Bệnh viện Nhi Trung ương dẫn đầu trong hệ thống nhi khoa Việt Nam; nghiên cứu, phát triển mô hình chuỗi bệnh viện đa ngành, chuyên sâu, hướng về cộng đồng, ngang tầm khu vực và quốc tế. Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền y học phát triển trong đào tạo đội ngũ thầy thuốc và trong nghiên cứu, điều trị, khám, chữa bệnh, tạo động lực thúc đẩy phát triển nền y học tiên tiến, bền vững. Nâng cao hơn nữa chất lượng khám, chữa bệnh cho trẻ em trên cả nước, đặc biệt đối với những bệnh nan y nguy hiểm. Tại buổi lễ, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã trao Huân chương Độc lập hạng Nhì tặng Bệnh viện Nhi Trung ương. Hồng Thiết  

Trao tặng Huân chương Sao Vàng cho Lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989

TĐKT - Sáng 12/7, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội, Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Lễ đón nhận Huân chương Sao Vàng cho lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989. Tới dự, có: Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban liên lạc Lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989 Vũ Oanh; các Bí thư Trung ương Đảng: Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Văn Nên; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Lương Cường. Cùng dự có đại biện lâm thời Đại sứ quán Vương quốc Campuchia tại Việt Nam; đại diện một số bộ, ban, ngành trung ương; các chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989. Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã trao tặng Huân chương Sao Vàng cho Lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp Cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989. Cách đây hơn 40 năm, trước những tội ác tày trời, vô cùng dã man, tàn ác của bè lũ Khmer Đỏ đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia, thể theo lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, đề nghị Việt Nam giúp đỡ giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, quân tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân Campuchia đã đánh đổ chế độ Khmer Đỏ, khép lại trang lịch sử đen tối của dân tộc Campuchia, mở ra kỷ nguyên mới, hồi sinh, phát triển toàn diện của đất nước và dân tộc Campuchia. Giai đoạn 1979 – 1989, Đảng, Nhà nước ta đã cử gần 3,5 vạn cán bộ sang giúp Bạn. Trong Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia có những đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương giữ các chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, Thủ trưởng các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND tỉnh… và nhiều cán bộ cấp cục, vụ có phẩm chất, năng lực sang giúp cách mạng Campuchia. Đó là các cơ quan, đơn vị: Đoàn chuyên gia Trung ương Đảng (Ban B68), Đoàn chuyên gia Chính phủ (A40), Đoàn chuyên gia Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng (Đoàn 478), Đoàn chuyên gia an ninh (K79), Đoàn chuyên gia TP Hồ Chí Minh (A50), Đoàn chuyên gia cấp tỉnh… Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giúp Bạn, trở về nước, các cựu chuyên gia tiếp tục công tác trên các cương vị khác nhau và có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Ban liên lạc cựu chuyên gia đã có nhiều hoạt động tích cực, tham gia các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần củng cố, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị tốt đẹp giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia. Tại buổi lễ, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã trao tặng Huân chương Sao Vàng cho Lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp Cách mạng Campuchia giai đoạn 1979 – 1989. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trần Quốc Vượng nhấn mạnh: Việc Đảng, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cho lực lượng chuyên gia Việt Nam giúp Cách mạng Campuchia là sự ghi nhận, đánh giá công lao, thành tích to lớn, đặc biệt xuất sắc của Lực lượng chuyên gia Việt Nam. Thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đồng chí Trần Quốc Vượng bày tỏ sự cảm ơn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ quý báu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ, thống nhất, xây dựng đất nước; quan tâm ủng hộ, tạo điều kiện hợp tác, nhiệt tình giúp đỡ lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Tin tưởng rằng quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện Việt Nam – Campuchia sẽ tiếp tục phát triển, mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Nguyệt Hà

Người tiên phong trong nuôi cá lồng ở Chuyên Ngoại (Hà Nam)

TĐKT - Đến thôn Yên Mỹ (xã Chuyên Ngoại, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) không ai là không biết đến ông Nguyễn Xuân Đô. Ông không chỉ là người tiên phong thực hiện hiệu quả mô hình kinh tế nuôi cá lồng trên sông mà còn giúp nhiều bà con địa phương cùng vươn lên làm giàu từ mô hình này. Ông Đô bên mô hình nuôi cá lồng trên sông Hồng của gia đình Gắn bó với công việc nhà nông và việc nuôi cá thả ao từ lâu nhưng theo ông Đô, việc thả cá theo phương pháp truyền thống không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bởi vậy, cuộc sống gia đình cũng chỉ đủ ăn. Ông luôn suy nghĩ, trăn trở tìm cách vươn lên làm giàu. Tình cờ trong một chuyến thăm quan mô hình kinh tế năm 2015 do Hội Nông dân xã tổ chức, ông được biết đến mô hình nuôi cá trong lồng trên sông Hồng. Nhận thấy mô hình này phù hợp với điều kiện tự nhiên ở một xã ven sông như Chuyên Ngoại, ông quyết tâm sẽ đầu tư và đổi mới phương thức nuôi cá truyền thống của gia đình. Nghĩ là làm, được sự ủng hộ từ gia đình và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, ông Đô đã mạnh dạn đầu tư nuôi cá trong lồng với khởi đầu 45 lồng cá và trở thành người nông dân đầu tiên trong xã thử nghiệm mô hình phát triển kinh tế này. “Thời gian đầu thử nghiệm mô hình này, tôi gặp rất nhiều khó khăn. Do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thêm vào đó, lứa đầu tiên này của ông gặp phải cơn bão lớn đợt tháng 7 năm 2016 khiến đàn cá đã theo dòng nước lớn bơi ra khỏi lồng, bao nhiêu tiền đầu tư nuôi cá coi như mất trắng”. - ông Đô chia sẻ. Tuy nhiên, thất bại này không làm ông nản lòng. Để có thêm kinh nghiệm nuôi cá trong lồng, ông tự mày mò nghiên cứu qua sách, báo, mạng. Ông cũng tự mình đến một số mô hình này ở các tỉnh lân cận Hà Nam để tìm hiểu, học hỏi. Sau khi đã nắm vững kỹ thuật nuôi, ông quyết định nuôi các loại cá đặc sản như cá lăng, cá chiên, diêu hồng, chép giòn và trắm cỏ, là những loại cá được thị trường ưa chuộng và có giá trị kinh tế. Cứ lứa này gối lứa khác, cho thu hoạch quanh năm. Lứa cá đầu tiên đem lại thu hoạch vào cuối năm 2017, năng suất mỗi lồng đạt 3 - 4 tấn, có lồng được hơn 5 tấn cá thương phẩm. Trừ chi phí bình quân, số lãi mà ông thu được từ bán cá khoảng 35 - 45 triệu đồng/lồng. Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi một số loại cá trong lồng, ông Đô cho biết: Đối với giống cá chép giòn, người nuôi phải đặc biệt chú ý đến khâu thu hoạch. Đây là loại cá hay bị vỡ cơ nên khi thu hoạch phải nhẹ nhàng.Với giống cá lăng và diêu hồng phải phòng bệnh tốt bằng cách buộc túi vôi bột xung quanh lồng, cho tắm muối để khử trùng, giảm thiểu bệnh nấm, dịch mắt đỏ. Cũng theo ông Đô, nuôi cá trong lồng có ưu điểm hơn so với nuôi cá truyền thống ở chỗ, nhờ có dòng nước lưu thông trên sông Hồng, người chăn nuôi không phải lo lượng thức ăn thừa, phân cá như nuôi trong ao. Do đó giảm được khâu xử lý môi trường ao nuôi và thời gian nghỉ của ao sau mỗi vụ, từ đó giảm nhiều chi phí, nâng cao thu nhập.  Tuy nhiên, vốn đầu tư ban đầu cho nuôi cá trong lồng lớn, rủi ro cao nhất là do thiên tai, khi vào mùa bão lũ. Chính vì vậy phải nắm chắc kỹ thuật nuôi cũng như áp dụng tốt biện pháp phòng, chống thiên tai. Bên cạnh đó công tác phòng bệnh cho đàn cá cũng rất quan trọng. Mô hình nuôi cá lồng không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình ông Đô mà còn giải quyết việc làm cho 25 - 30 lao động tại địa phương, với thu nhập bình quân 150.000 đồng/người/ngày. Từ thành công với mô hình này, ông Đô tiếp tục mở rộng mô hình, đồng thời vận động được 28 hộ trong xã tham gia với tổng số trên 150 lồng cá. Những hộ dân tham gia được ông giúp đỡ con giống cũng như kinh nghiệm chăn nuôi. Đa số các hộ đều đã thành công với mô hình này. Để việc chăn nuôi cá lồng trên địa bàn xã hoạt động chuyên nghiệp, không manh mún, năm 2017, xã Chuyên Ngoại đã thành lập Tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản do ông Đô làm tổ trưởng. Với sự dẫn dắt của ông, tổ hợp tác đã hoạt động hiệu quả, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho các tổ viên. Tùng Chi

Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ kỷ niệm 25 năm thành lập

TĐKT - Sáng 9/7, tại Hà Nội, Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ tổ chức Lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Viện và Hội thảo khoa học "Phát triển công nghệ đo đạc bản đồ trong thu nhận dữ liệu địa không gian". Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa tới dự và phát biểu chỉ đạo. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa phát biểu chỉ đạo Ngày 9/7/1994, Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính có Quyết định số 413/QĐ/TCĐC thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Địa chính trên cơ sở kết hợp Liên hiệp Khoa học sản xuất Trắc địa và Bản đồ và Đội bay chụp của Trung tâm Tư liệu Đo đạc và Bản đồ, đây là tên gọi đầu tiên của Viện ngày nay. Qua 25 năm hình thành và phát triển, với 3 lần đổi tên gọi, Viện vẫn luôn giữ vững vai trò là Viện nghiên cứu cơ bản hàng đầu của lĩnh vực trắc địa bản đồ, là đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, có chức năng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về đo đạc và bản đồ; đào tạo trình độ tiến sĩ kỹ thuật trắc địa và bản đồ. Viện đã trưởng thành cùng cơ sở vật chất được tăng cường, với nhiều trang thiết bị hàng đầu thế giới như máy đo trọng lực tuyệt đối FG5 - X (Mỹ), máy trọng lực hàng không TASG AIR III (Mỹ), máy đo công trình ngầm Georadar RIS MF Hi-Mod, các thiết bị định vị vệ tinh thế hệ mới, phần mềm GIS... Số lượng cán bộ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ không ngừng được tăng thêm. Các nghiên cứu tại nhiều đề tài khoa học của Viện đã được triển khai ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương trên cả nước. Có thể kể đến các nghiên cứu về ứng dụng GPS ở Việt Nam từ những năm 1990; nghiên cứu ứng dụng công nghệ ảnh số từ cuối những năm 1990 cho đến nay; nghiên cứu ứng dụng công nghệ trọng lực trong những năm 2000; nghiên cứu về quản lý cơ sở dữ liệu địa chính cấp tỉnh với phần mềm ViLIS; các nghiên cứu cơ bản về xây dựng hệ tọa độ, độ cao ở Việt Nam và gần đây là hệ thống quan trắc địa động lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam... Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa đánh giá cao kết quả, sự nỗ lực, tâm huyết, tinh thần trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Viện, các nhà khoa học cùng toàn thể viên chức, người lao động của Viện qua các thời kỳ. Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa, Luật Đo đạc và bản đồ đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành, cùng với bối cảnh của Cách mạng công nghiệp 4.0, đặt ra những yêu cầu quản lý và nghiên cứu khoa học công nghệ về đo đạc, bản đồ và hệ thống tin địa lý vào quá trình thu nhận, phân tích, tích hợp dữ liệu địa không gian ở độ chính xác cao, kịp thời và hiệu quả. Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ cần phải định hướng chiến lược một cách đúng đắn, với mục tiêu trở thành một viện nghiên cứu cơ bản đầu ngành, có năng lực và trình độ khoa học công nghệ hiện đại đạt mức tiên tiến của khu vực và tiếp cận với trình độ của các nước phát triển trên thế giới. Đồng thời góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực đo đạc và bản đồ, cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời phục vụ các yêu cầu của quản lý nhà nước về lãnh thổ, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, phát triển kinh tế xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng; nghiên cứu khoa học về Trái Đất; phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường; đáp ứng thông tin cho nhu cầu sử dụng của cộng đồng trong hoạt động kinh tế, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, dân sinh và xã hội. Nhân dịp này, Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước cho Phó Viện trưởng Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ Nguyễn Phi Sơn vì có thành tích xuất sắc giai đoạn 2014 - 2019; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho 1 tập thể và 3 cá nhân có thành tích trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; Cờ thi đua của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hai đơn vị thuộc Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ. Trong khuôn khổ Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập, Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ tổ chức Hội thảo khoa học “Phát triển công nghệ đo đạc bản đồ trong thu nhận dữ liệu địa không gian”. Hội thảo nhằm tổng kết, truyền bá những kết quả nghiên cứu khoa học mới và khẳng định bề dày lịch sử, truyền thống nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ của lĩnh vực đo đạc và bản đồ nói chung và của Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ nói riêng. Đồng thời, đây cũng là diễn đàn cho các nhà khoa học, chuyên gia trao đổi chuyên môn, kinh nghiệm vì mục tiêu xây dựng ngành đo đạc và bản đồ ngày một vững mạnh, phát triển bền vững và chủ động trong hội nhập quốc tế. Phương Thanh

“Hạt giống đỏ” nơi trường Đảng mang tên Bác

TĐKT - Gần 2 thập kỷ gắn bó với công tác giảng dạy và nghiên cứu tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, PGS. TS. Đặng Quang Định luôn khẳng định bản lĩnh và phong cách người cán bộ trường Đảng, không ngừng lao động và sáng tạo, lan tỏa tri thức, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ của nước ta trong giai đoạn mới. Lựa chọn gắn bó với triết học 20 năm trước, đặt chân vào giảng đường Đại học Khoa học Xã hội nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), chàng sinh viên Đặng Quang Định còn không ít bỡ ngỡ bởi được tiếp cận với khá nhiều môn học mới lạ, trong đó có bộ môn triết học. Đó là một môn khoa học rất khó nhưng lại tạo được sức hút mạnh mẽ đối với chàng sinh viên trẻ người Nam Định. PGS, TS. Đặng Quang Định luôn miệt mài với các công trình nghiên cứu triết học Anh bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu triết học. Ban đầu là những bài viết, những công trình nghiên cứu cá nhân để tham gia các tọa đàm, hội thảo khoa học cấp khoa, cấp trường, sau đó tập trung nghiên cứu đến những tác phẩm lớn của những triết gia nổi tiếng. Dù anh chưa thể hiểu hết tư tưởng triết học gửi gắm qua các tác phẩm kinh điển nhưng dưới sự hướng dẫn, truyền cảm hứng của thầy cô giáo, sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, triết học đã làm thay đổi hướng nhận thức, cũng như giúp anh hiểu rõ bản chất sự vật, hiện tượng xung quanh trong cuộc sống. Do vậy, anh càng đam mê và mong muốn được chuyên tâm nghiên cứu về bộ môn này. Sau khi tốt nghiêp đại học, năm 2000, Đặng Quang Định được tuyển về làm giảng viên tại Khoa Triết học (nay là Viện Triết học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Anh nhận thức sâu sắc rằng, được làm việc tại ngôi trường Đảng Trung ương là niềm vinh dự nhưng cũng đòi hỏi sự phấn đấu, nỗ lực rất lớn của người cán bộ, nhất là một cán bộ trẻ. Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo vừa hồng, vừa chuyên, phụng sự cho Tổ quốc đã thôi thúc anh không ngừng học tập, rèn luyện, tham gia vào các lớp đào tạo để trau dồi bản lĩnh, kiến thức, năng lực công tác, đạo đức của người cán bộ trường Đảng. Liên tục 11 năm đầu trong môi trường của Học viện, anh cố gắng học thêm bằng Đại học Chính trị, Đại học Ngoại ngữ và tham gia nhiều lớp bồi dưỡng khác nhau như lớp nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, phương pháp giảng dạy tích cực, bồi dưỡng kỹ năng, quản lý nhà nước... Với sự nỗ lực phấn đấu của mình, năm 2011, anh bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Sau 3 năm, anh Định vinh dự trở thành Phó Giáo sư trẻ nhất ngành triết học tại Học viện (năm 2014 ). Góp phần lan tỏa tri thức Nhận thức rõ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghiên cứu về khoa học chính trị, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đồng thời góp phần vào phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nên PGS, TS Đặng Quang Định luôn ý thức rất rõ vai trò và tầm ảnh hưởng của những người làm thầy, làm cô làm nhiệm vụ truyền bá tri thức. Vì vậy, suốt những năm qua, PGS. TS Đặng Quang Định luôn có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự làm việc nghiêm túc trong mỗi giờ giảng, bài giảng của mình. Với suy nghĩ, nghiên cứu khoa học là con đường tới đích nhanh nhất, anh dành nhiều thời gian thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học Nhà nước, cấp bộ, cấp Học viện. PGS, TS. Đặng Quang Định được bổ nhiệm chức danh Phó Viện trưởng Viện Triết học Đến nay, anh có hàng trăm bài viết được đăng trên các tạp chí; chủ biên, đồng chủ biên nhiều cuốn sách và các giáo trình có ý nghĩa, phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy bộ môn Triết học tại Học viện và hệ thống các trường chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước. Anh đã hướng dẫn thành công 5 thạc sĩ, 3 tiến sĩ và 2 nghiên cứu sinh. Anh bảo: Học viên trường Đảng là những cán bộ ở các bộ, ban, ngành, các địa phương cơ sở, có thâm niên, có trình độ học vấn sâu sắc, có nhiều trải nghiệm thực tế nên công tác giảng dạy đòi hỏi yêu cầu rất cao. Ngoài những kiến thức cơ bản, nền tảng, người dạy phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra; phải dùng lý luận để phân tích những bài học kinh nghiệm thực tế ở mỗi địa phương. Do đó, bên cạnh việc nghiên cứu tại Học viện, PGS, TS Đặng Quang Định còn chủ động đi đến nhiều địa phương để tìm hiểu, thâm nhập thực tế; lắng nghe, cập nhật từng thay đổi, chuyển động trong cuộc sống hàng ngày. Năm 2015, anh đã đề nghị Học viện cho đi thực tế tại các tỉnh miền Tây Nam bộ suốt một năm để học hỏi và gắn lý luận với thực tiễn cuộc sống – chất liệu quan trọng để những bài giảng có sức thuyết phục và lôi cuốn các học viên. Hàng năm, biết bao thế hệ học viên ra trường, được đón nhận những tâm huyết và tri thức từ người thầy ấy, để trở thành những cán bộ tốt của nhân dân. Với người giảng viên trường Đảng Đặng Quang Định, đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất, là động lực để anh tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, kiên định với sự nghiệp truyền bá tri thức, lan tỏa hệ tư tưởng triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tô thắm truyền thống trường Đảng mang tên Bác Hồ Gần 20 năm công tác, lý do khiến PGS. TS Đặng Quang Định gắn bó với Học viện và tâm huyết với công việc còn bởi anh luôn mong muốn đóng góp sức mình vào việc phát huy truyền thống vẻ vang của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Anh cho rằng, truyền thống vẻ vang và nhiệm vụ cao cả của ngôi trường 70 năm tuổi này đã cho anh niềm tin, nhiệt huyết để gặt hái những “trái ngọt” hôm nay. Nhận xét về PGS. TS Đặng Quang Định, GS,TS Trần Văn Phòng, Viện trưởng Viện Triết học cho rằng: “Dù còn trẻ nhưng đồng chí Đặng Quang Định đã có những nỗ lực không ngừng, là một giảng viên cao cấp, một  nhà quản lý có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn tốt. Với vai trò là Phó Bí thư Chi bộ, Phó Viện trưởng Viện Triết học, anh luôn thực hiện tốt vai trò của mình, gắn kết sức mạnh của từng đảng viên, góp phần tạo nên một chi bộ vững mạnh. Nhiều năm liền, với sự góp sức của đồng chí Định, Viện Triết học luôn đứng đầu trong các phong trào thi đua, được lãnh đạo Học viện đánh giá cao. Có thể nói, anh là một trong những “hạt giống đỏ” của nhà trường”. Chia sẻ về những kế hoạch và dự định trong thời gian tới, PGS. TS Đặng Quang Định cho biết: Bên cạnh công việc quản lý và giảng dạy, anh sẽ tiếp tục tìm tòi những đề tài mới, viết sách nghiên cứu phục vụ cho công tác học tập của học viên; tiếp tục trau dồi cho bản thân những kiến thức, kinh nghiệm từ thực tiễn để bổ sung vào nguồn tri thức của mình, phục vụ tốt hơn cho công việc, xứng đáng với sự tin tưởng của lãnh đạo, sự tin yêu của đồng nghiệp. Mai Thảo

Trang