Xây dựng nông thôn mới

Quảng Nam: Xây dựng nông thôn mới từ những cách làm hay

TĐKT - Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1620/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 về tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào đã được lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban  nhân dân tỉnh Quảng Nam quan tâm chỉ đạo quyết liệt từ tỉnh đến cơ sở. Từ cuối năm 2011, Ủy ban nhân dân tỉnh chính thức phát động phong trào thi đua “Quảng Nam chung sức xây dựng NTM”, xây dựng và ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện đi vào chiều sâu. Khu dân cư NTM kiểu mẫu xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam Hưởng ứng phong trào, các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực vận động các thành viên, hội viên tham gia thực hiện. Mặt trận Tổ quốc tỉnh chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng NTM. Ban Dân vận Tỉnh ủy đã triển khai nhiều mô hình phong trào “Dân vận khéo”. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã chỉ đạo triển khai nhiều mô hình, góp công sức, kinh phí thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “5 không, 3 sạch” trong xây dựng NTM như: Xây dựng “Công trình đường giao thông nông thôn”, “Đoạn đường phụ nữ tự quản về vệ sinh môi trường”, “Những bông hoa đời thường”, phong trào “Túi rác tiết kiệm”, “Phụ nữ chung sức xây dựng NTM ”... Tỉnh đoàn Quảng Nam với phong trào “Thanh niên Quảng Nam chung tay xây dựng NTM ”. Hội Nông dân tỉnh, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh tỉnh đã phát động các cuộc vận động, tổ chức tập huấn, tuyên truyền cho các hội viên và người dân; tổ chức ký các chương trình phối hợp, giao ước thi đua giữa các tổ chức đoàn, hội và với các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới. Các huyện, thành phố và các xã trong tỉnh đã cụ thể hóa, phát động các phong trào thi đua gắn với điều kiện thực tế địa phương. Công tác tuyên truyền, vận động được đẩy mạnh với nhiều nội dung và hình thức phong phú, được các cấp, các ngành, các địa phương, các đơn vị quân đội, công an tích cực hưởng ứng, tham gia. Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ cấp thôn và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh. Trước hết phải kể đến trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ xã, thị trấn, huyện được phát huy theo tinh thần “Đảng viên đi trước, gương mẫu để quần chúng noi theo”: Tham gia đóng góp ngày công lao động trong xây dựng các công trình giao thông nông thôn, nhà văn hóa…, gương mẫu thực hiện nếp sống văn hóa khu dân cư, xây dựng gia đình văn hóa, gia đình hiếu học… Trong các buổi, đợt, hội nghị tuyên truyền về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các cấp ủy Đảng thường xuyên lồng ghép nội dung thực hiện phong trào xây dựng NTM. Quy hoạch sắp xếp dân cư gắn với xây dựng NTM xã Lăng, huyện Tây Giang Qua thực hiện phong trào, trên bàn tỉnh Quảng Nam đã xuất hiện một số cách làm hay, sáng tạo, phù hợp với địa phương như: Phong trào “phát huy nội lực, hiến đất, góp công xây dựng đường giao thông nông thôn theo tiêu chí NTM”, phong trào “xóm làng huy động nhân dân cải tạo, chỉnh trang nhà ở, cải tạo ao, vườn, cổng, ngõ, tường rào xanh - sạch - đẹp; phong trào “Sáng - Xanh đường làng”; phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng Khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu và vườn mẫu; phong trào “Nhà sạch - Vườn đẹp - Môi trường trong lành - Ngõ xóm văn minh’’; mô hình “Sáng - Xanh - Sạch - Đẹp”, “Tiếng kẻng an ninh”... Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Nam cũng cụ thể hóa Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh” thành phong trào “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” đi vào chiều sâu; đã lựa chọn 2/5 tiêu chí “Không” và 2/3 tiêu chí “Sạch” để chỉ đạo thống nhất chung trên toàn tỉnh (gồm: Không đói nghèo, Không bạo lực gia đình; Sạch từ nhà ra ngõ, Sạch từ ngõ ra đường) và các tiêu chí còn lại giao Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp huyện lựa chọn phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương. 100% cơ sở Hội đã đăng ký với cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện ít nhất một hoạt động thiết thực góp phần xây dựng NTM, đô thị văn minh (mô hình: Chi hội phụ nữ 5 không, 3 sạch kiểu mẫu xây dựng NTM; làng quê không rác thải; nhà sạch, vườn đẹp; đường hoa thay cỏ dại; trồng bồn hoa, cây cảnh tại các nhà văn hóa thôn; hỗ trợ phụ nữ xây dựng các công trình vệ sinh...) được cấp ủy, chính quyền địa phương đánh giá cao; toàn tỉnh có 293.444/378.631 hộ gia đình đạt 8 tiêu chí (đạt tỷ lệ 77,5%). Riêng giai đoạn 2016 - 2019, toàn tỉnh có hơn 150 mô hình “Dân vận khéo”, 1.565 mô thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, 744 mô hình phát triển kinh tế, 493 mô hình bảo vệ môi trường nông thôn và hàng trăm mô hình trên các lĩnh vực đời sống xã hội.... có hiệu quả và được nhân rộng. Từ phong trào thi đua chung sức xây dựng NTM, đã xuất hiện nhiều gương điển hình tiên tiến tích cực đóng góp công sức, tiền của, đất đai, tài sản như: Hộ gia đình ông Trần Minh Thu, xã Trà Bui, huyện Bắc Trà My đã có 3 lần hiến hơn 4000 m2 đất để xây dựng trường học. Từ quan niệm “Việc làng, đất vàng cũng hiến”, ông Hồ Văn Vàng, người dân tộc Ca Dong tại thôn 2, xã Trà Vân, huyện Nam Trà My tự nguyện hiến hơn 6.000 m2 đất làm đường và xây nhà tái định cư cho dân làng, góp phần giúp bà con ổn định cuộc sống. Ông Lê Tất Dũng, xã Đại An, huyện Đại Lộc đã bỏ ra hơn 300 triệu đồng và công sức xây dựng cây cầu phao cho người dân đi lại… Với nhiều cách làm hay, mô hình sáng tạo, phong trào thi đua Cả nước chung sức xây dựng NTM tại Quảng Nam đã đạt được những kết quả nổi bật. Đến nay, bộ mặt nông thôn Quảng Nam đã có nhiều khởi sắc và chuyển biến theo chiều hướng tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng nâng lên; hình thành và nhân rộng nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; kết cấu hạ tầng thiết yếu nông thôn từng bước được hoàn thiện; lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và an toàn thực phẩm có chuyển biến tích cực; hệ thống chính trị được củng cố; quốc phòng và an ninh trật tự được giữ vững. Kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu trong Chương trình NTM đảm bảo đạt theo Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI đề ra. Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Quảng Nam đã có 85 xã được công nhận đạt chuẩn NTM (đạt tỷ lệ 41,67% tổng số xã), không còn xã dưới 5 tiêu chí. Huyện Phú Ninh và thị xã Điện Bàn được công nhận đạt chuẩn NTM năm 2015; bình quân chung số tiêu chí đạt chuẩn của toàn tỉnh là 14,27 tiêu chí/xã (tăng 11,66 tiêu chí/xã so với năm 2010); có 58 thôn được công nhận đạt chuẩn khu dân cư NTM kiểu mẫu. Thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn đạt 31,58 triệu đồng/năm (tăng 21,4 triệu đồng/người so với năm 2010), tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7,57% (giảm 24,2% so với năm 2010). Phát huy những kết quả đã đạt được, tỉnh Quảng Nam xác định xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2030 với phương châm: “Xây dựng NTM là quá trình thường xuyên, liên tục, có điểm khởi đầu, nhưng không có điểm kết thúc”; từ xã NTM, lên xã NTM nâng cao, rồi xã NTM kiểu mẫu... xây dựng khu, thôn, xóm, hộ NTM kiểu mẫu. Đó là cách làm, là bước đi để hướng tới đạt xã NTM kiểu mẫu, huyện NTM kiểu mẫu, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân nông thôn. Nguyệt Hà  

Vĩnh Lộc phát triển kinh tế - xã hội bền vững từ xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Những ngày tháng Năm lịch sử, nắng như đổ lửa, nhưng thời tiết không giảm được khí thế và nhiệt huyết của chúng tôi về Vĩnh Lộc nơi miền đất có nhiều di tích lịch sử, có Thành nhà Hồ một di tích quốc gia nổi tiếng đã được thế giới ghi nhận, nơi có nhiều tiềm năng trong xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Làng nghề mây tre đan xuất khẩu xã Vĩnh Hòa (ảnh: Minh Thành) Vĩnh Lộc là huyện trung du miền núi của tỉnh, cách thành phố Thanh Hóa 45 km về phía Tây; tổng diện tích tự nhiên 15.772,03 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 11.262,5 ha; dân số 85.873 người, có 2 dân tộc chủ yếu là Kinh và Mường; toàn huyện có 15 xã và 1 thị trấn (trong đó có 6 xã miền núi). Năm 2010 Vĩnh Lộc triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới với mục tiêu xây dựng huyện có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Sau 10 năm triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, đến nay diện mạo nông thôn của huyện Vĩnh Lộc đã có sự thay đổi toàn diện, mạnh mẽ. Tháng 11 năm 2019, Vĩnh Lộc được Chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp, liên kết sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo an toàn thực phẩm ngày càng hiệu quả. Đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả cao. Đặc biệt, nhận thức của người nông dân đã từng bước chuyển sang tư duy sản xuất hàng hóa. Quy mô, chất lượng giáo dục - đào tạo giữ vững và ổn định. Thu nhập bình quân đầu người của huyện tăng 3,17 lần so với năm 2010. Giá trị xuất khẩu tăng từ 2,55 triệu USD năm 2010 lên 57 triệu USD năm 2018. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng từ 29,8 tỷ đồng năm 2010 lên 263,17 tỷ đồng năm 2018. Huy động vốn đầu tư tăng từ 365 tỷ đồng năm 2010 lên 1.135 tỷ đồng năm 2018. Tỷ lệ thôn đạt tiêu chuẩn văn hóa tăng từ 54,68% năm 2010 lên 100% năm 2019. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 24,43% năm 2010 xuống còn 4,12% năm 2019… Năm 2018, huyện Vĩnh Lộc được xếp thứ nhất trong Cụm thi đua số 2 của tỉnh (gồm 8 huyện), tăng 2 bậc so với năm 2010. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư đồng bộ và ngày càng hoàn thiện: Giao thông, thủy lợi đáp ứng yêu cầu đi lại thuận tiện và thuận lợi cho sản xuất; trường, trạm, nhà văn hóa các thôn được đầu tư xây dựng khang trang, chợ nông thôn được xây mới, nâng cấp, đáp ứng nhu cầu giao thương, buôn bán của người dân, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh; công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; đánh giá, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ được quan tâm; công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng được duy trì. Tình hình quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội luôn được duy trì ổn định. Có thể khẳng định nhờ có chủ trương xây dựng NTM của Đảng và Nhà nước, đến thời điểm này, tình hình nông thôn của Vĩnh Lộc ổn định, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều hành của chính quyền, sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị; không có đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh liên quan đến thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Mô hình sản xuất dược liệu sâm báo Theo bà Vũ Thị Hương, Chủ tịch UBND huyện cho biết:  Phát huy kết quả đạt được, Vĩnh Lộc phấn đấu đến hết năm 2020 có 3 xã hoàn thành bộ tiêu chí xã NTM nâng cao, 1 xã đạt chuẩn xã NTM kiểu mẫu. Từng bước xây dựng huyện Vĩnh Lộc đạt chuẩn huyện NTM kiểu mẫu gắn với phát triển du lịch. Huy động mọi nguồn lực tập trung phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân của huyện đạt 15% trở lên; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó: nông - lâm - thủy sản: 24,8%, công nghiệp - xây dựng: 40,7%; dịch vụ - thương mại: 34,5%. Từng bước nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Phấn đấu đến năm 2020 thu nhập bình quân đầu người đạt trên 46 triệu đồng/người/năm, cơ bản không còn hộ nghèo NTM. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội, tập trung xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng hóa, ưu tiên phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, nhất là nông nghiệp sạch, an toàn gắn với phát triển du lịch, thực hiện hiệu quả chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Khai thác, phát huy, sản phẩm phẩm văn hóa; đẩy mạnh bảo vệ môi trường, cảnh quan khu dân cư, đảm bảo an ninh trật tự trên các lĩnh vực, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống trong nhân dân. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 có 8 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 11 xã NTM kiểu mẫu. Thu nhập bình quân đầu người, ước đến năm 2025 đạt 80 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,5%. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 97 %. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch đạt trên 100%. Để đạt được mục tiêu chung huyện đề ra một số nhiệm vụ giải pháp thực hiện đó là: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực nông nghiệp tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu theo quy mô lớn, công nghệ cao, theo chuỗi giá trị theo nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 11/01/2019 của BCH Đảng bộ tỉnh; chỉ đạo thực hiện nhân rộng các mô hình đã có hiệu quả, để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho người dân. Tập trung xây dựng các mô hình phát triển nông nghiệp, ứng dụng cao gắn với phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, quan tâm thu hút, kêu gọi nhà đầu tư đề xuất với tỉnh về cơ chế chính sách hỗ trợ để phát huy tiềm năng, lợi thế của Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, du lịch sinh thái, lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, tạo môi trường thuận lợi để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Tập trung chỉ đạo công tác bảo vệ an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, trong đó chỉ đạo việc thực hiện nghiêm các tiêu chí về an toàn thực phẩm ở các xã, thị trấn; giải quyết tốt vấn đề xử lý rác thải, vệ sinh môi trường nông thôn, đảm bảo duy trì thường xuyên. Tiếp tục thu hút, đa dạng hóa các nguồn lực, trong đó, chú trọng khai thác sử dụng hiệu quả nguồn lực, thu hút, khai thác quỹ đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và nâng cao các tiêu chí. Do có định hướng tốt và nhiệm vụ giải pháp cụ thể nên 6 tháng đầu năm 2020 mặc dù khó khăn do đại dịch Covid-19 và thời tiết khắc nghiệt nhưng kinh tế xã hội của Vĩnh Lộc vẫn phát triển bền vững. Tốc độ tăng giá trị sản xuất (theo giá 2010) ước đạt 11,01% (KH năm 15,4%), giảm 3,03% so với cùng kỳ do kinh tế chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Trong đó: Ngành Nông, Lâm, Thủy sản tăng: 2,27% (CK tăng 4,36%); Công nghiệp - Xây dựng tăng 16,3% (CK tăng 20,51%); các ngành dịch vụ tăng 14,57% (CK tăng 18,85%). Các ngành, lĩnh vực đã dần phát triển ổn định trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 879,2 tỷ đồng, bằng 44,6% KH, tăng 15,9% so với cùng kỳ. Các chỉ tiêu về chợ an toàn thực phẩm tiếp tục được duy trì, các cửa hàng kinh doanh thực phẩm an toàn được chỉnh trang, cải tạo và sắp xếp lại hoạt động đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm. Chỉ đạo thực hiện tốt việc kiểm soát thị trường, chống buôn lậu hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại. Kiểm tra, xử lý 7 vụ, nộp ngân sách nhà nước 15,2 triệu đồng. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, không xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng. UBND huyện đã chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, chặt chẽ các giải pháp phòng chống dịch bệnh, các nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh được thực hiện phù hợp với diễn biến, tình hình của dịch bệnh. Thu ngân sách nhà nước tại địa bàn vượt so với chỉ tiêu UBND tỉnh giao. Chế độ chính sách được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đặc biệt là đảm bảo đời sống cho người dân trước tình hình dịch bệnh Covid-19; kiểm soát tốt dịch bệnh, không để dịch xảy ra trên địa bàn. Với những thành tích kết quả và kinh nghiệm đạt được trong 10 năm qua, trong thời gian tới Vĩnh Lộc kiên quyết khắc phục bằng được những tồn tại, hạn chế trong xây dựng NTM, quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Chương trình MTQG xây dựng NTM ở giai đoạn tiếp theo, đồng thời với đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội bền vững. Anh Minh

An Giang: Khởi sắc từ xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Sau 10 năm xây dựng nông thôn mới (NTM), nông thôn An Giang đã “khoác chiếc áo mới” với cơ sở hạ tầng được đầu tư khang trang, chất lượng, giáo dục, y tế hiện đại, mang lại sự hài lòng cho nhân dân. Xác định xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, khi triển khai thực hiện, An Giang đã chọn giải pháp tối ưu, phù hợp với điều kiện xuất phát điểm của địa phương. Cùng với cả nước, An Giang bắt tay vào xây dựng NTM từ năm 2010. Là tỉnh có xuất phát điểm thấp, nhưng với tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng của cả hệ thống chính trị, tỉnh đã thành công trong xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 và trở thành một trong hai tỉnh dẫn đầu (An Giang, Hậu Giang) phong trào xây dựng NTM khu vực đồng bằng sông Cửu Long với nhiều mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo. Những tuyến đường hoa ở An Giang Theo ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang: Để triển khai thực hiện có hiệu quả phong trào, An Giang đã chọn xã điểm, huyện điểm để chỉ đạo thực hiện, rồi rút kinh nghiệm và nhân rộng cho các địa phương khác. Cũng trong quá trình xây dựng NTM, tỉnh tập trung phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghệ cao, nhằm nâng cao thu nhập, tạo sự ổn định khu vực nông thôn. Một số mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị như “Cánh đồng lớn”, chuỗi giá trị, rau màu, thủy sản… mang lại nhiều hiệu quả tích cực, giá trị sản xuất nông nghiệp không ngừng nâng lên. Từ đó, tạo điều kiện nâng cao thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Thực hiện cánh đồng lớn giai đoạn 2010 - 2019, có khoảng 6 - 10% sản lượng lúa và các loại nông sản chủ lực khác của An Giang được các doanh nghiệp và các tổ chức đại diện của nông dân thực hiện liên kết tiêu thụ thông qua hợp đồng. Mỗi năm trung bình có khoảng 20 doanh nghiệp tham gia ký hợp đồng liên kết tiêu thụ nông sản với nông dân. Riêng năm 2019, tỉnh thực hiện hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa với diện tích 40.244 ha đạt khoảng 6% diện tích gieo trồng cả tỉnh. Bên cạnh đó, các chuỗi giá trị lúa gạo, rau màu và thủy sản cũng hình thành và phát triển cùng với các hình thức liên kết sản xuất, góp phần ổn định lĩnh vực nuôi và chế biến thủy sản, đưa mô hình “cánh đồng lớn” đi vào thực chất. Sản xuất trồng trọt cũng đã có sự chuyển dịch rõ nét, chuyển từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như xoài, các loại cây ăn trái khác. Diện tích gieo trồng lúa năm 2013 từ hơn 641.000 ha, đến năm 2019 giảm còn khoảng 620.000 ha. Trong giai đoạn 2010 - 2019, tổng nguồn vốn huy động thực hiện chương trình xây dựng NTM tại An Giang gần 14.800 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương là hơn 2.800 tỷ đồng, chiếm 18,99%. Với nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ, An Giang đã và đang triển khai thi công 677 danh mục công trình, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tính đến tháng 3/2020, An Giang đã có 3 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng NTM; trong đó có 1 huyện NTM (huyện Thoại Sơn), 2 thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM (TP Châu Đốc và TP Long Xuyên) được Thủ tướng Chính phủ công nhận. Hiện tỉnh có 61/119 xã đạt chuẩn NTM (chiếm 51,26%), tăng 48 xã so với giai đoạn (2011 – 2015) và hoàn thành sớm hơn 1 năm so với lộ trình; 6 xã đạt 15 - 18 tiêu chí; 48 xã đạt 10 - 14 tiêu chí, 4 xã đạt 9 tiêu chí; không còn xã dưới 9 tiêu chí. Nhờ các chính sách đột phá, đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn đạt gần 42 triệu đồng (tăng gấp 3 lần so với năm 2010). Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020, đến đầu năm 2020, An Giang còn 14.170 hộ nghèo (chiếm 2,63%); hộ cận nghèo có 29.414 hộ (chiếm 5,45%); hộ nghèo người dân tộc thiểu số là 3.318 hộ (chiếm 12,21%/tổng số hộ dân tộc thiểu số). Cuối năm 2020, An Giang phấn đấu có 14 xã đạt chuẩn xã NTM nâng cao. Giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh phấn đấu có thêm 28 xã đạt chuẩn NTM; có thêm 2 huyện (huyện Chợ Mới và Châu Thành) đạt chuẩn NTM; có ít nhất 3 xã/huyện phấn đấu đạt chuẩn xã NTM nâng cao; 75% các ấp trên địa bàn xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới đạt chuẩn Bộ tiêu chí “Ấp NTM”. Thu nhập bình quân khu vực nông thôn của các xã NTM đạt 65 triệu đồng/người/năm; mức giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân 0,5%/năm… Tuệ Minh

Xã Hương Trà (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh): Điển hình trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu

TĐKT - Hòa nhịp với xu thế đi lên của huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh và đất nước, xã Hương Trà đã bứt phá mạnh mẽ, trở thành một vùng quê phát triển toàn diện và đáng sống. Năm 2015, xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), năm 2018 được công nhận xã NTM nâng cao và hiện đang là địa phương điển hình trong xây dựng, hoàn thiện NTM kiểu mẫu. Xác định xây dựng NTM là không có điểm dừng, từ sau khi đạt chuẩn nông thôn mới đến nay, xã Hương Trà vẫn tiếp tục phấn đấu nâng cao hơn nữa các tiêu chí NTM và luôn là một điểm sáng, là điểm tham quan, học tập kinh nghiệm trong xây dựng NTM của cả nước, đặc biệt là xây dựng khu dân cư (KDC) NTM kiểu mẫu, vườn mẫu. Từ năm 2014 đến nay, xã đã đón tiếp trên 1.000 đoàn khách từ tỉnh bạn, huyện bạn về tham quan, học tập kinh nghiệm. Trong 5 năm, xã đã huy động được trên 11.597 triệu đồng để xây dựng NTM, trong đó nhân dân đóng góp trên 3.000 triệu đồng, chiếm 15,7%; tiếp tục củng cố KDC kiểu mẫu thôn Nam Trà và xây dựng thêm 6 KDC đạt 10/10 tiêu chí; vận động được 319 hộ gia đình xây công trình vệ sinh tự hoại, di dời 182 công trình chăn nuôi. UBND xã Hương Trà Song kết quả xây dựng NTM chỉ là một trong số những thành tựu đáng ghi nhận mà nhân dân và cán bộ xã Hương Trà đạt được. Đồng chí Phan Thế Hòa - Chủ tịch UBND xã cho biết: “Hiện nay, Hương Trà đã phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, trở thành một địa phương đáng sống. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt trên 15%, riêng năm 2019 đạt trên 15,6%. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 đạt 50,26 triệu đồng/người/năm, tăng 64,4% so với năm 2014. Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đạt chỉ tiêu huyện giao”. Cùng với sự phát triển về kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Năm 2019 vừa qua, xã có 827/917 hộ gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ  90,1%; 464/917 hộ gia đình thể thao, chiếm tỷ lệ 50,5%. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, duy trì giữ vững trường chuẩn Quốc gia. Chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng. Xã triển khai có hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh ATTP, thực hiện đầy đủ các Chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế được tăng cường. Từ 2014 đến nay, không có dịch, ngộ độc thực phẩm nào xảy ra trên địa bàn. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,2% tăng 15,2% so với năm 2014, cao hơn tỷ lệ huyện 9,6%; tỷ lệ người dân có hồ sơ quản lý sức khỏe điện tử đạt 92%. Chế độ, chính sách cho người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện hiệu quả, kịp thời. Nhờ đó, năm 2019, xã còn 2 hộ nghèo(chiếm 0,22%), thấp hơn mức bình quân chung của huyện (6,7%) và 16 hộ cận nghèo (chiếm 1,7%). Hương Trà hôm nay đã có nhiều đổi thay, hình ảnh xã miền núi còn nhiều khó khăn ngày nào đã lùi xa, nhường chỗ cho một trong những địa phương phát triển bậc nhất huyện Hương Khê. Với những thành tựu đạt được trong xây dựng và phát triển quê hương, nhân dân và cán bộ xã Hương Trà đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về thực hiện phong trào “Cả nước chung sức xây dựng NTM” giai đoạn 2011 - 2015; UBND tỉnh Hà Tĩnh tặng danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc, cùng nhiều Cờ thi đua và Bằng khen. Đặc biệt, xã hiện đang được Chủ tịch nước xét tặng Huân chương Lao động hạng Nhì cho những thành tích nổi bật 5 năm qua. Phần thưởng cao quý này sẽ là động lực quan trọng để mỗi người con Hương Trà tiếp tục phấn đấu đưa quê hương phát triển, hoàn thiện mục tiêu nông thôn mới kiểu mẫu và vững bước đi lên cùng đất nước. Minh Quân  

Xung kích, tích cực góp sức xây dựng nông thôn mới

TĐKT - Phát huy vai trò xung kích “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, trong những năm qua, các cấp bộ đoàn của tỉnh Ninh Bình đã có nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhằm tập hợp, đoàn kết, phát huy sức trẻ trong tham gia xây dựng nông thôn mới (NTM), góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Tuổi trẻ Ninh Bình tích cực tham gia phong trào xây dựng NTM Thực hiện phương châm “Cụ thể, hiệu quả, phù hợp”, Tỉnh đoàn Ninh Bình đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các cấp bộ Đoàn triển khai đồng bộ nhiều nội dung nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) trên các lĩnh vực công tác, lao động sản xuất, góp phần xây dựng NTM. Theo đó, các cấp bộ Đoàn đã thường xuyên tổ chức phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ tỉnh về xây dựng NTM đến ĐVTN. Đẩy mạnh tuyên truyền về NTM thông qua các buổi giao lưu văn hóa, văn nghệ, hoạt động tình nguyện và sinh hoạt chi đoàn. Tổ chức Đoàn các cấp cũng chủ động lựa chọn và thực hiện công trình, phần việc cụ thể, sát thực tế, tập trung vào những tiêu chí chưa đạt của địa phương. Đồng chí Đinh Thị Phượng, Bí thư Tỉnh đoàn Ninh Bình cho biết: Để triển khai phong trào xây dựng NTM có hiệu quả, mỗi cơ sở đoàn đều căn cứ vào tình hình, đặc điểm của địa phương, chủ động lựa chọn các tiêu chí phù hợp trong số 19 tiêu chí xây dựng NTM để chỉ đạo thực hiện. Trong đó, tập trung vào các phần việc: Tham gia đổ bê tông các tuyến đường liên thôn, nội đồng; vớt bèo, nạo vét, khơi thông dòng chảy, thi công các tuyến đường điện “Thắp sáng đường quê”; thực hiện các chương trình an sinh xã hội; hỗ trợ vay vốn phát triển kinh tế, chuyển giao khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất; xây dựng các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, phát triển mô hình thanh niên nông thôn làm kinh tế giỏi... Ngoài ra, tuổi trẻ Ninh Bình đã chủ động đã tham mưu với cấp ủy, chính quyền đảm nhận thiết kế, đóng góp ngày công xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn; huy động lực lượng ĐVTN phối hợp với các tổ chức đoàn thể ra quân vệ sinh môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm, thu gom, xử lý rác thải, triển khai mô hình làng, xã xanh - sạch - đẹp - an toàn. Riêng năm 2019, các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh đã huy động hàng chục nghìn ngày công để sửa chữa, xây dựng mới 45 nhà văn hóa thôn; cải tạo, sửa chữa, xây mới 145 điểm vui chơi thể thao tại nhà văn hóa thôn, xóm, phố với tổng trị giá hơn 2,5 tỷ đồng; nạo vét, đào đắp gần 3.000 m3 kênh mương, khơi thông được 11,5 km dòng chảy, sửa chữa và cứng hóa trên 18,5 km đường giao thông nông thôn; lắp đặt 15,5 km đường điện, trị giá gần 450 triệu đồng; vận động hơn 18.600 lượt ĐVTN tham gia vệ sinh môi trường và tu sửa hơn 60 km đường giao thông nông thôn trị giá hơn 150 triệu đồng; trồng hơn 38.000 cây xanh các loại, thu gom hơn 45 tấn rác thải..., góp phần tạo cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch đẹp. Bên cạnh đó, các cấp bộ Đoàn còn thường xuyên vận động ĐVTN tích cực hưởng ứng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; tham gia các hoạt động giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn nông thôn. Củng cố và phát triển các mô hình câu lạc bộ (CLB) Tuổi trẻ với pháp luật, CLB Thắp sáng niềm tin, CLB Tiền hôn nhân...; tổ chức có hiệu quả các hoạt động giữ gìn trật tự, an toàn giao thông; tiên phong, gương mẫu trong việc thực hiện nếp sống văn hóa trong cưới hỏi, việc tang và lễ hội góp phần hoàn thiện các tiêu chí văn hóa, an ninh, trật tự xã hội tại các địa phương. Đặc biệt, theo Bí thư Tỉnh đoàn Đinh Thị Phượng, để tạo điều kiện giúp ĐVTN phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập, góp phần thực hiện tiêu chí xây dựng NTM, các cấp bộ Đoàn đã chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của ĐVTN; đồng thời tích cực phối hợp với các ngành chức năng để tư vấn, hỗ trợ vốn vay, kỹ thuật cho thanh niên, người dân; từng bước hỗ trợ thanh niên xây dựng các mô hình điểm; thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác, CLB Thanh niên giúp nhau làm kinh tế, các mô hình liên kết phát triển kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp phù hợp với điều kiện của từng địa phương... Cụ thể, các cơ sở Đoàn đã tích cực khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn Quỹ Quốc gia về việc làm, vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội và vận động các nguồn xã hội hóa để hỗ trợ vay vốn cho thanh niên làm kinh tế, giải quyết việc làm. Nhờ vậy, đến nay, các cấp bộ Đoàn đã nhận ủy thác từ Ngân hàng Chính sách xã hội trên 276 tỷ đồng, giúp hàng trăm hộ thanh niên vay vốn. Năm 2019, Tỉnh đoàn đã thực hiện giải ngân 5 tỷ đồng cho thanh niên khởi nghiệp, thanh niên làm kinh tế từ nguồn vốn “Hỗ trợ vốn vay khởi nghiệp và phát triển sản xuất, kinh doanh cho thanh niên trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”. Qua đó, khuyến khích và khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên. Song song với đó, để góp phần tạo điều kiện cho ĐVTN tìm kiếm việc làm, các cấp bộ Đoàn đã vận động ĐVTN tham gia các sàn giao dịch việc làm do Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh tổ chức. Thông qua hoạt động này, nhiều thanh niên nông thôn đã có điều kiện lập thân, lập nghiệp, làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương. Ngoài ra, các cấp bộ Đoàn còn huy động ĐVTN tích cực tham gia thực hiện chính sách an sinh xã hội. Năm 2019, Tỉnh đoàn đã tổ chức khám bệnh, tư vấn và cấp thuốc miễn phí cho 3.200 đối tượng trị giá gần 800 triệu đồng; thăm hỏi và tặng 462 suất quà cho các đối tượng học sinh nghèo vượt khó, người già neo đơn, gia đình chính sách... tổng trị giá hơn 700 triệu đồng; duy trì phụng dưỡng 20 Mẹ Việt Nam Anh hùng; hỗ trợ 1.800 ngày công tình nguyện và kinh phí sửa chữa, xây dựng 87 ngôi nhà nhân ái, nhà khăn quàng đỏ cho gia đình có công với cách mạng, người già neo đơn và học sinh giỏi có hoàn cảnh khó khăn, tổng trị giá gần 1,3 tỷ đồng. Tin tưởng rằng với sự năng động, sáng tạo và quyết tâm cao của tuổi trẻ, vai trò, trách nhiệm của thanh niên Ninh Bình trong phong trào xây dựng NTM ngày càng được củng cố, nâng cao với nhiều kết quả nổi bật hơn nữa, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực trong những năm tiếp theo. Tùng Chi  

Những mô hình hay của thanh niên Hà Tĩnh

TĐKT - Hơn 10 năm qua, tuổi trẻ Hà Tĩnh đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng và sự đóng góp rất to lớn trong xây dựng nông thôn mới thông qua những mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả, góp phần vào sự thành công chung của cả hệ thống chính trị. Một trong những nội dung được cấp ủy các cấp đánh giá rất cao đó là việc thực hiện tốt chương trình “Hành trình thứ 2 của lốp xe” và “Vườn ươm thanh niên”. Từ việc tận dụng những vật liệu phế thải để tạo ra những vật hữu dụng, qua đó góp phần tuyên truyền về nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường cho đoàn viên thanh niên và bà con nhân dân, các bạn trẻ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã có sáng kiến “khoác áo mới” cho những chiếc lốp xe cũ. Con đường hoa thanh niên góp phần xây dựng các khu du lịch, bãi biển trở nên tươi đẹp hơn Những chiếc lốp xe tưởng chừng là thứ vứt đi, tuy nhiên với bàn tay khéo léo của các bạn đoàn viên, thanh niên Thạch Hà, chúng đã được trang trí bằng những họa tiết và màu sắc thật bắt mắt; sau đó, được gắn với các khung, giá đỡ phù hợp, trở thành các chậu trồng hoa hữu dụng. Đáng nói là, tất cả chi phí để mua các dụng cụ cần thiết và toàn bộ ngày công làm việc đều do các tình nguyện viên chung tay đóng góp. Các bạn đoàn viên, thanh niên Thạch Hà cho biết: Để làm được một tuyến đường hoa dài khoảng 500 m mất khoảng 2 tuần chuẩn bị và gần 1 tuần thực hiện. Ngoài việc xây dựng con đường hoa, các bạn còn tạo ra những tiểu khu vui chơi cho trẻ em tại các địa bàn dân cư, những trò chơi đơn giản nhưng thân thiện tạo sự tò mò và thích thú cho các em thiếu niên, nhi đồng tại các vùng quê nghèo. Với cách làm sáng tạo này, từ năm 2017 đến nay, các cấp bộ Đoàn Hà Tĩnh đã xây dựng thành công hàng trăm km đường hoa thanh niên, 260 tiểu khu vui chơi cho trẻ em. Riêng huyện Thạch Hà có 15 tuyến đường hoa thanh niên, 18 tiểu khu vui chơi cho trẻ em. Những công trình này đã thực sự tạo điểm nhấn tại các vùng quê, thôn xóm, khu dân cư nông thôn mới.   Bên cạnh chương trình “Hành trình thứ 2 của lốp xe”, đoàn viên thanh niên tỉnh Hà Tĩnh còn xây dựng các vườn ươm thanh niên. Những vùng đất trống, vùng đất hoang, nhà hoang được các bạn đoàn viên, thanh niên đề xuất chính quyền cho phép sử dụng để xây dựng các vườn ươm cây. Với phương châm xây dựng vườn ươm “0 đồng”, các bạn trẻ đã góp sức, góp vật liệu để xây dựng nên các vườn ươm mượt màu xanh và rất hiệu quả. Những sản phẩm đó được cung cấp cho bà con nhân dân để tạo nên những hàng rào xanh thân thiện với môi trường. Việc xây dựng vườn ươm thanh niên một phần tạo nguồn cung cây xanh cho bà con nhân dân, một phần tiết kiệm và đóng góp một nguồn kinh phí rất lớn. Những vườn ươm cây giống của thanh niên Hà Tĩnh Cụ thể, vào đúng mùa, 1 cây bầu chỗi ngọc ngoài thị trường giá thời điểm thấp nhất 1.500 đồng. Để xây dựng hàng rào xanh cho 1 khu dân cư tổng chiều dài các tuyến đường dài khoảng 4 km thì cần tới 56.000 bầu cây chuỗi ngọc, tương đương 84 triệu đồng. Tuy nhiên từ vườn ươm thanh niên, các bạn cung cấp với giá 500 đồng thì tổng chi phí chỉ cần 28 triệu đồng. Như vậy, việc các vườn ươm thanh niên cung cấp cây cho 1 khu dân cư đã giúp bà con tiết kiệm được 56 triệu đồng. Đó là một số tiền có giá trị không hề nhỏ. Tính đến nay, toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có 360 vườn ươm thanh niên xây dựng nông thôn mới với hơn 2,5 triệu bầu cây giống, cung cấp cho hàng trăm khu dân cư và khu dân cư kiểu mẫu trong toàn tỉnh. Số tiền tiết kiệm được đã lên tới hàng tỷ đồng. Đây thực sự là một một hình hay, hiệu quả vừa gây dựng được phong trào vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế rất cao... Chương trình “Hành trình thứ 2 của lốp xe” và mô hình “Vườn ươm thanh niên” của các bạn trẻ Hà Tĩnh đang thực hiện thực sự rất hiệu quả cả về mặt tuyên truyền, giáo dục lẫn hiệu quả kinh tế, cần được nhân rộng trên địa bàn toàn quốc, tạo ra một phong trào lan tỏa trong đoàn viên, thanh niên, đặc biệt các địa bàn dân cư. Thục Anh  

Hiệu quả từ mô hình Bể thu gom vỏ thuốc bảo vệ thực vật, túi ni lông

TĐKT - Từ 20/2/2018, đến nay, thực hiện mô hình Bể thu gom vỏ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), túi ni lông, Đoàn thanh niên xã Trung An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đã xây dựng được tổng cộng 17 bể thu gom vỏ thuốc BVTV và túi ni lông bằng bê tông, có kích thước 80 cm x 50 cm, chiều cao 1 m được đặt trên các cánh đồng trong địa bàn xã. Thông qua chương trình, ý thức bảo vệ môi trường cũng như việc tiêu hủy bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng của người dân ngày càng cao và có trách nhiệm hơn. Trung An vốn là một xã thuần nông với nguồn thu chủ yếu từ trồng lúa và trồng các loại cây rau màu. Việc sử dụng thuốc BVTV phục vụ trồng trọt và canh tác ngày càng gia tăng với tần suất cao, kèm theo đó là tình trạng vứt vỏ thuốc BVTV, túi ni lông bừa bãi. Một số hộ dân còn có thói quen vứt rác xuống các hệ thống sông ngòi, bờ ruộng và ra các vị trí không đúng theo quy định, dẫn đến rác trôi nổi, gây ô nhiêm môi trường, làm mất vẻ đẹp cảnh quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, ảnh hưởng đến an toàn vệ sinh thực phẩm, làm cho tình hình dịch bệnh diến biến phức tạp, ảnh hưởng đến phong trào xây dựng nông thôn mới của xã nói riêng và toàn huyện nói chung. Đoàn viên, thanh niên xã Trung An thu gom vỏ thuốc bảo vệ thực vật, túi ni lông. (Ảnh: Gia Hưng) Trước thực trạng đó, Ban chấp hành Đoàn xã đã tuyên truyền, vận động đoàn viên, thanh niên và toàn thể nhân dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, kêu gọi và vận động ủng hộ kinh phí để xây dựng bể thu gom vỏ thuốc BVTV và túi ni lông. Dự án xây dựng Bể thu gom vỏ thuốc BVTV - túi ni lông đã huy động cả hệ thống tổ chức chính trị cùng chung tay vào cuộc. BCH Đoàn xã đứng ra kêu gọi các tổ chức, cá nhân, các mạnh thường quân cùng đóng góp nguồn lực xây dựng các bể thu gom vỏ thuốc BVTV và túi ni lông đặt trên các cánh đồng trong địa bàn xã. Đặc biệt, BCH Đoàn xã còn phát động phong trào kế hoạch nhỏ trong toàn xã nhằm tạo thêm nguồn kinh phí. Theo đó, mỗi đoàn viên, thanh niên tích cực vận động, tuyên truyền tới toàn thể nhân dân tự thu gom vỏ lon, giấy vụn tại gia đình. Ngày 24 hàng tháng, BCH Đoàn xã đi đến từng hộ gia đình để thu gom và vận chuyển đến nơi tập kết chung, phân loại và bán để xây dựng quỹ hoạt động chung, trước hết lấy nguồn kinh phí đó xây dựng các bể thu gom vỏ thuốc BVTV, túi ni lông, sau là tổ chức các hoạt động tại thôn và xã. Việc làm này đã được nhân dân và đoàn viên, thanh niên tham gia rất tích cực, qua đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới xanh, sạch, đẹp. Sau một thời gian triển khai, dự án Bể thu gom vỏ thuốc BVTV, túi ni lông sau sử dụng trên địa bàn xã đã nhận được sự ủng hộ, tham gia tích cực của người dân địa phương, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ môi trường, tạo thói quen tốt trong canh tác, giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước, đất do vỏ chai lọ, bao thuốc trong canh tác nông nghiệp để lại. Đến nay, cứ vào ngày thứ 6 hàng tuần, Đoàn xã cùng với các ban ngành và nhân dân tiến hành tổ chức thu gom vào ngày tổng vệ sinh môi trường trên các cánh đồng và cùng với đội thu gom rác vận chuyển về bãi rác tập trung xử lý theo quy định.  Đa số các hộ dân tham gia mô hình điều nhận định đây là mô hình thiết thực, hiệu quả về bảo đảm vệ sinh môi trường ở nông thôn, bảo vệ sức khỏe nhân dân cần được duy trì và nhân rộng tại địa phương trong thời gian tới. Mô hình đã tạo ra nhiều dấu ấn trong quá trình xây dựng nông thôn mới của xã nói riêng và của huyện nói chung, góp phần hưởng ứng phong trào “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới” của cả nước. Thời gian tới, BCH Đoàn xã tiếp tục nhân rộng mô hình tới tất cả các cánh đồng trên toàn xã và chia sẻ kinh nghiệm để nhân rộng tới các xã khác trong huyện. Thục Anh  

Câu lạc bộ từ thiện cà phê Suối Mơ (Vĩnh Long): Cùng cộng đồng lan tỏa tính nhân văn, xây dựng nông thôn mới

TĐKT – Được thành lập từ năm 2013, đến nay, Câu lạc bộ từ thiện cà phê Suối Mơ (tỉnh Vĩnh Long) đã phối hợp với các cấp bộ đoàn thực hiện nhiều hoạt động an sinh xã hội, chú trọng vào chăm lo đời sống các em thiếu nhi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, có ý chí phấn đấu. Đồng thời, vận động được nhiều nguồn lực xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, góp phần xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Nâng bước những trẻ em nghèo Chia sẻ về những ngày đầu thành lập, anh Nguyễn Thanh Tuấn, Chủ nhiệm CLB từ thiện cà phê Suối Mơ cho biết: Ban đầu tôi mở quán cà phê Suối Mơ để kinh doanh. Qua mua bán, tiếp xúc, tình cờ được gặp gỡ, trò chuyện với một số giáo viên dạy tiểu học, được biết có rất nhiều em học sinh nghèo, mồ côi, bị cha mẹ bỏ rơi, thiếu sự quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần. Tôi đã nảy ra ý tưởng góp nhặt bằng hình thức bán cà phê, trích mỗi ly nước từ 250 – 500 đồng để gây quỹ tiếp sức đến trường. Dần dần bạn bè, mọi người biết được và đồng hành. Từ đó lan tỏa và hình thành CLB từ thiện cà phê Suối Mơ vào tháng 7/2013. CLB từ thiện cà phê Suối Mơ tặng gạo hỗ trợ học sinh nghèo “Khi mới thành lập, CLB chủ yếu phối hợp đoàn cơ sở và nhà trường tiến hành tìm hiểu những em học sinh nghèo, mồ côi để tiếp sức đến trường cho các em. Rồi sau đó, nhờ lan tỏa từ báo, đài, mạng xã hội, mọi người biết đến và chung tay san sẻ. Hiện tại CLB từ thiện cà phê Suối Mơ có 17 thành viên ở trong và ngoài nước, đã tiếp cận và tiếp nhận nguồn hỗ trợ từ kiều bào ở 12 quốc gia trên thế giới.” - Chủ nhiệm CLB chia sẻ. Với sự chung tay của nhiều tổ chức, cá nhân, trong thời gian qua, CLB từ thiện cà phê Suối Mơ đã cùng các cấp bộ đoàn tiếp cận, giúp đỡ cho trên 5000 lượt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; những trường hợp đặc biệt thì phía câu lạc bộ nhận đỡ đầu phối hợp đoàn cơ sở về công tác quản lý và cùng nhà trường giáo dục cho các em thay đổi về cách nhìn xã hội, không còn mặc cảm, tự ti… Qua hơn 5 năm, CLB đã nhận đỡ đầu, chăm lo cho 32 em có hoàn cảnh đặc biệt. Đến nay, cuộc sống các em ổn định hơn, học lực hàng năm đều đạt loại khá trở lên, có nhiều em học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh. Khoác áo mới cho vùng nông thôn Vĩnh Long Bên cạnh thực hiện công tác chăm sóc giáo dục cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn, CLB từ thiện cà phê Suối Mơ còn kết nối với các đội từ thiện xây cầu đường rồi cùng các cấp bộ đoàn và chính quyền địa phương cùng thực hiện nhiều công trình ý nghĩa: Xây nhà nhân ái, xóa nhà tạm bợ, xây cầu và đường giao thông nông thôn. CLB từ thiện cà phê Suối Mơ bàn giao hà Nhân ái cho gia đình học sinh nghèo Lê Thị Hồng Nhiệm Năm 2016, khảo sát tuyến đường đến trường tiểu học Long An B ở xã Long An, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long dài 500 m, nhưng đầy bùn đất, lầy lội. Hàng ngày có hơn 500 lượt học sinh đến trường, đi qua con đường này, rất khổ cực. CLB từ thiện cà phê Suối Mơ đã đứng ra vận động vật tư, kết hợp Tỉnh đoàn Vĩnh Long thực hiện thi công bê tông hóa con đường. Được hỗ trợ 100 khối bê tông, sự chung sức của hơn 300 đoàn viên, thanh niên từ tỉnh đến cơ sở, tuyến đường bê tông cốt thép dài 500 m, rộng 2 m, dày 8 cm đã nhanh chóng được hoàn thiện và bàn giao cho địa phương và người dân chỉ trong vòng 1 ngày. Từ công trình đó, CLB từ thiện cà phê Suối Mơ tiếp tục kết nối, huy động được hàng chục ngàn ngày công lao động từ lực lượng đoàn viên thanh niên các cấp cũng như bà con nhân dân địa phương, tham gia thực hiện hàng trăm công trình lớn nhỏ khác nhau ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long như: Xây nhà Nhân Ái, cầu giao thông nông thôn, đường bê tông, trạm nước công cộng, sửa chữa trường học... Hơn 6 năm qua, CLB từ thiện cà phê Suối Mơ đã kết nối các thành viên đóng góp trong và ngoài nước thực hiện 348 công trình với tổng giá trị phúc lợi là: 30 tỷ đồng. Trong đó, bao gồm: 64 cầu giao thông nông thôn; 5 km đường bê tông; 1 km đường rải đá; 43 trạm nước công cộng; 125 giếng nước; 100 ngôi nhà Nhân ái; sửa chữa, nâng cấp 3 trường học; 1 phòng máy tính phục vụ 350 em học sinh; 584 xô bồn chứa nước phục vụ hạn mặn; 1 km đường thắp sáng đường quê; nhận đỡ đầu 32 đứa con nuôi; 253 xe đạp cùng em đến trường; 9.245 phần quà cho 9.245 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho 6 hộ nghèo. Cây cầu Nhân ái - cầu sư cô Minh Duyên tại ấp Phú Yên, xã Tân Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long Chia sẻ về hoạt động tâm đắc nhất của CLB, anh Nguyễn Thanh Tuấn cho biết, đó là thực hiện các công trình công cộng như cầu, đường, trạm nước… vì mỗi khi thực hiện công trình đều phát huy được vai trò xung kích tình nguyện của tuổi trẻ trong thực hiện xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là tiêu chí số 2 và số 9 về giao thông và nhà ở. Từ 2 tiêu chí đó, đã giúp địa phương hoàn thành thêm nhiều tiêu chí khác trong xây dựng nông thôn mới. Điển hình là trường hợp: Hàng chục năm qua, trên tuyến Quốc Lộ 1A, đoạn thuộc ấp Phú Thành, xã Tân Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long có bến phà đi qua tuyến sông Chà Và cặp theo Quốc lộ 1A, bà con gặp nhiều khó khăn về đi lại, do phà nhỏ và xuống cấp. Hàng ngày, có trên 1000 lượt phương tiện xe máy và người dân qua lại. Cuộc sống người dân bên kia bờ đa số là sống bằng nghề nông, gặp khó khăn vì hàng hóa vận chuyển khó, chi phí cao, bị thương lái ép giá. Năm 2017, CLB đến khảo sát thấy xót xa cho bà con vì “qua sông phải lụy đò”, bến phà hoạt động đến 18 giờ thì nghỉ, nếu có những việc gấp như chuyển bệnh hay việc đột xuất thì tìm năn nỉ chủ bến phà đưa qua sông… Con sông quá lớn, gần 100 m, lòng sông nước chảy xiết. Vì địa phương chưa có kinh phí nên chưa thể làm cầu. Tuy nhiên, đoàn thanh niên và chính quyền địa phương cho biết nếu làm cầu này thì mỗi ngày có thể huy động từ 30 đến 50 người phụ làm. Nắm bắt được thực tế đó, CLB đã liên hệ với đơn vị thiết kế và thi công để đặt vấn đề xây cầu Phú Thành. Sau đó, với sự chung sức, chung lòng, người góp công, người góp của, đặc biệt là sự đóng góp hơn 1200 ngày công lao động của đoàn viên, thanh niên và người dân (100 người làm), công trình cầu Phú Thành bê tông cốt thép dài 81 m, rộng 3,3 m, tải trọng 2,5 tấn đã hoàn thành sau 2 tháng thực hiện.   Cầu được thông xe, đời sống bà con thay đổi, không còn phải lụy đò, kinh tế cũng phát triển theo. Sau 1 năm khi CLB quay lại thì nhà cửa khang trang, người dân cho biết, hàng hóa xe tải đến nhà mua không bị ép giá, vật tư, hàng hóa vận chuyển thuận lợi… 2 bên cầu là tuyến đường nhựa nối các ấp được các bạn đoàn viên, thanh niên, người dân trồng hoa rất đẹp; người dân còn góp tiền mua thùng rác đặt bên đường... Khi bộ mặt đời sống nhân dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống, cảnh quan môi trường sáng xanh, sạch, đẹp.  Xã Tân Phú vinh dự được chọn làm mô hình điểm xây dựng nông thôn mới. CLB từ thiện cà phê Suối Mơ là một trong những điển hình có sức ảnh hưởng rộng rãi, đóng góp quan trọng trong việc phát triển, lan tỏa tính nhân văn, ý thức của tuổi trẻ trong cộng đồng, thiết thực góp phần xây dựng nông thôn mới. Thục Anh    

Hiệu quả của mô hình “Thu gom vỏ chai, bao bì bảo vệ thực vật” ở Thạnh Mỹ Tây

TĐKT - Thực hiện Tiêu chí số 17 về môi trường trong phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM), Hội Nông dân xã Thạnh Mỹ Tây (huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) đã xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả mô hình “Thu gom vỏ chai, bao bì bảo vệ thực vật (BVTV)”. Thu gom vỏ thuốc BVTV góp phần làm sạch đồng ruộng, bảo vệ môi trường sinh thái Là một xã thuần nông, người dân chủ yếu làm nông nghiệp với diện tích sản xuất khá lớn, hơn 8.900 ha làm lúa và 3 vụ/năm. Đề phòng trừ dịch hại, nâng cao sản xuất và giá trị kinh tế, việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất là một tất yếu. Ông Đặng Vũ Linh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Thạnh Mỹ Tây cho biết: Hiện nay, sâu bệnh phá hại lúa ngày càng nhiều nên nhu cầu sử dụng thuốc BVTV cũng tăng theo. Tuy nhiên, nông dân vẫn còn thói quen sau khi sử dụng thuốc BVTV xong thì vỏ thuốc, chai nhựa bỏ bừa bãi ngay tại các bờ ruộng hoặc bỏ xuống ao, hồ, sông, rạch. Việc làm này để lại những hệ lụy xấu, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của chính người sử dụng và cộng đồng. Trong đó, đất và nguồn nước là những yếu tố bị ảnh hưởng trực tiếp. Cũng theo ông Linh, nguyên nhân của vấn đề này một phần do ý thức của người nông dân trong việc bảo vệ môi trường còn hạn chế, thiếu các điểm tập trung thu gom rác thải BVTV ở các địa phương dẫn đến việc vứt rác một cách tràn lan. Ông Nguyễn Văn Hoàng, hội viên nông dân xã Thạnh Mỹ Tây cho biết: “Mỗi năm canh tác 3 vụ lúa nên lượng bao bì, vỏ chai thuốc BVTV thải ra rất nhiều. Tuy nhiên, nếu thu gom về nhà thì không bán được, chôn xuống đất thì cũng còn ở đó, do rác này khó phân hủy, còn đốt thì cháy rất lâu và mùi hôi rất khó chịu”. Để khắc phục tình trạng đó, từ năm 2018, Hội Nông dân xã đã xây dựng và triển khai thực hiện mô hình “Thu gom vỏ chai, bao bì bảo vệ thực vật”. Trong quá trình triển khai mô hình này, Hội đã hợp cùng chi hội nông dân các ấp, kỹ thuật viên nông nghiệp tích cực tuyên truyền, vận động, phân tích ý nghĩa của mô hình để người nông dân hiểu và tự nguyện tham gia. Các thùng chứa được đặt ở những vị trí phù hợp, phân bố hợp lý, tạo thuận lợi cho bà con khi tiến hành pha chế, không ảnh hưởng môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, Hội cũng thường xuyên kiểm tra, phối hợp với nông dân tiêu hủy vỏ chai, bao bì thuốc BVTV, không để tồn đọng quá nhiều. Từ khi có điểm tập kết vỏ thuốc, bao bì thuốc BVTV, được chính quyền tuyên truyền nên ý thức người dân ngày càng nâng lên; tất cả vỏ bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng xong được gom lại. Từ việc thu gom bao bì thuốc BVTV mà ý thức phun thuốc theo quy trình cũng được nâng lên. “Sau gần 2 năm thực hiện, mô hình đã mang lại hiệu quả thiết thực. Điều dễ nhận thấy nhất là người nông dân đã dần hình thành thói quen thu gom các vỏ chai, bao bì thuốc BVTV sau sử dụng bỏ vào các thùng, giảm đáng kể tình trạng vứt xuống ruộng, xuống kênh mương, gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước, đất, ảnh hưởng sức khỏe.”- ông Linh chia sẻ. Ngoài mô hình, Hội còn phối hợp với các chuyên ngành tập huấn, hướng dẫn nông dân áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mạnh dạn trồng những giống cây có năng suất cao, hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng thời điểm, đúng liều lượng và đúng cách), từ đó đưa nông sản tăng cả về số lượng và chất lượng, nâng cao giá trị sản xuất, thu nhập, từng bước nâng cao đời sống nông dân. Có thể thấy, mô hình “Thu gom vỏ chai, bao bì BVTV” ở Thạnh Mỹ Tây đã phát huy hiệu quả, tạo sự chuyển biến về nhận thức bảo vệ môi trường trong nông dân. Đây là mô hình tiêu biểu cần nhân rộng ra nhiều địa phương để góp phần đưa nền nông nghiệp phát triển hướng hiện đại, bền vững, đồng thời gắn với bảo vệ môi trường. Tùng Chi  

Chè xanh bản Ven: “Tấm vé” thoát nghèo cho bà con dân tộc Cao Lan

TĐKT - Không chỉ là một nét đẹp văn hóa truyền thống của người dân tộc Cao Lan, nhiều năm trở lại đây, chè xanh đã trở thành cây trồng chủ lực để bà con bản Ven, xã Xuân Lương, huyện Yên Thế, Bắc Giang phát triển kinh tế. Chè xanh bản Ven là cây trồng chủ lực để đồng bào Cao Lan phát triển kinh tế Nghề trồng chè xanh ở bản Ven đã được đồng bào người Cao Lan duy trì hàng trăm năm nay, nhưng nó mới thực sự được chú ý khoảng những năm 1980 trở lại đây. Khác với nhiều nơi, chè bản Ven lá to, búp xanh hơn. Nước pha xong có màu xanh, vị đậm và hương thơm dịu nhẹ như hội tụ tinh túy của đất trời. Để búp chè mềm mại, xoăn chặt, chín đều, không bị gãy, bà con sao, vò cẩn thận để cánh chè cứng chắc. Bí quyết làm chè của người Cao Lan ở bản Ven là khi chè đã nguội thì rải xuống nền đất đã được làm sạch chừng 1 giờ để lấy hương “âm”, đóng bảo quản trong thùng xốp một tuần rồi mới đưa ra đóng gói sản phẩm. Hầu hết các hộ trong bản Ven đều trồng chè. Hộ nhiều trồng từ 1 - 2 mẫu, hộ ít cũng vài sào. Mỗi năm sản lượng bình quân từ 6 - 8 tấn/ha, thu lãi khoảng 10 - 15 triệu đồng/tháng/hộ. Niềm vui đến với đồng bào dân tộc nơi đây khi Hợp tác xã Thân Trường ra đời, đã liên kết sản xuất chè xanh theo tiêu chuẩn Vietgap đồng thời xây dựng thành công nhãn hiệu sản phẩm “Chè xanh bản Ven”, được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận vào cuối năm 2014. HTX có 16 hộ thành viên, trong đó có 70% là người dân tộc thiểu số. Hiện nay, trên địa bàn HTX có 30 ha trồng chè, trong đó, có 15 ha diện tích sản xuất chè VietGAP. Vừa liên kết sản xuất, chế biến chè xanh, HTX còn mở rộng phát triển du lịch trải nghiệm tại khu vực vùng nguyên liệu chè xanh bản Ven, xã Xuân Lương. Cây chè đang mang lại cho HTX tổng doanh thu 7,2 tỷ đồng/năm, lợi nhuận sau thuế đạt 100 triệu đồng/năm, đồng thời giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nông thôn với thu nhập ổn định từ 5.000.000 đồng/tháng. Mô hình trồng chè sạch thu hút nhiều đoàn về tham quan, học tập Theo ông Ngô Văn Điệp, Giám đốc HTX Thân Trường, để có được sản phẩm chè sạch, an toàn, chiếm được cảm tình của người tiêu dùng, HTX tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến. Căn cứ vào số hộ tự nguyện tham gia, HTX lựa chọn những diện tích đất đạt tiêu chuẩn trồng chè; nhắc nhở các hộ ghi nhật ký theo dõi quá trình sinh trưởng của cây, hướng dẫn sử dụng phân bón, chế phẩm sinh học đúng khuyến cáo. Khi thu hái, có cán bộ chuyên môn hướng dẫn trực tiếp. Các hộ tham gia liên kết phải ký cam kết thực hiện tốt các nguyên tắc từ khâu chăm sóc, bón phân, sử dụng phun thuốc các loại và thu hái theo tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng và sự phát triển của cây chè. HTX thu mua chè của bà con với giá cao hơn thị trường khoảng 5 đến 10%, đồng thời phân lô, số mã hiệu cho các hộ làm cơ sở để đánh giá chất lượng sản phẩm chè.  “Nhờ chè mà hết nghèo” – cụm từ ấy thường được người Cao Lan ở bản Ven nói mỗi khi có dịp ngồi hàn huyên, chuyện trò. Là hộ gia đình có kinh nghiệm trồng chè 40 năm nay, ông Hoàng Văn Hà (bản Ven, xã Xuân Lương) cho biết: Trước khi tham gia mô hình liên kết với HTX Xuân Trường, bình quân thu nhập từ trồng chè của gia đình chỉ đạt 4 - 6 triệu đồng/tháng, sản lượng đạt 1 - 1,5 tạ chè khô/tháng. Từ khi tham gia vào mô hình liên kết HTX, thu nhập và sản lượng chè tăng lên rất nhiều, hiện tại thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Sản lượng tăng gấp 3 lần so với trước khi chưa tham gia. Khác với nhiều nơi, chè bản Ven lá to, búp xanh hơn “Cây chè đã giúp nâng cao đời sống kinh tế của gia đình, tạo được việc làm ổn định cho mọi người, chúng tôi không phải đi làm xa quê nữa. Cũng nhờ đó, chúng tôi đã xây được nhà mới, mua được các trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất và cho sinh hoạt gia đình, nuôi được các con ăn học đầy đủ…” – ông Hoàng Văn Hà hồ hởi chia sẻ. Nhằm mở rộng quy mô sản xuất HTX Thân Trường đã xây dựng trụ sở, nhà xưởng với tổng diện là 800 m2, đủ điều kiện để sản xuất và chế biến sản phẩm chè với công suất khoảng 1 tấn chè búp tươi/ngày. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, HTX đã tiến hành đa dạng các mẫu mã sản phẩm. Ngoài sản phẩm truyền thống có nước xanh, vị đậm, hương thơm tự nhiên, HTX cũng sản xuất ra sản phẩm khi hãm nước có màu xanh vàng như màu mật ong, vị đậm, thoảng hương cốm nhẹ. Sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng bởi được bao gói đẹp, đúng quy chuẩn. Trung thành với cam kết “3 không” (không sử dụng chất bảo quản; không sử dụng chất hóa học; nước chè luôn giữ màu xanh và không đổi màu), sản phẩm “Chè xanh bản Ven” đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng người tiêu dùng tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước: Bắc Giang, Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh... Bản Ven hôm nay hiện lên đẹp như một bức tranh với màu xanh ngắt của chè phủ kín các sườn đồi, trải dài khắp con đường dẫn vào bản. Màu xanh trù phú mang đến niềm tin và hy vọng, hứa hẹn cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào Cao Lan nơi đây. Phương Thanh  

Trang