Văn hóa - Thể thao

Lần đầu tiên dựng thành công tượng đồng Tôn sư Thiện Phước

TĐKT - Lần đầu tiên tại chùa Long Phước Thọ (Long Thành, Đồng Nai) và Không gian Văn hóa Nghệ thuật Phật Giáo Diệu Tướng Am tổ chức lễ cung nghinh và an vị tôn tượng Đức tôn sư Thiện Phước bằng chất liệu đồng tím. Đến dự có: Hòa thượng Thích Giác Quang - Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó trưởng ban trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai, Trưởng ban Quản trị tông phong Tịnh Độ Non Bồng, Trụ trì Tổ đình Quan Âm Tu Viện; Hòa Thượng  Thích Thiện Thảo, Phó ban Quản trị tông phong Tịnh Độ Non Bồng, Trưởng ban Tổ chức đại lễ kiêm Trụ trì chùa Long Phước Thọ cùng chư tôn đức tăng, ni tông phong Tịnh Độ Non Bồng. Lễ cung nghinh Được biết, Tổ sư Thiện Phước (hiệu Mẫu Trầu) (1924 - 1986) là người khai sáng hệ phái Liên Tông Tịnh độ Non Bồng. Sau khi đắc pháp với Sư ông Thượng Bửu Hạ Đức tại chùa Bửu Quang (Ngọa Long Sơn, An Giang), nơi cầu Pháp và thành tựu pháp của Tổ sư. Vào năm 1957, tại tổ đình Linh Sơn, Đức Tổ sư đã xiển dương chánh pháp, dung yếu chỉ của Tịnh độ làm tâm tông độ chúng, giáo hóa chúng sanh. Dưới sự khai sáng của Đức Tổ Sư, ánh đạo nhiệm mầu đã nhuần thấm trưởng dưỡng Liên tông, tỏ rạng một góc trời Đông, cùng 30 năm tiếng pháp lành diệu mầu uyển chuyển khắp trời Nam nước Việt. Bên cạnh việc hoằng pháp, các công tác từ thiện xã hội được Đức Tổ sư Thiện Phước đặc biệt chú trọng với mục đích cứu độ, giúp đỡ những người bơ vơ nghèo khó, phát nguyện lành với chúng sanh. Tấm lòng từ bi của Đức Tổ sư đã thể hiện rõ nét tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt Nam. Nhớ tới Tôn sư là nhớ những lời dạy sâu sắc từ tận tấm lòng đối với hàng môn đệ, ân giáo hóa của Tôn sư ngoài việc pháp hóa về giới luật, về phương cách tu hành, miên mật trong việc hành trì Phật hiệu, mà còn giúp Người Phật tử ngoài hiểu rõ bổn phận tu hành, còn tu tập để tạo nên thành tựu công đức viên mãn phụng sự cho Phật cho đời. Tượng tôn sư Thiện Phước Suốt cuộc đời Tôn Sư đã thể hiện đạo phong của bậc chân sư nghiêm từ và giản dị, với tâm từ bi và hạnh giải thoát thanh cao. Sau chặng đường dài vun vén cho Đạo pháp nở hoa, Đạo nghiệp của Tôn Sư để lại là một di sản đồ sộ được nhắc nhớ trên nhiều phương diện. Riêng nói đến hệ phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, Tôn sư đã khai mở và góp phần làm lớn mạnh sự tồn tại của một quần thể với hàng trăm tự viện và hàng triệu tín đồ ở khắp mọi nơi. Hòa thượng Thích Giác Quang - Ủy viên HĐTS GHPSVN, Phó Trưởng ban trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai, Trưởng ban Quản trị tông phong Tịnh Độ Non Bồng, Trụ trì Tổ đình Quan Âm Tu Viện cho biết: “Chúng tôi vô cùng hoan hỉ trước công đức lớn lao của Hòa thượng trụ trì chùa Long Phước Thọ, chư tôn đức tăng ni đã phát tâm tạo tượng Đức Tôn sư. Xưa nay chúng ta vẫn tôn thờ nhưng chỉ qua hình ảnh, tranh vẽ, tượng đá, tượng xi măng,.. nhưng chưa đạt chuẩn. Nhưng hôm nay, khi đứng trước tôn tượng đức tôn sư, tôi thấy rất hoan hỉ và tin rằng tôn tượng cũng phần nào đó thể hiện tinh thần giáo pháp sẽ bền vững mãi với thời gian.” Tượng tôn sư Thiện Phước Tượng tôn sư Thiện Phước là tác phẩm được phát hành có giới hạn bởi Không gian Văn hóa Nghệ thuật Phật giáo Diệu Tướng Am. Tác phẩm đã được đăng ký Bản quyền sở hữu tác giả và Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Sau buổi lễ, 9 tôn tượng cao 88cm và 29 tôn tượng cao 30cm sẽ được tôn trí tại Tổ đình Quan Âm Tu Viện, Tu viện Thắng Liên Hoa, Chùa An Hòa, Bửu Hoa Ni Viện, Chùa Pháp An… các chốn già lam, tổ đình, tự viện trong môn phong cũng như tại tư gia của môn đệ Phật tử. Bà Nguyễn Thị Hồng Tuyết (pháp danh An Vân) - Phó Tổng Giám đốc Diệu Tướng Am phát biểu tại buổi lễ. Tại buổi lễ, Hòa thượng Thích Thiện Thảo, Phó ban Quản trị tông phong Tịnh Độ Non Bồng, Trưởng ban Tổ chức đại lễ kiêm Trụ trì chùa Long Phước Thọ cho biết: “Đã hơn 36 năm kể từ ngày Đức Tôn Sư Thiện Phước viên tịch, một số chùa, tổ đường đã tạo tượng Tôn Sư để kính ngưỡng nhưng chưa tái hiện được thần thái của Ngài. Từ đó Hòa thượng đã phát tâm cùng Không gian Nghệ thuật Phật giáo Diệu Tướng Am khởi tạo sự án tạo pho tượng Tôn sư bằng chất liệu đồng bền bỉ để phụng thờ tại tổ đình và các tự viện trong môn phong”. Bà Nguyễn Thị Hồng Tuyết (pháp danh An Vân), Phó Tổng giám đốc Diệu Tướng Am cho biết dự án chế tác Tôn tượng Đức Tôn sư Thiện Phước khởi nguồn ý tưởng từ tháng 10/2019 và là dự án tâm huyết của công ty trong lĩnh vực tạo tượng cũng như mong muốn được góp phần tiếp nối giáo pháp mà chư Phật, chư tổ sư đã trao truyền. Để đạt được mức độ hoàn thiện đến từng chi tiết nhỏ, độ sâu, sự chuyển màu mềm mại, những nghệ nhân của Diệu Tướng Am đã sử dụng chất liệu đồng tím với hàm lượng đồng nguyên chất lên tới 92% (là chất liệu có đặc tính không bị oxy hóa bởi thời tiết và xỉn màu theo thời gian) và áp dụng công nghệ xử lý vật liệu đặc biệt trong quá trình tạo tượng. Thông qua những hình ảnh, tư liệu lịch sử cũng như rất nhiều những buổi gặp gỡ, trao đổi, với sự đầu tư nghiên cứu chuyên sâu và kỹ lưỡng… những bức tượng Đức Tổ sư Thiện Phước đã hoàn thiện với đầy đủ oai nghi, sự từ bi và nhiệm màu. Hồng Thiết

Triển lãm “Tháng Ba” – Khát khao sáng tạo của những người phụ nữ Tràng An

TĐKT – Với mong muốn truyền đi năng lượng tích cực đến cộng đồng xã hội sau những năm tháng dịch bệnh Covid -19 kéo dài, chiều 19/3, tại Nhà triển lãm Mỹ thuật, số 16, Ngô Quyền (Hà Nội), hai nữ họa sĩ ngoài 70 tuổi - Lê Thiếu Ngân và Trần Thị Trường đã chính thức cắt băng khai mạc, mở cửa triển lãm tranh “Tháng Ba”, giới thiệu đến công chúng hơn 70 tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. 70 tác phẩm nghệ thuật là 70 bức tranh, vẽ đa dạng chủ đề khác nhau, khi thì phong cảnh, tĩnh vật, khi thì vẽ chân dung những nhân vật nổi tiếng mà hai nữ họa sĩ từng gặp. Với bút pháp hiện thực, vẽ trực họa, hình khối màu sắc, biểu cảm chân thực, những bức tranh của hai nữ họa sĩ đã làm đắm say những người đến thưởng lãm. Triển lãm Tháng Ba thu hút đông đảo khách tham quan, thưởng lãm “Mỗi bức tranh được hoàn thiện, lồng khung, đặt tên gọi và treo trang trọng tại căn phòng triển lãm, cho thấy một quá trình lao động miệt mài, hăng say của những nữ nghệ sĩ ngoài thất thập. Đặc biệt, những gam màu tươi sáng, những đường nét tinh tế, dịu dàng trong từng bức tranh, khiến bất kỳ ai cũng có thể cảm nhận rất rõ về sự an vui và tình yêu cuộc sống tha thiết.” – nhà văn Phạm Thu Yến chia sẻ những cảm nhận của mình khi ngắm nhìn những bức tranh. Họa sĩ Lê Thiếu Ngân cho biết: Đây là những tác phẩm chín muồi bởi được cả hai chúng tôi thực hiện sau khi đã đi qua một chặng đường dài của cuộc đời. Nên các bức tranh đều có điểm chung là rất nhẹ nhàng, nhu hòa, chỉn chu và đậm chất hiện thực. Đa phần các bức tranh trong triển lãm này đều được chúng tôi âm thầm sáng tác, một mình trước tấm toan và cây bút suốt thời gian diễn ra dịch Covid-19. Nữ họa sĩ Trần Thị Trường đang giới thiệu với khách thưởng lãm những bức tranh của mình Còn nữ họa sĩ Trần Thị Trường thì cho rằng: “Tháng Ba” chính là cú lội ngược dòng của hai người đàn bà tri thức Thủ đô. Bởi dù có năng khiếu hội hoạ từ nhỏ nhưng thực tế cuộc sống đã đưa cả hai bà rẽ theo những ngành nghề khác nhau. Chỉ những năm tháng về hưu, sự đam mê ấy mới có cơ hội trỗi dậy và họa sĩ Hải Kiên – một người thầy tâm huyết, đã giúp họ biết cách để truyền đi những thông điệp tích cực trong cuộc sống. Một tác phẩm hết sức tinh tế, nhẹ nhàng của họa sĩ Lê Thiếu Ngân Họa sĩ Lê Thiếu Ngân là con gái của nhiếp ảnh gia nổi tiếng Lê Vượng, bà từng học khoa tiếng Nga, trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội. Chồng bà là nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao - Nguyễn Phú Bình, từng có các nhiệm kỳ Đại sứ ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong vai trò phu nhân Đại sứ, bà đã tham gia các hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam, các hoạt động ngoại giao và các hoạt động của Phu nhân Ngoại giao tại nước sở tại. Dạy tiếng Việt cho Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc; tổ chức Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản; tổ chức cuộc Gặp gỡ mùa thu (Vietnam Autumn Cutural Meeting) cho Hội Phụ nữ Châu Á - Thái Bình Dương tại Đại sứ quán. Còn tác giả Trần Thị Trường đã có một cuộc đời hoạt động nghệ thuật sôi nổi, với hàng loạt tác phẩm tiêu biểu trong lĩnh vực văn chương như Lời cuối cho em, Kẻ mắc chứng điên, Tình câm... Bà được coi là nhà văn tiêu biểu khi viết về thân phận phụ nữ, đi vào nội tâm nhân vật nữ, những góc buồn khổ, khó nói. Chân dung Phạm Trần Mỹ Phương do nữ họa sĩ Trần Thị Trường khắc họa một cách trân trọng được trưng bày tại triển lãm Tháng Ba Từng học Đại học Mỹ Thuật Công nghiệp khóa 1973 - 1978 nhưng không tốt nghiệp do hoàn cảnh gia đình, ở tuổi gần 70, nhà văn Trần Thị Trường mới quay trở lại với niềm đam mê hội họa. Năm 2019, bà gặp họa sĩ Hải Kiên và theo học từ đó tới nay. Chỉ sau 8 tháng, Trần Thị Trường đã có triển lãm lần I bày 48 bức tranh tại Ngô Quyền, một triển lãm để lại nhiều ấn tượng cho người thưởng thức và giới chuyên môn. Trong 3 năm cầm bút trở lại, Trần Thị Trường mỗi ngày một "chín" thêm trong nghề. Rất nhiều chân dung văn nghệ sĩ, nhà chính trị, ngoại giao, bác sĩ, luật sư… đã được Trần Thị Trường thể hiện thành công như: Nhà thơ Xuân Quỳnh, Đoàn Ngọc Thu, Trần Kim Hoa, ca sĩ Ngọc Tân, Cellist Ngô Hoàng Quân, nhạc trưởng Lê Phi Phi… Mai Thảo

Gốm Đất Việt đón nhận kỷ niệm chương “Tinh hoa Kỷ lục” trong chương trình Hội ngộ kỷ lục gia Việt Nam lần thứ 45

TĐKT- Chiều ngày 22/2, tai Khách sạn Rex, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh đã  diễn ra sự kiện Hội ngộ Kỷ lục gia Việt Nam lần thứ 45 - Hội ngộ cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân Kỷ lục lần thứ nhất – 2022 với chủ đề “Cộng đồng Kỷ lục - Khát vọng Việt Nam hùng cường” do Trung ương Hội Kỷ lục gia Việt Nam, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) tổ chức. Sự kiện có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Trung ương và địa phương, Lãnh đạo Trung ương Hội Kỷ lục gia Việt Nam, Lãnh đạo hơn 20 Trung ương Hội và Hiệp hội trong cả nước cùng cộng đồng 500 Kỷ lục gia Doanh nhân, Doanh nghiệp  hữu Kỷ lục và đông đảo các cơ quan thông tấn báo chí về tham dự. TS. AHLĐ Nguyễn Quang Mâu, thành viên Liên đoàn các Nhà sáng tạo Thế giới, chủ tịch HĐQT Công ty CP Gốm Đất Việt nhận kỷ niệm chương “Tinh hoa Kỷ lục” do Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao tặng. Cũng trong chương trình này Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt vinh dự được đón nhận kỷ niệm chương “Tinh hoa Kỷ lục” do Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao tặng, qua đó Gốm Đất Việt cùng với Tập đoàn Vingroup là 02 đơn vị duy nhất của Miền Bắc được nhận kỷ niệm chương “Tinh hoa Kỷ lục” trong dịp hội ngộ lần này. Gốm Đất Việt là thương hiệu gạch ngói đất sét nung số 1 Việt Nam được sáng lập và lãnh đạo bởi AHLĐ. TS. Nguyễn Quang Mâu, thành viên Liên đoàn các Nhà sáng tạo Thế giới, Chủ tịch HĐQT Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt và ông Trần Duy Hưng, cố vấn HĐQT, nguyên Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh. Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt đón nhận Kỷ lục Việt Nam. Với phương châm: “ Sự hài lòng của khách hàng là thành công của chúng tôi”, Gốm Đất Việt luôn không ngừng cải tiến, sáng tạo nhằm cho ra những sản phẩm mới, chất lượng, với tính năng ưu việt nhằm đáp ứng mọi thị hiếu của khách hàng, mang lại vẻ đẹp sang trọng, ấm áp cho mỗi công trình, với giá thành hợp lý nhất, trở thành sự lựa chọn hàng đầu của mọi khách hàng. Toàn cảnh Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt. Ngoài ra, cũng trong dịp Hội ngộ Kỷ lục lần này Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt cũng đón nhận thêm 05 Kỷ lục Việt Nam đó là: Đơn vị đạt nhiều giải nhất trong cuộc thi Sáng tạo Khoa học Công nghệ Việt Nam năm 2020 (2 giải nhất, 1 giải nhì). Đơn vị có tổng diện tích tranh bích họa đa chủ đề được  trang trí trong khuôn viên nhà máy lớn nhất Việt Nam ( 3.075,72m2). Doanh nghiệp sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng phương pháp nghiền khô siêu mịn có dây chuyền lò nung tuynel sản xuất gạch ngói cao cấp có tốc độ nung nhanh nhất Việt Nam (50 xe Goòng/24h/ lò nung). Đơn vị sản xuất loại ngói đất sét nung lớn nhất (500x 300mm) bằng công nghệ nghiền khô siêu mịn. Doanh nghiệp có trung tâm nghiên cứu, thí nghiệm trong lĩnh vực gạch ngói đất sét nung đồng bộ và có diện tích lớn nhất.  Hồng Thiết    

Bảo tồn nét đẹp văn hóa Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu

TĐKT - Ngày 16/2, tại đền Lưu Phái (xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì) diễn ra Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu với nghi lễ hầu đồng do Nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Nghĩa thực hiện, với sự hỗ trợ của Công ty cổ phần đầu tư Laicity. Chương trình có sự tham dự của đại diện UNESCO tại Việt Nam. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2016 không chỉ nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa của đạo Mẫu, mà giúp nhân dân hiểu sâu sắc hơn về các giá trị văn hóa thờ Mẫu trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc Trong không khí những ngày đầu năm mới 2022, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt với nghi lễ hầu đồng là hình thức diễn xướng tâm linh thường diễn ra ở các điện, đền, phủ. Trong đó, hầu đồng là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị thánh vào thân xác thanh đồng để cầu mong những nhu cầu của cuộc sống hiện thực như sức khỏe, tiền tài, hạnh phúc… Qua nghi lễ hầu đồng, chúng ta sẽ hiểu biết được trang phục, cách sinh hoạt của cha ông xưa, được chiêm ngưỡng sự hiện thân của các thần linh đã được “lịch sử hóa” với những chiến công, phong cách rất riêng của từng nhân vật. Đây là một bộ sưu tập lịch sử và văn hóa vô cùng phong phú và sinh động, một “bảo tàng sống” của văn hóa Việt Nam. Một trong những yếu tố sân khấu dễ thấy trong nghi lễ hầu đồng là sự xuất hiện những nhân vật mang điệu múa khác nhau với những tính cách khác nhau như: múa mồi, múa kiếm, múa chèo đò… Những nhân vật, những tính cách khác nhau ấy, múa và hát văn cũng có những làn điệu thích hợp. Điều đó cho thấy sự phong phú và đa dạng của nghệ thuật múa dân gian, của nghệ thuật hát văn trong văn hóa, tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Nghĩa - thủ nhang đền Lưu Phái - thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Là một trong những người thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu hơn 30 năm qua, nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Nghĩa - thủ nhang đền Lưu Phái cho biết, tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt là một hình thức thờ cúng người Mẹ hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng núi được hình thành trên nền tảng của tín ngưỡng thờ Nữ thần. Trong văn hóa truyền thống của Việt Nam thường có lễ Tết thượng nguyên đầu năm để cầu mong cho mọi người một năm mới có nhiều sức khỏe, đất nước Việt Nam bình an, thịnh vượng, thế giới được hòa bình. Bà Phạm Thị Thanh Hường, Trưởng Ban Văn hóa của Tổ chức UNESCO tại Việt Nam Chia sẻ về nét đẹp của di sản văn hóa này, bà Phạm Thị Thanh Hường, Trưởng Ban Văn hóa của Tổ chức UNESCO tại Việt Nam cho biết, với những giá trị văn hóa, tín ngưỡng tâm linh đặc sắc, hồ sơ “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt” đã đáp ứng 5 tiêu chí để đăng ký vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Vì thế, ngày 1/12/2016, tại phiên họp Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại Ethiopia, di sản “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt” được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. “Kể từ đó đến nay, di sản này đã khẳng định sức sống bền vững, có sức lan tỏa mạnh thông qua nỗ lực bảo tồn, phát huy giá trị của cộng đồng. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt được vinh danh trong danh sách các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại không chỉ tồn tại ở nghi thức chính hầu đồng mà đó là cả hệ thống thực hành tín ngưỡng bao gồm rất nhiều yếu tố văn hóa dân gian như trang phục, vũ đạo (múa thiêng), hát văn, lễ hội dân gian, các nghi thức trong việc thờ mẫu” – bà Hường chia sẻ. Hạn chế những biến tướng, thương mại hóa Theo thống kê của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, toàn thành phố có hơn 2.000 địa điểm, di tích thờ Mẫu, trong đó có 4 phủ, 210 đền, 892 điện, 33 miếu và số còn lại là điện tư nhân. Đáng nói, số lượng thuộc sở hữu tư nhân tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, nhất là khi Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong quá trình phát triển thời gian qua cho thấy, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt không tránh khỏi những bất cập khi một số thanh đồng, cung văn đang tận dụng tín ngưỡng để thực hiện mục đích tư lợi cá nhân. Điều này đang đặt ra vấn đề nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và những người tham gia thực hành di sản nhằm bảo tồn ý nghĩa, giá trị tốt đẹp của Tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, người muốn trở thành đồng thầy phải trải qua 12 năm tu dưỡng mới được "đẻ đồng", nhưng không ít người mới "thử đồng" được 3 năm, thậm chí 1 năm đã tự phong cho mình là đồng thầy. Cũng từ đó, nhiều đồng thầy coi việc Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt như một nghề, lợi dụng vào lòng tin của mọi người để thu lợi cá nhân. Nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Nghĩa cho rằng, thời gian qua Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt được thực hành rất hiệu quả khi di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại này nhận được sự quan tâm của các cấp, ngành, các chuyên gia văn hóa… Thế nhưng không thể phủ nhận bên cạnh đó vẫn còn một số hiện tượng biến tướng của Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu mà dư luận xã hội đã phản ánh, lên án, cần sớm loại bỏ để chung tay gìn giữ và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Về vấn đề này, bà Phạm Thị Thanh Hường cho rằng, được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là niềm vinh dự, tự hào, khẳng định giá trị, đóng góp của văn hóa Việt Nam đối với nền văn hóa chung của nhân loại. Cùng với niềm vinh dự đó là trách nhiệm phải bảo tồn, phải phát huy di sản tốt hơn. “Tất cả các bên liên quan cần thực hiện thật tốt chương trình hành động quốc gia, nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản, cần để Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu được thực hiện, trao truyền đúng với ý nghĩa bản sắc tốt đẹp vốn có, không bị làm sai lệch, biến tướng, làm tầm thường hóa, thương mại hóa" – bà Hường chia sẻ. Theo bà Phạm Thị Thanh Hường, điểm đặc biệt trong Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ là thực hành văn hóa duy nhất đến nay của người Việt mà trong đó có sự kết hợp của thần đạo, Phật giáo và thánh bản địa. “Trong thời gian qua chúng tôi ghi nhận sự nỗ lực rất lớn của cộng đồng cũng như các cơ quan chức năng của Việt Nam trong việc hạn chế những hành vi tiêu cực, thương mại hóa khi Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong đó, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cùng với sự tham gia tư vấn của các chuyên gia văn hóa cũng như các địa phương để phát huy các giá trị nhân văn cao đẹp của di sản này, ca ngợi hình tượng Mẫu như biểu tượng của lòng từ bi và khoan dung, tôn trọng và thúc đẩy đa dạng văn hóa và đối thoại văn hóa tộc người, tăng cường sợi dây tinh thần gắn kết cộng đồng, đồng thời vừa góp phần hạn chế những tiêu cực” – bà Hường nhấn mạnh. Nghệ sĩ hát chầu văn Nguyễn Xuân Chinh Là một nghệ sĩ hát chầu văn nhiều năm, anh Nguyễn Xuân Chinh chia sẻ: “Sau nhiều năm tham gia hát chầu văn phục vụ nghệ nhân dân gian Nguyễn Tiến Nghĩa hầu đồng tôi đã hiểu được rất nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống qua nghi lễ Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam. Là một nghệ sĩ trẻ, tôi luôn ý thức trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể của nhân loại này, đặc biệt là góp phần chung tay loại bỏ những hành vi phản cảm về văn hóa trong Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu này”. Bà Nguyễn Thị Kim Đức và ông Nguyễn Tài Tuệ đại diện Công ty CP Đầu tư Buta Technology đến tham dự chương trình Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã góp phần tăng cường vị trí, vai trò của di sản văn hóa đối với xã hội, làm giàu thêm bức tranh đa dạng văn hóa của Việt Nam và của nhân loại. Đồng thời, sự vinh danh này đã làm cho cộng đồng, những người thực hành di sản nhận thức sâu sắc thêm về di sản của mình để họ tự hào và tích cực hơn trong công tác tham gia bảo vệ và phát huy giá trị của di sản. Để phát huy giá trị văn hóa của di sản, bên cạnh việc xử lý nghiêm những biểu hiện lệch lạc, chưa hay và chưa đẹp, lợi dụng tín ngưỡng này để trục lợi thì cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho mọi người dân hiểu được giá trị tích cực của Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu và những hạn chế, để từ đó có ý thức đấu tranh, đẩy lùi hạn chế, phát huy cái tốt... Có như vậy, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu mới trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống của người Việt. Phùng Thị Ngọc Loan

Triển lãm “Gốm nghệ thuật” và lễ ra mắt sách “Tiếng đất gọi bàn tay”

Ngày 11/2, Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng tổ chức Triển lãm “Gốm nghệ thuật” và lễ ra mắt sách “Tiếng đất gọi bàn tay” của Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Tuyên (Đại đức Thích Chánh Tịnh). Quang cảnh lễ cắt băng khai mạc triển lãm. Ảnh: Đức Nghĩa/TTXVN phát Đây là một hoạt động thiết thực giàu ý nghĩa đối với nhân dân, du khách và đặc biệt là những người yêu thích nghệ thuật gốm sứ phù điêu đến với thành phố Cảng trong dịp đầu Xuân mới 2022.  Triển lãm “Gốm nghệ thuật” giới thiệu đến người xem 80 tác phẩm gốm khác nhau điêu khắc, nặn đắp hết sức tinh tế, toàn bộ đa dạng màu men khác nhau của gốm sứ hậu Lê, Mạc, sự quyền quý của hoa văn Lý, Trần. Những bộ chân đèn mang phong cách triều Lê, triều Mạc trang trí họa tiết hoa cúc, hoa sen tiêu biểu thời Lý, Trần; bộ “Cửu Long tranh châu”... đến những bức tượng các danh nhân như: Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Vua Lê Đại Hành, Đức vương Ngô Quyền, Vua Lý Thái Tổ và Quốc Tổ Hùng Vương… tất cả đều toát lên nồng đậm giá trị truyền thống của dân tộc.  Nét đặc sắc của những sản phẩm này nằm ở cách chế tác, khắc khuôn âm bản, nặn đắp tinh xảo, công phu, được làm bằng tay theo công thức truyền thống trở thành một phương pháp độc lập, một thương hiệu riêng của nghề gốm cổ truyền được định danh tại Hải Phòng. Mỗi tác phẩm là một kỳ công, một lời tâm tình của đất, của lửa, của nước, của những sẻ chia. Theo Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng Trần Thị Hoàng Mai, trong gần 30 năm nghiên cứu, tìm hiểu về họa tiết phù điêu cổ trong chùa chiền, các di tích công trình kiến trúc nghệ thuật cổ, Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Tuyên đã nhận thấy họa tiết phù điêu trên các chất liệu gỗ, đá, đồng, đất nung và gốm sứ đều không còn nguyên vẹn bởi sự bào mòn của thời gian. Nét tinh nghệ thủ công của cha ông bao đời đã khơi nguồn cảm hứng tạo thành khát vọng cho Nghệ nhân phục chế những họa tiết phù điêu đã bị mai một, mong bảo tồn, gìn giữ tinh hoa văn hóa Việt với nhiều loại hình khác nhau: Kiến trúc, điêu khắc, thư pháp, phục chế di tích, tái hiện không gian xưa, chế tác gốm sứ phù điêu, và đã gửi gắm công sức sáng tạo của mình tại những công trình văn hóa, lịch sử và kiến trúc Phật giáo ở Hải Phòng và nhiều tỉnh, thành phố.  Các đại biểu tham quan triển lãm. Ảnh: Đức Nghĩa/TTXVN phát Năm 2018, bằng niềm đam mê, kiến thức mỹ học và kỹ năng thủ công tinh nghệ, Nghệ nhân Phạm Văn Tuyên đã chế tác và ra mắt bộ “Bách bình” hoàn toàn bằng tay, được Tổ chức Kỷ lục Người Việt toàn cầu trao kỷ lục Người Việt Nam phục dựng và sáng tạo dòng gốm phù điêu nhiều loại nhất năm 2020 tại Thành phố Hồ Chí Minh.  Chính từ những đóng góp này, với tài trí, niềm đam mê và sử dụng công nghệ làm gốm hiện đại, năm 2020, Nghệ nhân Phạm Văn Tuyên (Đại đức Thích Chánh Tịnh) được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”. Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Tuyên bằng hành động cụ thể đã cùng cộng đồng góp phần thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; đồng thời bảo tồn, gìn giữ, phát huy các giá trị vô cùng quý báu sản phẩm làng nghề gốm cổ truyền của dân tộc. Các đại biểu tham quan triển lãm. Ảnh: Đức Nghĩa/TTXVN phát Nhà sử học Dương Trung Quốc đánh giá, Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Tuyên-một người thợ, một nghệ sỹ hay nói đúng hơn là một "hiện tượng", đó là sự xuất hiện của người thợ gốm nghiệp dư, nghĩa là không có gốc gác gắn bó với một làng nghề, vùng nghề, không kế thừa một truyền thống, một trường phái nào... nhân vật xuất hiện như một hiện tượng khác thường. "Triển lãm “Gốm nghệ thuật” không chỉ để giới thiệu những tác phẩm gốm phù điêu của Nghệ nhân ưu tú Phạm Văn Tuyên, mà còn ghi nhận sự cố gắng không ngừng, không mệt mỏi của tác giả. Là địa chỉ tin cậy cho các nghệ nhân thành phố, là điểm dừng chân lí thú của du khách khi đến thăm thành phố Hoa phượng đỏ thân yêu", bà Trần Thị Hoàng Mai nói. Theo TTXVN

“Bão ngầm”: Bộ phim tôn vinh những hy sinh thầm lặng của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam

TĐKT - Bộ phim "Bão ngầm" dài 75 tập, khởi quay ngày 16/6/2019 và hoàn thành sản xuất hậu kỳ tháng 12/2021 dự kiến sẽ phát sóng trên VTV1 vào tháng 2/2022. Buổi ra mắt phim vừa diễn ra chiều 14/1 tại Hà Nội.  “Bão ngầm” được chuyển thể từ tiểu thuyết trinh thám hình sự của TS. Đào Trung Hiếu – (Nhà văn, Nhà báo, Chuyên gia tội phạm học, Cục truyền thông CAND, Bộ Công an) với nội dung ngợi ca, tôn vinh những chiến công hào hùng cùng sự hy sinh thầm lặng của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bài trừ ma túy và tội phạm hình sự, bảo vệ bình yên cuộc sống. Tiến sĩ Đào Trung Hiếu chia sẻ tại buổi ra mắt phim "Bão ngầm" "Bão ngầm" được chỉ đạo nội dung bởi Thượng tướng, PGS. TS Nguyễn Văn Thành - Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an); chỉ đạo võ thuật cổ truyền: Võ sư Ngô Xuân Nhuần, Chủ tịch Liên chi hội Di sản văn hóa võ cổ truyền Sông Lam - Nghệ An; đạo diễn: Đinh Thái Thụy; cố vấn văn học: Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hoàng Thị Hạnh. Bộ phim quy tụ dàn diễn viên kỳ cựu: Đại tá CAND, NSND Nguyễn Hải; Đại tá CAND, NSND Trần Nhượng; NSƯT Nguyễn Trọng Hải; diễn viên - người mẫu Hà Việt Dũng; diễn viên Cao Thái Hà; Nguyễn Xuân Hiệp... cùng nhiều diễn viên khác ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Đặc biệt, có sự tham gia hùng hậu của lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố trong cả nước (gồm tỉnh Yên Bái, Hà Nội, Phú Thọ, Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Dương). Là câu chuyện về hành trình điều tra bóc gỡ đường dây, tổ chức tội phạm ma túy xuyên quốc gia, vạch trần mặt thật của tên trùm mafia ẩn dưới vỏ bọc chủ tịch một tập đoàn kinh tế lớn, bộ phim bám sát và cổ vũ chủ trương của Đảng và lãnh đạo ngành Công an trong đấu tranh bài trừ tiêu cực để làm trong sạch bộ máy, không có vùng cấm trong xử lý vi phạm. Xuyên suốt bộ phim là tư tưởng nhân văn, nhấn mạnh những gì là giả tạo và lạc hậu sẽ bị nghiền nát trong vòng quay luật đời, mọi tráo trở, lừa lọc và bội phản, sẽ bị quy luật đào thải làm văng ra khỏi quỹ đạo vận động của xã hội. Đồng thời, tôn vinh những giá trị chân - thiện - mỹ, những mầm thiện trồi lên từ thực địa cuộc xung đột chính - tà. Lồng ghép trong những trường đoạn phim xoay quanh câu chuyện phá án, là đời sống thường nhật của cán bộ, chiến sĩ công an, được miêu tả dung dị, mộc mạc, ở những góc khuất ít người biết tới. Qua đó, để người dân thêm tin yêu, ủng hộ những người lính trinh sát trên mặt trận thầm lặng. Bộ phim còn truyền tải, quảng bá vẻ đẹp đất nước, con người ở nhiều miền quê Việt Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch của các địa phương; tôn vinh vẻ đẹp và giá trị của các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, góp phần vào việc quảng bá, bảo tồn và phát huy những giá trị nhân bản của con người Việt Nam. Phương Thanh

Ra mắt cuốn sách “Doing Good Better – Làm việc thiện đúng cách”

TĐKT - Cuối tháng 11/2021, Spiderum - mạng xã hội chia sẻ kiến thức đã kết hợp với dịch giả Tăng Xuân Trường đã cho ra mắt cuốn sách “Doing Good Better - Làm việc thiện đúng cách” của tác giả William MacAskill. Đây là cuốn sách tập hợp những ý tưởng độc đáo được xây dựng dựa trên nền tảng kinh tế học và tâm lý học, giúp độc giả phát triển lối tư duy nhân đạo hiệu quả trong một thế giới mà lòng tốt cùng với niềm tin đang dễ dàng bị lợi dụng và xem nhẹ. Bìa cuốn sách “Doing Good Better - Làm việc thiện đúng cách” của tác giả William MacAskill Nhà nghiên cứu William MacAskill của Đại học Oxford đã đem đến vô số điều đặc biệt trong cuốn sách “Doing Good Better - Làm việc thiện đúng cách”. Từ những câu chuyện thực tế, cuốn sách mở ra một tư duy hoàn toàn mới về việc làm từ thiện được truyền tải đến độc giả. Cho tiền chưa chắc đã là một hành động nhân đạo tốt. Thậm chí, làm việc thiện sai cách còn khiến vấn đề tồi tệ hơn. Đồng thời, những lời kêu gọi về lối sống “Xanh”, chung tay bảo vệ môi trường cũng chưa chắc mang lại hiệu quả lớn như chúng ta đã tưởng tượng. Thực tế nhiều hành động sống xanh như “Tắt các thiết bị điện không sử dụng”; “Ngừng sử dụng túi nhựa”.… không tạo ra nhiều thay đổi trong việc giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. “Doing Good Better - Làm việc thiện đúng cách” chính là cẩm nang hướng dẫn độc giả tới một phong cách sống hiệu quả với nhiều tác động tích cực tới mỗi cá nhân và xã hội. Nội dung cuốn sách gồm 2 phần. Phần 1: “Năm câu hỏi của nhân đạo hiệu quả”: Bao nhiêu người được lợi, và được lợi bao nhiêu? Đây có phải là thứ hiệu quả nhất bạn có thể làm? Lĩnh vực này có bị bỏ quên không? Điều gì có thể xảy ra theo chiều ngược lại? Khả năng thành công như thế nào, và nếu thành công thì tốt như thế nào? Qua năm câu hỏi về chủ đề nhân đạo hiệu quả, tác giả William MacAskill muốn đưa ra câu trả lời cho câu hỏi lớn nhất: “Làm sao tôi có thể làm được điều tốt nhất?”. Đây chính là tư duy giúp độc giả tránh khỏi những sai lầm thường gặp khi nghĩ đến làm việc thiện. Phần 2: “Nhân đạo hiệu quả trong thực tế”, áp dụng năm câu hỏi của nhân đạo hiệu quả vào từng lĩnh vực cụ thể. Với từng trường hợp, cuốn sách lại cung cấp một hệ thống những luận điểm, ví dụ cụ thể và danh sách các câu hỏi kiểm tra để giúp độc giả chắc chắn mình về hành động thiện nguyện đã suy tính thấu đáo. “Doing Good Better - Làm việc thiện đúng cách” hiện đã xuất hiện tại các hiệu sách và các nhà phân phối trên toàn quốc. PT

Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

TĐKT - Sáng 24/11, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu chỉ đạo. Tạp chí Thi đua Khen thưởng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Ảnh:VGP Kính thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các vị đại biểu, Thưa toàn thể các đồng chí, Hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội - "nơi lắng hồn núi sông ngàn năm"; "nơi hội tụ, kết tinh và toả sáng nền văn hoá, văn minh của Dân tộc"; "Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người"; "Thành phố vì hoà bình"; "hào hoa và thanh lịch"; "văn hiến và anh hùng";... chúng ta long trọng tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hoá. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa về nhiều phương diện; tôi rất vui mừng và hào hứng được đến dự Hội nghị này. Sở dĩ tôi nói như vậy là vì 3 lý do: - Vị trí, vai trò quan trọng của văn hoá: Văn hoá là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hoá còn thì Dân tộc còn,... - 75 năm nay (từ ngày 24/11/1946), hôm nay mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hoá với quy mô lớn thế này. - Họp sau Đại hội Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận, Khối Nội chính; và sắp tới sẽ còn có Hội nghị về đối ngoại và về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần tôi vẫn nói: "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng" và "Dọc ngang thông suốt". Trước hết, tôi xin gửi đến các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể các đồng chí lời chào thân ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp. Thưa các đồng chí, Chúng ta đều đã biết, Văn hoá là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau về Văn hoá. Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hoá là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa nước,...). Nghĩa hẹp: thì văn hoá là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...). Văn hoá cũng bao gồm cả văn hoá vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, di sản văn hoá, những sản phẩm văn hoá: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn hoá chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp. Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hoá là nói đến những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hoá, một gia đình có văn hoá, một dân tộc có văn hoá; lối sống văn hoá, nếp sống văn hoá, cách ứng xử có văn hoá,...). Còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn hoá, phi văn hoá, phản văn hoá. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng. Việt Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của Dân tộc, làm nên hồn cốt của Dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hoá chung của nhân loại. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hoá trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hoá của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam", trong đó chỉ rõ "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hoá)", và chủ trương phát triển văn hoá theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hoá, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945. Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu "Văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá", "xây dựng đời sống mới", văn hoá Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", năm 1954. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước ta đã tập trung vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến công tác văn hoá, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ sĩ và những lực lượng làm công tác văn hoá phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hoá và áp dụng những nhận thức đó vào việc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đảng ta đã nhấn mạnh đến công tác phát triển nền văn nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện, bảo tồn bảo tàng, nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công việc đó. Đồng thời, Đảng ta cũng đã đặc biệt quan tâm đến công tác văn hoá quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết chế văn hoá ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hoá mới, cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống mới. Sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975 đã góp phần phát huy vai trò của văn hoá Việt Nam thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực lượng làm công tác văn hoá của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành Đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; "Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!" đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của Văn hoá Việt Nam!; "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!"; thậm chí "Còn cái lai quần cũng đánh!" (chị Út Tịch). Đồng thời: "Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa!". Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá rất cao về những đóng góp của ngành văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khẳng định: Nền văn hoá, văn nghệ nước ta xứng đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hoá văn nghệ chống đế quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay". Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chẳng những là Lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là Nhà văn hoá kiệt xuất, được thế giới phong tặng danh hiệu vẻ vang "Danh nhân văn hoá thế giới"! (cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và mới hôm qua có thêm: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương). Từ năm 1975 đến năm 1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục bị tàn phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hoá trên phạm vi cả nước. Đồng bào cả nước đã đồng cam, cộng khổ, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng để vượt qua những thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình hình phức tạp của quốc tế lúc đó gây ra. Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hoá, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn hoá những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII năm 1998 về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Tiếp đó là Nghị quyết số 33 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết này, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hoá. Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hoá phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh, văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng văn hoá là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp… Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hoá và hoàn thiện thị trường văn hoá. Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nhắc lại một cách vắn tắt như vậy để muốn khẳng định rằng: Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi"! Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của Dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hoá của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế; xây dựng văn hoá trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hoá công chức, văn hoá công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và phát triển văn hoá là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hoá. Như vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế. Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí, Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung. Nhân dịp này, tôi xin được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiệt liệt hoan nghênh, chúc mừng, biểu dương và cảm ơn những đóng góp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn thể cán bộ, đảng viên và đặc biệt là của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của các lực lượng tham gia trên mặt trận văn hoá trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản văn hoá"). Những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hoá của chúng ta. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hoá của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối văn hoá của Đảng còn thiếu đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực văn hoá còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá chưa cao. Chúng ta cần phân tích sâu sắc các nguyên nhân này để tìm cách khắc phục, nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc chấn hưng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời gian tới. Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí, Với tầm nhìn từ nay cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế; niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Mặt khác, những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hoá vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hoá. Sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hoá số,... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hoá. Đồng thời, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an sinh truyền thống, an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh, trước hết là đối phó, thích ứng và sống cùng đại dịch Covid-19, vừa bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Có thể nói, phát triển văn hoá là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hoá, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Văn kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất". Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây: Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước. Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá. Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá. Sáu là, xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh. Để chấn hưng và phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp sau: Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về Văn hoá và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hoá. Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế", chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hoá. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội". Đại hội XIII của Đảng vừa qua đã xác định: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần phải được triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp. Đối với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hoá. Trong quá trình đa dạng hoá các hoạt động văn hoá, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hoá cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Thứ hai là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hoá Việt Nam trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hoá, ở cả trung ương và địa phương. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Công tác lãnh đạo và quản lý văn hoá không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động và thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hoá. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hoá nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung. Bác Hồ đã từng căn dặn: "Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hoà mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, trang 647). Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hoá. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hoá nước nhà. Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hoá đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hoá, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam hiện nay. Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới. Hiện nay, cả nước ta có tới 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng quốc gia, trong đó có 1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288 di sản văn hoá phi vật thể quốc gia (riêng Hà Nội có 21 lễ hội); 27 di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là "di sản văn hoá thế giới" (riêng tỉnh Bắc Ninh đã có 2 di sản văn hoá thế giới là Dân ca quan họ và Ca trù)... Đó là một tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy. Nếu không là chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội nghĩa với Tổ tiên, Cha ông chúng ta. Bác Hồ trước lúc đi xa vẫn còn dặn lại rằng: "Muốn yêu Tổ quốc mình thì phải yêu những khúc hát Dân ca!" (Nhạc sĩ Trần Hoàn với bài hát rất xúc động "Lời Bác dặn trước lúc đi xa"; "Giữa Mạc Tư Khoa tôi nghe câu hò ví dặm"). Thứ tư là chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội ("Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"; "Thương người như thể thương thân"; "Lá lành đùm lá rách"; "Lá rách ít đùm lá rách nhiều"; "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ"; "Kính lão đắc thọ"; "Kính già, già để tuổi cho"; "Anh em như thể chân tay"; "Kính trên nhường dưới"; "Vợ ta đói rách ta thương, vợ người áo gấm xông hương mặc người"; "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông"; "Đói cho sạch, rách cho thơm"; "Thật thà là cha quỷ quái"; "Tôn sư trọng đạo"; "Lời chào cao hơn mâm cỗ"; "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng"; giữ lấy "nếp nhà", giữ lấy "Chân quê" (bài thơ của Nguyễn Bính năm 1936); giữ lấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt (bài thơ "Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu năm 1954)... Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ v.v… Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hoá, các cơ quan làm công tác văn hoá. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá XI, XII và đặc biệt là các Kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Thưa các vị đại biểu và các đồng chí, Hội nghị văn hoá toàn quốc của chúng ta hôm nay là một dịp quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là những người làm công tác văn hoá, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ của cả nước, quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về việc xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta cùng nhau nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn và toàn diện hơn về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong việc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới và truyền thống lịch sử vẻ vang ngàn năm văn hiến của Dân tộc. Tôi tha thiết mong rằng, sau Hội nghị này, công tác văn hoá của chúng ta sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Tôi tin rằng, với một Đất nước, một Dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; Nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với Nhân dân, với Đảng, với Tổ quốc và tương lai của Dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho Dân tộc, cho Giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, Đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một Dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Và chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể nói rằng Hội nghị của chúng ta hôm nay có ý nghĩa thiết thực và thành công tốt đẹp về thực chất. Xin chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các quý vị đại biểu, các đồng chí và toàn thể đồng bào ta sức khoẻ, hạnh phúc và thắng lợi. Tôi xin trân trọng cảm ơn!

114 vận động viên tranh tài tại Giải vô địch bóng bàn quốc gia Báo Nhân Dân lần thứ 39

TĐKT - Chiều 23/11, tại Hà Nội, Báo Nhân Dân phối hợp Tổng cục Thể dục - Thể thao, Liên đoàn Bóng bàn Việt Nam, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam họp báo thông tin về Giải vô địch bóng bàn quốc gia Báo Nhân Dân lần thứ 39 tranh cúp PetroVietnam - PVCFC năm 2021. Đây là giải đấu đỉnh cao quốc gia hằng năm, có uy tín và truyền thống 39 năm qua, được tổ chức theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1983 đến nay. Họp báo thông tin về giải đấu Giải đấu sẽ diễn ra từ ngày 28/11 - 4/12/2021 tại Nhà thi đấu thể thao tỉnh Quảng Nam, TP Tam Kỳ (Quảng Nam), thu hút sự tham gia của 114 vận động viên đến từ 14 đoàn bóng bàn của các tỉnh, thành phố, ngành, doanh nghiệp trên toàn quốc. Phát biểu tại họp báo, đồng chí Lê Quốc Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân khẳng định, Giải vô địch bóng bàn quốc gia Báo Nhân Dân là giải đấu cao nhất về chuyên môn trong hệ thống giải quốc gia, quy tụ những vận động viên xuất sắc nhất của làng bóng bàn Việt Nam hiện nay. Giải đấu sẽ góp phần động viên, thúc đẩy phong trào tập luyện thể thao nói chung, bóng bàn nói riêng của cả nước và tỉnh Quảng Nam. Qua đó, kiểm tra, đánh giá trình độ vận động viên, công tác huấn luyện, đào tạo các vận động viên ở các câu lạc bộ bóng bàn chuyên nghiệp, đồng thời tuyển chọn vận động viên cho đội tuyển quốc gia dự SEA GAMES 31 tổ chức tại Việt Nam và các giải đấu quốc tế trong năm 2022. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giải năm nay thiếu vắng các đoàn bóng bàn: Tây Ninh, Long An, Bình Dương, Tiền Giang nhưng vẫn có sự tham gia của các đoàn mạnh đến từ các trung tâm bóng bàn như: Hà Nội, Hà Nội T&T, Quân đội, TP Hồ Chí Minh, Công an, Hải Dương. Một nét mới đáng mừng là sự trở lại của đoàn bóng bàn Hưng Yên sau nhiều năm vắng bóng tại giải. Bên cạnh những cây vợt kỳ cựu, mùa giải 2021 tiếp tục có sự tham gia của nhiều cây vợt trẻ đầy tiềm năng, hứa hẹn những cuộc đấu hấp dẫn và kịch tính với khả năng gây bất ngờ, soán ngôi các cây vợt mạnh của mùa giải năm trước. Các vận động viên tham gia tranh tài ở 7 nội dung: Đồng đội nam - đồng đội nữ, đơn nam - đơn nữ, đôi nam - đôi nữ và đôi nam nữ.   Bên cạnh 7 bộ Huy chương, gồm 28 giải được trao theo quy định của Tổng cục Thể dục - Thể thao và Liên đoàn Bóng bàn Việt Nam, Báo Nhân Dân và đơn vị đồng hành chính là Công ty Cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau cũng trao tặng: 2 giải triển vọng dành cho 2 vận động viên trẻ nam, nữ xuất sắc nhất cùng hai tặng thưởng dành cho địa phương đăng cai tổ chức giải và địa phương tích cực xây dựng phong trào thi đấu bóng bàn. Tổng giá trị giải thưởng là 350 triệu đồng. Để động viên các nữ vận động viên trẻ tham gia giải, Ban Tổ chức sẽ tiếp tục tổ chức bầu chọn Hoa khôi Giải vô địch bóng bàn quốc gia Báo Nhân Dân lần thứ 39 - 2021. Giải đấu được truyền hình trực tiếp trên Truyền hình Nhân Dân của Báo Nhân Dân và Đài PTTH Quảng Nam. Thông tin, hình ảnh, clip, lịch thi đấu và diễn biến, kết quả các trận đấu sẽ được cập nhật trên fanpage "Giải vô địch bóng bàn quốc gia Báo Nhân Dân lần thứ 39". Phương Thanh

Ra mắt cuốn sách “Người trong muôn nghề: Ngành Sáng tạo và Nghệ thuật có gì?”

TĐKT - Đầu tháng 10/2021, Spiderum - mạng xã hội chia sẻ kiến thức kết hợp cùng với TopCV - nền tảng công nghệ tuyển dụng hàng đầu đã cho ra mắt cuốn sách thứ 4 trong bộ sách hướng nghiệp “Người trong muôn nghề” có tên “Người trong muôn nghề: Ngành Sáng tạo & Nghệ thuật có gì?”. Đây là cuốn sách đầu tiên trên thị trường định hướng nghề nghiệp toàn diện về ngành Sáng tạo và Nghệ thuật tại Việt Nam. Cuốn sách “Người trong muôn nghề: Ngành Sáng tạo & Nghệ thuật có gì?” Cuốn sách tập hợp 25 bài viết chứa đựng những chia sẻ của các tác giả – những người trực tiếp hoạt động trong các vị trí liên quan đến sáng tạo - nghệ thuật.  Họ ở đủ mọi hoàn cảnh, độ tuổi, vị trí công việc: Từ những người vào nghề vài năm tới các anh/chị vài chục năm trong nghề; từ người là con nhà nòi cho đến những người trái ngành... Cuốn sách đưa độc giả vào thế giới đa dạng của những công việc như ca hát, sáng tác/sản xuất âm nhạc, lồng tiếng, thiết kế, vẽ tranh, creative director, đạo diễn văn chương... cho đến những công việc mới gần đây được mọi người coi là sự nghiệp nghiêm túc như: Game thủ chuyên nghiệp, Streamer, Youtuber, TikToker... Các tác giả và khách mời chia sẻ trong sách Nội dung cuốn sách gồm 2 chương. Chương 1 – “Hé mở sáng tạo - nghệ thuật”: Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển ngành Sáng tạo và Nghệ thuật tại Việt Nam; đưa ra những bài học về cách tư duy, tiếp thu kiến thức, những chuẩn bị về mặt thái độ, tâm lý để phát huy khả năng trong hành trình xây dựng sự nghiệp. Chương 2 - “Muôn nẻo đường nghề”: Những câu chuyện chân thật về nghề nghiệp, đi sâu vào từng vị trí việc làm cụ thể thông qua trải nghiệm thực tế của những người trong ngành như: Đặc điểm, vai trò của từng loại công việc; các kiến thức, kỹ năng cần chuẩn bị và những bài học, những mảng sáng - tối trong nghề. “Người trong muôn nghề: Ngành Sáng tạo & Nghệ thuật có gì?” hiện đã xuất hiện tại các hiệu sách và các nhà phân phối. Phương Thanh

Trang