Kinh tế

Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển

TĐKT – Ngày 29/12, tại Hà Nội, Trang thông tin điện tử tổng hợp VnInsider (trực thuộc Công ty cổ phần truyền thông DAMORD) tổ chức Chương trình Đối thoại kinh tế Việt Nam 2020 với chủ đề “Tổng quan kinh tế Việt Nam 2019 và thách thức kinh tế 2020”. Chương trình là diễn đàn đối thoại chuyên biệt về kinh tế Việt Nam, với những phân tích, đánh giá, chia sẻ chuyên sâu của các chuyên gia kinh tế về các vấn đề của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019 cũng như những thách thức của nền kinh tế trong năm 2020. Các chuyên gia trao đổi, phân tích và dự báo diễn biến kinh tế Việt Nam năm 2020. Tại sự kiện này, các chuyên gia kinh tế đã trao đổi, phân tích và dự báo diễn biến kinh tế vĩ mô năm 2020; đồng thời, các doanh nghiệp tham dự chương trình có cơ hội được giao lưu và tìm kiếm giải pháp quản trị doanh nghiệp. Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung,  nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đánh giá, nền kinh tế vĩ mô năm 2019 tương đối ổn định, thể hiện ở hàng loạt các chỉ số, như lạm phát thấp, kim ngạch thặng dư về cán cân thương mại, thâm hụt ngân sách giảm, tăng trưởng về tín dụng có xu hướng giảm, dự trữ ngoại hối gia tăng… Những cải cách kinh tế thể chế và điều kiện kinh doanh (Việt Nam đã tăng thêm 10 bậc đánh giá về năng lực cạnh tranh toàn cầu) đã tạo thêm động lực phát triển kinh tế, đặc biệt là tăng trưởng của khu vực kinh tế trong nước. Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung cho rằng, những động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như là xuất khẩu, đầu tư nước ngoài (FDI), công nghiệp sản xuất và khai khoáng… đang giảm dần và GDP của Việt Nam năm 2019 đạt 7,02% chủ yếu vẫn nhờ khu vực kinh tế tư nhân trong nước và các thể chế cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Chính phủ. Để khối doanh nghiệp tư nhân có thể cạnh tranh thực sự bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, chính phủ cần giải quyết 2 vấn đề cốt lõi: Thứ nhất, hệ thống thể chế cần ổn định, rõ ràng, cụ thể và có sự tiên đoán trước, tránh sự chồng chéo, không đồng nhất giữa các cấp. Thứ hai, phần tiếp cận nguồn lực, cơ hội kinh doanh cần rõ ràng, minh bạch. Nếu nền hành chính còn tiếp tục cơ chế “xin – cho” nhiều hơn là quan hệ thị trường và năng lực cạnh tranh thì doanh nghiệp Việt vừa không muốn lớn vừa sợ lớn. Giáo sư Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị thế giới cũng đánh giá cao vai trò quan trọng của doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt hiện nay, doanh nghiệp tư nhân mới chỉ chiếm khoảng 10% GDP. Hiện nay nước ta có hàng nghìn doanh nghiệp tư nhân nhưng chỉ có 2% là doanh nghiệp lớn, 2% doanh nghiệp vừa, còn lại là nhỏ và siêu nhỏ nên rất khó để cạnh tranh quốc tế. Đảng và Chính phủ đã nhận ra và nhấn mạnh vai trò quan trọng của doanh nghiệp tư nhân. Thế nhưng, những giải pháp cụ thể để khuyến khích khối doanh nghiệp tư nhân phát triển bứt phá trong thời gian qua chưa đủ và chưa rõ. Đề xuất những giải pháp thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển bứt phá, Giáo sư Võ Đại Lược nhấn mạnh, cần cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhưng phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam liên doanh, liên kết, ưu tiên mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ. Phương Thanh - Mai Thảo  

Xác định năm 2020 là năm chuyển đổi số quốc gia

TĐKT - Ngày 28/12, tại Hà Nội, Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2019 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2020. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Dự Hội nghị có các Ủy viên Trung ương Đảng: Sơn Minh Thắng, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương; Phan Xuân Dũng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội; Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ trưởng Bộ TTTT; Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo; Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; Phan Văn Giang, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng; Bùi Văn Nam, Thứ trưởng Bộ Công an. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Năm 2019, các chỉ số tăng trưởng của các lĩnh vực thuộc ngành TTTT đều được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Theo báo cáo về Chỉ số tích hợp phát triển Bưu chính năm 2019 do Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) công bố về thứ hạng, Việt Nam xếp thứ 45/172 quốc gia (tăng 5 bậc so với năm 2018). Trong lĩnh vực viễn thông, điểm đánh giá chỉ số IDI của Việt Nam đạt xấp xỉ 5,57, tương ứng với hạng 81 (ngang với Trung Quốc và Iran). Việt Nam đã có sự thăng tiến mạnh mẽ trong bảng xếp hạng về an toàn, an ninh mạng toàn cầu do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đánh giá, từ thứ hạng 100 năm 2017 lên thứ hạng 50 năm 2019. Việt Nam được đánh giá là nước có số lượng mã độc di động thấp thứ 2 Đông Nam Á, chỉ sau Singapore. Tổng doanh thu toàn ngành dự kiến đạt 3.100.000 tỷ đồng (gần 135 tỷ USD), tăng 8,8% so với năm 2018; nộp ngân sách đạt 99.820 tỷ đồng (hơn 43 tỷ USD), tăng 23,4% so với năm 2018. Bộ TTTT đã trình Thủ tướng xem xét phương án dừng công nghệ di động cũ 2G vào năm 2022. Việt Nam hiện là một trong các nước đi đầu khu vực ASEAN về triển khai thương mại 5G. Là Cơ quan thường trực Chính phủ điện tử, Bộ TTTT đã thực hiện cách làm mới để thúc đẩy triển khai Chính phủ điện tử. Trong công tác quản lý thông tin điện tử, Bộ đã chủ động đàm phán, đấu tranh quyết liệt với Facebook và Google, buộc 2 nền tảng này phải tích cực hợp tác, gỡ bỏ các nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam và có giải pháp ngăn chặn tình trạng phát tán tin giả, thông tin xấu độc, tài khoản giả mạo trên nền tảng Facebook và Youtube. Để xử lý vấn đề tin giả, Bộ đã thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: Chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông trong nước ngăn chặn các website không rõ nguồn gốc đưa tin giả mạo; xử lý nghiêm các đối tượng trong nước phát tán thông tin giả mạo trên mạng; chỉ đạo các cơ quan báo chí đấu tranh, phản bác các tin giả, thông tin xuyên tạc về chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Năm 2020 ngành TTTT xác định là năm chuyển đổi số quốc gia, là năm khởi động mạnh mẽ để tiến tới một Việt Nam số. Đây sẽ là một sự chuyển đổi sâu sắc và toàn diện, mà đầu tiên là sự chuyển đổi về phương thức, quy trình vận hành, về cách làm việc trong mọi lĩnh vực. Công nghệ số sẽ là công cụ tốt nhất để giúp thực hiện công cuộc chuyển đổi rất to lớn này. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao tặng Cờ thi đua của Chính phủ cho 4 đơn vị thuộc Bộ TTTT Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận và biểu dương những đóng góp tích cực của lĩnh vực TTTT vào thành tựu tăng trưởng chung của đất nước trong năm qua. Thủ tướng yêu cầu năm 2020, Bộ TT&TT thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm: Chỉ đạo các doanh nghiệp trong ngành đầu tư hạ tầng số đi trước một bước cho chuyển đổi số và đi đầu trong công cụ chuyển đổi số; đưa thứ hạng Chính phủ điện tử của Việt Nam tăng lên; 100% hệ thống CNTT của Chính phủ điện tử phải có trung tâm giám sát an ninh mạng. Tổ chức tốt Triển lãm số thế giới, sự kiện công nghệ số lớn nhất thế giới do Việt Nam đăng cai. Xây dựng mạng lưới chuyển phát bưu chính sâu rộng tới từng hộ gia đình, tạo nền tảng cho thương mại điện tử phát triển. Phổ cập rộng rãi công nghệ di động 5G. Kiên quyết xử lý tình trạng sim rác, tin nhắn rác. Bộ TT&TT phải làm tốt vai trò điều phối thống nhất về phát triển Chính phủ điện tử trong khi vẫn phát huy sự chủ động của các bộ, ngành và địa phương. Phải sơ kết chương trình đô thị thông minh cấu phần công nghệ thông tin, nhất là trung tâm giám sát điều hành, từ đó có hướng dẫn triển khai, tránh việc làm theo phong trào, kém hiệu quả, lãng phí. Thực hiện nghiêm túc, chủ động quy hoạch báo chí đã được phê duyệt, không được lùi thời gian, cơ quan chủ quản nào làm không đúng thời hạn đã báo trước thì tạm dừng để thực hiện xong quy hoạch. Bộ TT&TT cần có đề án và chỉ đạo đổi mới công nghệ của hệ thống thông tin cơ sở như loa phường, xã, thậm chí tuyên truyền miệng, được xem là hệ thống tuyên truyền lớn nhất, hiệu quả nhất… Phương Thanh

Ngành tài nguyên và môi trường tổng kết công tác năm 2019

TĐKT - Sáng 27/12, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) tổ chức Hội nghị tổng kết công tác 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 của ngành TN&MT. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đến dự và chỉ đạo Hội nghị. Chủ trì Hội nghị có: Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cùng các Thứ trưởng: Nguyễn Thị Phương Hoa, Võ Tuấn Nhân, Trần Quý Kiên, Lê Công Thành. Dự Hội nghị có các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương, các đơn vị trực thuộc Bộ, Lãnh đạo Sở Tn&MT 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… Toàn cảnh Hội nghị Phát biểu khai mạc Hội nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết: Trong năm 2019, bám sát phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, toàn ngành TN&MT đã quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đặt ra; dự báo sát các xu thế, nhận diện, xử lý kịp thời các khó khăn phát sinh; đổi mới tư duy và hành động; tăng cường phối hợp giữa Trung ương và địa phương để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Nỗ lực của toàn ngành tạo sự chuyển biến rõ nét, thực chất trên các lĩnh vực và trong phạm vi cả nước. Cơ cấu sử dụng đất chuyển dịch theo hướng hiệu quả; nguồn thu từ đất đạt 184 nghìn tỷ đồng, đóng góp 11% thu ngân sách nội địa. Chỉ số đo lường sự hài lòng của người dân (SIPAS) đối với dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng đều qua 3 năm. An ninh nguồn nước từng bước được đảm bảo; tài nguyên nước điều tiết, sử dụng hài hòa phục vụ đa mục tiêu. Tiềm năng địa chất, khoáng sản đã được phát huy hiệu quả hơn nữa, đóng góp cho tăng trưởng sau nhiều năm suy giảm. Lợi thế, thế mạnh về biển ngày càng được phát triển, trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; các địa phương có biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh..., đã trở thành khu vực phát triển năng động, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Công tác quản lý, bảo vệ môi trường đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ từ trong tư duy quản lý đến hành động với nhiều giải pháp đồng bộ từ hoàn thiện chính sách pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn, sự giám sát và tham gia của người dân. Chất lượng dự báo khí tượng thủy văn ngày càng được nâng cao về dự báo dài hạn và ngắn hạn. Các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu được đẩy mạnh triển khai. Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng cùng lãnh đạo các Bộ ban ngành ấn nút ra mắt mạng lưới trạm định vị vệ tinh quốc gia Phát biểu tại Hội nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng ghi nhận những kết quả quan trọng ngành TN&MT đã đạt được trong năm qua. Phó Thủ tướng yêu cầu thời gian tới, Bộ TN&MT hoàn thiện hệ thống chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật đảm bảo đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Bộ cần triển khai công tác lập quy hoạch sử dụng đất quốc gia, chiến lược phát triển biển quốc gia gắn với các bộ, ngành liên quan. Kiểm kê, đánh giá hiện trạng tài nguyên nước; tiếp tục đổi mới quản trị tài nguyên nước quốc gia. Tập trung điều tra khoáng sản ở các vùng có nhiều tiềm năng, các khoáng sản chiến lược; tăng cường quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu phát triển, bảo vệ môi trường… Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tăng cường trách nhiệm bảo vệ môi trường của nhà sản xuất, người gây ô nhiễm; thiết lập cơ chế sàng lọc dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, phòng ngừa, giảm thiểu, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm; bảo vệ các khu vực nhạy cảm về môi trường; di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi đô thị và khu dân cư; khuyến khích phát triển công nghiệp môi trường, tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn; chuyển đổi dần cơ cấu sử dụng năng lượng; kiểm soát chặt chẽ nguồn thải có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao bằng công nghệ giám sát tự động; chuyển đổi cơ cấu năng lượng, thực hiện lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông, hiện đại hóa hệ thống quan trắc môi trường không khí tự động, liên tục ở các đô thị và khu công nghiệp. Bộ TN&MT cần chuẩn bị hạ tầng phục vụ quản lý thông minh dựa trên nền tảng ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; tập trung xây dựng dữ liệu nền địa lý, dữ liệu địa hình, không gian, cung cấp các dịch vụ vệ tinh, kết nối vạn vật sẵn sàng cho ứng dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng đô thị thông minh, tự động hoá trong các hoạt động vận tải, giám sát các hoạt động đánh bắt thủy, hải sản; ứng dụng công nghệ tự động trong quan trắc, giám sát tài nguyên nước và các hoạt động khai thác, sử dụng nước, giám sát biến đổi khí hậu. Bộ cần nghiên cứu và đưa vào sử dụng các nguồn năng lượng mới như địa nhiệt, khí đá phiến, khí hóa than, năng lượng biển... Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phải ngang tầm nhiệm vụ; tiếp tục đề cao kỷ luật, kỷ cương, rõ người, rõ việc, rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm, rõ hiệu quả; thúc đẩy bộ máy hành chính vận hành hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp. Nhân dịp này, tại Hội nghị, các đại biểu đã nhấn nút khởi động mạng lưới trạm định vị vệ tinh quốc gia (VNGEONET). Bình Nguyên

Tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành công thương

TĐKT - Sáng 27/12, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2019 và triển khai nhiệm vụ năm 2020 của ngành công thương, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh 3 mục tiêu quan trọng năm 2020 đối với ngành: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12%; phải xuất khẩu chạm mốc 300 tỷ USD, xuất siêu 2% GDP; tăng trưởng thị trường bán lẻ đạt con số khoảng 12%. Hội nghị tổng kết công tác năm 2019 và triển khai nhiệm vụ năm 2020 của ngành công thương Năm 2019, với những nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành, cùng sự phối hợp tích cực, hiệu quả của các địa phương và đặc biệt là sự nỗ lực, chủ động, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, ngành công thương đã hoàn thành đạt và vượt mức tất cả các chỉ tiêu được Quốc hội và Chính phủ giao. Khu vực công nghiệp ước tăng khoảng 8,9%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính 9,1%, vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho toàn ngành từ đầu năm. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2019 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan, thể hiện sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 ước đạt 516,96 tỷ USD, tăng 7,6% so với năm 2018. Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu được mở rộng, không chỉ tăng cường ở các thị trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng và tận dụng hiệu quả các FTA. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc... Cán cân thương mại năm 2019 ghi nhận mức xuất siêu kỷ lục (9,94 tỷ USD), góp phần làm tích cực cán cân thanh toán và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế. Về thị trường trong nước, năm 2019, lưu thông hàng hóa được đẩy mạnh và thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu, nhất là nhu cầu đối với hàng hóa thiết yếu cho người dân ở mọi miền đất nước và trong những giai đoạn tiêu dùng cao điểm như lễ, Tết Nguyên đán. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng tốt, ước cả năm đạt khoảng 4.940,4 nghìn tỷ đồng, tăng 11,86% so với năm 2018. Công tác kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, công tác quản lý thị trường được triển khai tích cực. Ước tính năm 2019, lực lượng QLTT đã phát hiện, xử lý khoảng 90.000 vụ vi phạm; thu nộp ngân sách Nhà nước gần 500 tỷ đồng (chưa tính trị giá hàng tịch thu chưa bán). Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, những nước lớn cũng không thể tăng trưởng cao thì thành quả năm 2019, trong đó tăng trưởng kinh tế trên 7%, có sự đóng góp trực tiếp và to lớn của toàn ngành công thương với kết quả xuất nhập khẩu năm nay cán mốc kỷ lục. Việt Nam trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 thế giới, tốc độ tăng xuất khẩu gấp 4 lần bình quân thế giới. Thủ tướng cũng đánh giá, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam chủ động tham gia thời gian qua cho thấy sự đúng đắn bởi việc xúc tiến thương mại và đầu tư hiệu quả hơn trong năm qua. Thủ tướng chỉ đạo, Bộ Công thương cần bám sát Nghị quyết 23 của Bộ chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 để xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành cho 10 năm tới. Theo đó, việc xây dựng thể chế, chính sách tiên tiến, nhất là quy hoạch phát triển, làm đà cất cánh cho Việt Nam nói chung, nhất là các ngành công nghiệp mũi nhọn, là một yêu cầu cấp bách của ngành công thương. Bên cạnh đó, trọng trách của ngành công thương là việc phát triển công nghiệp giảm phụ thuộc vào dầu thô, thay vào đó phải phát triển các ngành công nghiệp chế biến và dựa trên nền tảng sáng tạo, lấy khoa học - công nghệ làm động lực của nền tảng cạnh tranh. Chính vì vậy, việc nắm bắt cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là hết sức cần thiết. Phải tạo thuận lợi tốt nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu trên tinh thần hậu kiểm, chống tham nhũng trong xuất nhập khẩu. Cùng với đó là thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, theo dõi sát các diễn biến tình hình để có đối sách phù hợp. Chủ động theo dõi, đề xuất và triển khai những chính sách, giải pháp tức thời có hiệu lực trong phạm vi quốc gia để điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu phù hợp với từng thời kỳ. Nêu những nhiệm vụ nặng nề của đất nước năm 2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu ngành phải tập trung để cùng Chính phủ hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra. Trong đó, Thủ tướng đặt mục tiêu cho ngành công thương, đó là công ngiệp chế biến, chế tạo một năm tăng 12%; kim ngạch xuất khẩu chạm mốc 300 tỷ USD vào năm 2020, xuất siêu đạt 2% GDP; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2020 tăng 12%. Bộ Công thương phải đi đầu để giải quyết vấn đề quy hoạch, không vì quy hoạch mà ách tắc phát triển. Phải có chủ trương, biện pháp cụ thể để giải phóng nguồn lực đang trì trệ. Đặc biệt, cần thúc đẩy hơn nữa việc thực hiện các cam kết quốc tế trong người dân và doanh nghiệp… Tại Hội nghị, Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Công thương tập trung xử lý giải quyết các dự án lỗ kéo dài. Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và lãnh đạo các bộ, ngành cũng thực hiện ghi thức khai trương thủ tục cấp C/O mẫu D điện tử của Bộ Công thương. Phương Thanh

Kiểm tra sau thông quan xuất xứ hàng hóa xuất khẩu

TĐKT - Ngày 27/12, tại Hà Nội, Tổng cục Hải quan tổ chức họp báo chuyên đề về kết quả và các giải pháp trong công tác đấu tranh chống gian lận xuất xứ hàng xuất khẩu. Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) Nguyễn Tiến Lộc cho biết, trong xu hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại ưu đãi thuế quan (FTA) với các nước trên thế giới. Các hiệp định thương mại quan trọng như hiệp định quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; hiệp định thương mại Việt Nam – EU đã tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho Việt Nam, góp phần thu hút đầu tư FDI từ nước ngoài. Tuy nhiên, các hiệp định này cũng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý, đó là đảm bảo tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài nhưng phải kịp thời ngăn chặn các hành vi gian lận, lợi dụng chính sách thông thoáng của Nhà nước Việt Nam. Họp báo chuyên đề về kết quả các giải pháp trong công tác đấu tranh chống gian lận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu Trong thời gian qua, để lợi dụng ưu đãi thuế quan của Việt Nam được hưởng đối với các nước ký kết hiệp định, đã nổi lên vấn đề lợi dụng xuất xứ Việt Nam để được hưởng ưu đãi đối với các hàng hóa xuất khẩu. Trước đây, cơ quan Hải quan chủ yếu tập trung kiểm tra, ngăn chặn gian lận xuất xứ đối với hàng hóa nhập khẩu trong thông quan cũng như sau thông quan. Tuy nhiên từ giữa năm 2018 đến nay, cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc xảy ra, trong đó Hoa Kỳ đang áp thuế cao lên nhiều dòng hàng có xuất xứ từ Trung Quốc, cơ quan Hải quan đã tập trung nghiên cứu những phương thức, rủi ro về gian lận giả mạo xuất xứ, lấy xuất xứ của Việt Nam để xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ, EU. Qua nghiên cứu các quy định của Nhà nước Việt Nam về xuất xứ và các điều kiện tiêu chuẩn xác định hàng hóa xuất xứ Việt Nam, nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu của một số doanh nghiệp, trước mắt Cục KTSTQ tập trung vào hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ và dự đoán rủi ro thời điểm giữa năm 2018 khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung xảy ra, chính phủ Mỹ áp đặt các mức thuế lên hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc. Qua công tác thu thập, phân tích thông tin, thấy nổi lên một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng đột biến, cơ quan hải quan đã thống kê sơ bộ được 19 nhóm mặt hàng có nguy cơ gian lận về xuất xứ. Từ đó lập danh sách các doanh nghiệp có rủi ro về gian lận, giả mạo xuất xứ trong phạm vi toàn quốc để tiến hành kiểm tra. Giai đoạn 1, Cục KTSTQ tiến hành làm mẫu để tổng kết kinh nghiệm, sau đó, giai đoạn 2 sẽ mở rộng chỉ đạo lực lượng kiểm tra sau thông quan toàn quốc tiến hành kiểm tra để kịp thời ngăn chặn hành vi gian lận này. Cục KTSTQ đã kiểm tra 9 doanh nghiệp và chỉ đạo 9 Cục hải quan tỉnh, thành phố kiểm tra 24 doanh nghiệp. Kết quả: Công ty TNHH xe đạp Excel là công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc, thành lập năm 2018. Công ty thực hiện lắp ráp xe đạp, xe đạp điện xuất khẩu. Qua kiểm tra đã phát hiện: Công ty nhập khẩu 100% linh kiện xe đạp, xe đạp điện, xe lướt điện từ Trung Quốc về Việt Nam để lắp ráp đơn giản ở giai đoạn cuối cùng thành sản phẩm xe đạp, xe đạp điện, xe lướt điện hoàn chỉnh. Các linh kiện nhập khẩu về Việt Nam không trải qua bất kỳ công đoạn gia công sản xuất nào khác và xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ lấy nguồn gốc xuất xứ Việt Nam để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi do chính phủ Hoa Kỳ dành cho Việt Nam. Đối chiếu quy định tại điều 6 thông tư 05/2018/TT-BCT ngày 3/4/2018 Quy định về xuất xứ hàng hóa và điều 9 nghị định 31/2018/NĐ-CP ngày 3/8/2018 quy định chi tiết Luật quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa thì các sản phẩm của công ty không đủ tiêu chí để xác định là hàng hóa có xuất xứ Việt Nam. Công ty đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình. Tổng cục Hải quan (TCHQ) đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền và xử phạt bổ sung tịch thu toàn bộ tang vật là sản phẩm hoàn chỉnh, các bán thành phẩm và các linh kiện chưa xuất khẩu đang lưu trong kho của công ty. Trong quá trình kiểm tra còn phát hiện công ty đã thực hiện các thủ tục gian dối để được cơ quan có thẩm quyền (VCCI chi nhánh TP Hồ Chí Minh) cấp giấy chứng nhận xuất xứ Việt Nam (C/O Form B). Ngày 11/11/2019, Tổng cục Hải quan đã có công văn gửi VCCI chi nhánh TP Hồ Chí Minh yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận xuất xứ này. VCCI đã thu hồi giấy chứng nhận xuất xứ này. Để xử lý hành vi vi phạm của doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, vì đây là hành vi vi phạm mới có nhiều tình tiết phức tạp chưa có tiền lệ, Cục KTSTQ đã có nhiều buổi làm việc với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đã nhận được ý kiến từ Viện, trong đó thống nhất quan điểm với TCHQ về xác định hành vi vi phạm của công ty cũng như các thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung và kiến nghị Bộ Công thương thông báo các vi phạm của công ty đến các cơ quan tổ chức có liên quan. Theo đó, ngày 16/12/2019, TCHQ đã có công văn số 7741/TCHQ-KTSTQ về việc thông báo vi phạm hành chính gửi Bộ Công thương (Cục XNK) kiến nghị Bộ công thương thông báo vi phạm của Công ty TNHH Xe đạp Excel đến các cơ quan, tổ chức có liên quan theo thẩm quyền. Tuy nhiên, đến nay TCHQ chưa nhận được phản hồi của Bộ Công thương. Hồng Thiết

Hội thảo khoa học "Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay"

TĐKT - Sáng 26/12, Khoa Kinh tế, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay”. Toàn cảnh Hội thảo Hội thảo được tổ chức nhằm giúp các cán bộ, giảng viên của nhà trường nói chung và của Khoa Kinh tế nói riêng nâng cao nhận thức về lý luận cũng như thực tiễn về kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đánh giá những mặt tích cực, hạn chế và đề xuất các giải pháp cho sự phát triển của nền kinh tế này trong giai đoạn hiện nay. Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, TS. Bùi Văn Can, Chủ nhiệm Khoa Kinh tế cho rằng, đối với Việt Nam, phát triển kinh tế tư nhân để khởi động một bộ phận quan trọng có nhiều tiềm năng, gia tăng quy mô và nội lực kinh tế của đất nước. Việc xây dựng và vận hành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trọng đại. Nó liên quan đến khung khổ pháp lý cũng như các yếu tố của môi trường đầu tư - kinh doanh và nhiều yếu tố khác, phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững của tất cả các khu vực kinh tế. Chính thể chế kinh tế này sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển của mọi khu vực kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.  Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta như đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã khẳng định thì Chính phủ phải kiến tạo được những nền tảng pháp lý vững chắc, thông thoáng và minh bạch cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. TS. Bùi Văn Can cũng bày tỏ mong muốn thông qua hội thảo lần này, các nhà khoa học tham dự sẽ đưa ra những ý kiến, giải pháp hữu hiệu để phát triển nền kinh tế tư nhân dưới sự tác động đa chiều của công nghệ 4.0. GS.TS.NGND Vũ Văn Hóa,Phó Hiệu trưởng phát biểu tại Hội thảo Thay mặt cho Ban Giám hiệu nhà trường phát biểu tại Hội thảo, GS.TS.NGND Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng cho biết, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định hết sức đúng đắn rằng: Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái xã hội khác nhau; kinh tế thị trường phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), song không đồng nhất với CNTB và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Mặc dù quy mô của khu vực tư nhân có thể khác nhau trong các mô hình kinh tế thị trường đa dạng, song có một điều chắc chắn rằng, nếu không có khu vực kinh tế tư nhân thì sẽ không có nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Dù không hoàn hảo, song kinh tế thị trường vẫn chứng tỏ là một cơ chế huy động, phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sáng tạo và phát triển được coi là tốt nhất hiện nay. Chính hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân giúp vận hành cơ chế đó. Một khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa chắc mang lại một nền kinh tế thị trường hoàn hảo. Tự thân khu vực kinh tế tư nhân không giúp khắc phục những khiếm khuyết và “thất bại” của thị trường. Nếu không phát triển kinh tế tư nhân sẽ không thể phát huy hết thế mạnh của kinh tế thị trường, không thể khai thác hết nguồn lực phát triển to lớn của xã hội. Chính vì vậy, nền kinh tế tư nhân cũng đang gặp một số khó khăn, thách thức nhất định cần được tháo gỡ, giải quyết. Giáo sư Vũ Văn Hóa hy vọng các tham luận được trình bày trong hội thảo sẽ chỉ rõ những vấn đề vướng mắc của nền kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay để đưa ra giải pháp hữu dụng, qua đó góp phần nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học của các cán bộ, giảng viên trong Khoa Kinh tế. Tại Hội thảo, thông qua 6 tham luận của các chuyên gia kinh tế và các cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, tất cả những vấn đề liên quan đến nền kinh tế tư nhân đều được bình luận sâu sắc, mang đến những cái nhìn toàn diện và đa chiều về hình thức kinh tế này, đồng thời, cũng đưa ra những khuyến nghị chính sách hợp lý nhằm quản lý, phát triển cũng như kiểm soát nó hiệu quả hơn trong thời gian tới. Tin: Thu Hương Ảnh: Huy Thuyết                                                                                      

Kiến tạo thị trường bất động sản nông nghiệp

TĐKT - Ngày 26/12, dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Kiến tạo thị trường bất động sản nông nghiệp: Thực trạng và kiến nghị chính sách”. Ông Đỗ Viết Chiến, Tổng Thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam phát biểu đề dẫn Hội thảo Phát biểu đề dẫn Hội thảo, ông Đỗ Viết Chiến, Tổng Thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cho biết, hiện nay, khái niệm về thị trường bất động sản nông nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa thực sự rõ ràng, thiếu tính nhất quán; nguồn lực tài sản đất đai, hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường; cơ chế chính sách cho phát triển nông nghiệp nói chung và cho hoạt động đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói riêng vẫn còn nhiều bất cập… Những khó khăn, vướng mắc nêu trên dẫn đến kết quả thực hiện chủ trương lớn của Đảng - Nhà nước về phát triển nông nghiệp còn hạn chế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam; chưa huy động được hết được nguồn lực và nhu cầu đầu tư vào nông nghiệp của các thành phần kinh tế. Trước thực trạng trên; Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cho rằng: Việc xác định, công nhận bất động sản nông nghiệp là một loại hình sản phẩm bất động sản là điều cần thiết và phù hợp với nhu cầu thị trường (loại hình này đã có ở nhiều quốc gia). Việc đánh giá quy mô, tiềm năng phát triển; từ đó có các định hướng phát triển, đồng thời xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý phù hợp cho loại hình này cũng là điều hết sức cấp thiết. Tham luận tại Hội thảo, TS. Lê Xuân Nghĩa khẳng định, phát triển thị trường mua bán đất đai nông nghiệp và xu hướng tập trung đất đai là tất yếu. Đó là xu hướng làm gia tăng sản lượng nông nghiệp, để áp dụng công nghệ, hiện đại hóa và tăng giá trị gia tăng cho đất nông nghiệp. Đây cũng là xu hướng ổn định nguồn cung và chất lượng nông sản để có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, cũng là xu hướng tất yếu để thu hút lao động nông nghiệp ra khỏi khu vực nông thôn, tham gia vào các khu vực khác như công nghiệp, thương mại – dịch vụ. Vấn đề đặt ra là, Chính phủ phải có một chiến lược toàn diện về việc giải quyết những vướng mắc của thị trường bất động sản nông nghiệp. Quan trọng nhất là đầy đủ nền tảng pháp lý, tạo sự an toàn, dài hạn cho nhà đầu tư. Trên cơ sở đó, mới tập trung được nguồn lực đất đai để đi vào sản xuất lớn. Đồng quan điểm, chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong khẳng định, thị trường bất động sản nông nghiệp có nhiều tiềm năng, cần được tiếp tục gỡ nút thắt, phát triển gắn với phát triển vùng nông nghiệp kết hợp du lịch trải nghiệm và các sản phẩm bất động sản nghỉ dưỡng xung quanh… để gia tăng cơ hội và tác động lan tỏa, liên ngành cả về kinh tế và xã hội. Tại Hội thảo, các chuyên gia đã tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, những nhân tố tác động, bối cảnh của “bất động sản nông nghiệp”, “thị trường bất động sản nông nghiệp” Việt Nam; phân tích thực trạng và tiềm năng, cơ hội và nhu cầu phát triển của thị trường bất động sản nông nghiệp tại Việt Nam nói chung và các địa bàn trọng điểm nói riêng; phân tích làm rõ những vướng mắc pháp lý, chính sách và kiến nghị giải pháp phát triển bền vững thị trường bất động sản nông nghiệp tại Việt Nam… Tập trung kiến nghị chính sách đất đai cho nông nghiệp cần phải điều chỉnh, gồm: Quy hoạch sử dụng; giao cho thuê đất; quyền của chủ thể sử dụng; hạn mức và thời hạn giao cho thuê; hạ tầng phục vụ các giao dịch về quyền sử dụng đất và thu hồi đất; phân tích mô hình và kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trường bất động sản nông nghiệp và khả năng áp dụng cho Việt Nam. Các chuyên gia đều thống nhất cho rằng, những khó khăn về tích tụ, tập trung đất đai nông nghiệp đang là một trong những rào cản khiến doanh nghiệp khó đầu tư sản xuất ngành nông nghiệp quy mô lớn. Vấn đề này cần được giải quyết khi sửa đổi các luật và văn bản nghị định liên quan. Sau Hội thảo; Ban Tổ chức sẽ có văn bản kiến nghị lên Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan về các vấn đề được nêu trong Hội thảo; đặc biệt là định hướng xây dựng khung khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường này. Phương Thanh

VNPT đảm bảo tốc độ truy cập internet chiều đi quốc tế trong lúc ba tuyến cáp quang biển gặp sự cố

TĐKT - Để khắc phục sự cố trên tuyến cáp AAG xảy ra vào sáng 22/12 đã làm mất tổng dung lượng 1.100 GB đi quốc tế qua hướng cáp này. VNPT sẽ thực hiện tốt và đảm bảo tốc độ truy cập internet chiều đi quốc tế trước sự cố. Tốc độ internet vẫn đảm bảo Dung lượng kết nối đi quốc tế của VNPT vẫn gần như không ảnh hưởng nhờ những sự chuẩn bị từ lâu của nhà mạng. Khách hàng của VNPT sẽ thấy tốc độ truy cập internet của mình gần như không bị suy giảm so với thông thường. Đó là nhờ việc xây dựng đường truyền quốc tế mới cộng với các biện pháp san tải đã được tối ưu, cùng với đó là tổng dung lượng khai thác của VNPT trên các tuyến cáp này chỉ chiếm tỷ lệ khá nhỏ. Cáp quang biển Cụ thể, VNPT đã đưa vào khai thác điểm đường truyền internet quốc tế mới tới Hồng Kông – trung tâm dữ liệu lớn nhất khu vực. Đường truyền này giúp VNPT tiết kiệm thời gian điều chỉnh định tuyến và cân tải lưu lượng cũng như thời gian tối ưu lưu lượng cho khách hàng, do đó chất lượng dịch vụ (QoS - Quality of Service) cho khách hàng luôn được đảm bảo. Việc mở thêm biên mạng (POP – Point Of Presence) tại Hồng Kông vào cuối năm 2018 đã đảm bảo khách hàng VNPT có đường truyền internet ổn định ngay cả khi gặp sự cố đứt cáp quang biển quốc tế. Đây cũng là dấu ấn của VNPT khẳng định vị thế nhà cung cấp dịch vụ internet hàng đầu Việt Nam. Nhờ đó, trong thời gian các tuyến cáp trên xảy ra sự cố, việc truy cập internet quốc tế, đặc biệt là các dịch vụ phổ dụng như Gmail, Google, Facebook hay Youtube vẫn được đảm bảo. Khách hàng VNPT có thể yên tâm sử dụng dịch vụ, kể cả vào giờ cao điểm. Kiểm tra, khắc phục sự cố Việc mở rộng biên mạng quốc tế nằm trong lộ trình đảm bảo quy hoạch về phát triển hạ tầng viễn thông băng rộng đến năm 2020 của VNPT nhằm đảm bảo ít nhất 60% người dùng internet băng rộng sẽ được tiếp cận đường truyền tối thiểu 25 Mbps. VNPT hiện đang sở hữu cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông hiện đại, rộng khắp, kết nối trực tiếp với hơn 240 quốc gia và trung tâm kinh tế, tài chính khu vực trên toàn thế giới. VNPT cũng là đơn vị duy nhất sở hữu mạng thông tin vệ tinh tại Việt Nam. Tổng dung lượng Internet quốc tế của VNPT đạt trên 4.000 Gbps và sẽ tiếp tục được nâng lên trong thời gian tới. Mạng truyền dẫn liên tỉnh của VNPT vào loại lớn và mạnh nhất Việt Nam với tổng dung lượng trên 24.000 Gbps. Hệ thống cáp quang được đưa tới tận nhà thuê bao (băng thông 10-1000 Mbps) đã triển khai tại 63 tỉnh thành, phủ sóng tới 96% số xã trên cả nước. Các dịch vụ vẫn “chạy tốt” Trước đó, theo kết quả đo kiểm Speedtest của Tổ chức Ookla đối với dịch vụ băng rộng và cố định, với tốc độ download đạt 64Mbps và tốc độ upload đạt 65,07Mbps ghi nhận trong kỳ đo kiểm, VNPT được công nhận là nhà mạng có tốc độ truy cập internet số 1 Việt Nam. Đây là tốc độ lý tưởng để người dùng thỏa sức xem phim online, chơi game hay livestream trên mạng xã hội mà không lo tình trạng chậm, đứng hình. Nhờ đó, mặc dù sự cố trên các tuyến cáp quang biển đang xảy ra, người dùng các dịch vụ như truyền hình MyTV hay cáp quang FilberVNN của VNPT gần như không nhận thấy bất kỳ sự suy giảm nào trong tốc độ đường truyền của mình. Đây cũng là lợi thế của người dùng các dịch vụ của VNPT so với các đối thủ khác mỗi khi có sự cố cáp quang biển xảy ra. Trong năm 2019, lợi thế về sự ổn định của đường truyền tốc độ cao đã giúp dịch vụ MyTV có sự tăng trưởng đột phá về thuê bao phát triển mới, với hơn 750.000 thuê bao, tăng 210% so với thực hiện năm 2018. Hiện tại, MyTV cung cấp 3 gói cước trên ứng dụng bao gồm gói: Chuẩn, Nâng cao, VIP. Các gói MyTV đều tích hợp sẵn chùm kênh VTVcab cùng nhiều kênh trong nước và quốc tế hấp dẫn, giá chỉ từ 42.000 đồng/tháng. Khách hàng cũng có thể bổ sung các gói kênh K+, Fim+, Danet… theo sở thích giải trí của gia đình. Cũng nhờ lợi thế đường truyền, VNPT đã ra mắt nhóm gói cước HOME tích hợp internet cáp quang và truyền hình theo tiêu chuẩn chất lượng mới, siêu tốc độ và hỗ trợ trải nghiệm 4K. Với mức giá chỉ từ 189.000 đồng/tháng, khách hàng được cung cấp đường truyền Internet có băng thông tương ứng từ 30Mbps - 50Mbps, thoải mái thưởng thức xem phim, truyền hình 4K (Ultra HD) hay các dịch vụ trực tuyến như livestream, video call, video conference, game online… Tốc độ của các gói cước đảm bảo đường truyền mượt mà cho nhiều người dùng, nhiều thiết bị, ứng dụng cùng lúc, thích hợp cho mức độ sử dụng của cả gia đình nhiều thành viên hay hộ kinh doanh nhỏ. Những hạn chế về đường truyền trước đây như độ trễ, giật đều sẽ được giảm thiểu tối đa, duy trì kết nối nhanh chóng, ổn định cho người dùng. La Giang                

Kho bạc Nhà nước đạt bước đột phá mới trong thực hiện báo cáo tài chính

TĐKT - Với những nỗ lực không ngừng, Kho bạc nhà nước đã đạt được kết quả cao, tạo bước đột phá mới trong việc thực hiện báo cáo tài chính. Phó Tổng Giám đốc Kho bạc nhà nước (KBNN) Nguyễn Quang Vinh cho biết, tính đến hết ngày 15/12/2019, lũy kế thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trong cân đối đạt 1.414.290 tỷ đồng, bằng 100,21% so với dự toán năm 2019 được giao. Trong đó: Thu nội địa đạt 1.146.202 tỷ đồng, bằng 97,67% so với dự toán năm; thu từ dầu thô đạt 53.297 tỷ đồng, bằng 119,5% so với dự toán năm; thu từ xuất nhập khẩu đạt 332.762 tỷ đồng, bằng 110,74% so với dự toán năm. Phó Tổng Giám đốc Kho bạc nhà nước Nguyễn Quang Vinh Đối với chi thường xuyên, tính đến ngày 15/12/2019, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm soát đạt 846.353 tỷ đồng, đạt 81,2% dự toán chi thường xuyên của NSNN qua KBNN (không bao gồm chi trả nợ, viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng). Thông qua công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị KBNN đã phát hiện 21.985 khoản chi chưa đủ thủ tục theo quy định, đã yêu cầu bổ sung các thủ tục cần thiết và số tiền thực từ chối thanh toán là 79 tỷ đồng. (Dự toán chi thường xuyên năm 2019 của NSNN qua KBNN không bao gồm số tạm ứng và dự toán từ năm trước chuyển sang là: 1.042.816 tỷ đồng). Bên cạnh đó, chi đầu tư xây dựng cơ bản, tính đến ngày 15/12/2019, lũy kế vốn đầu tư thuộc kế hoạch năm 2019 kiểm soát chi qua KBNN giải ngân là 257.455,8 tỷ đồng đạt 61,8% kế hoạch chính phủ giao; đạt 60% kế hoạch Quốc hội giao. Chính những nỗ lực ấy đã giúp KBNN thu được kết quả khả quan. Thứ nhất, về thu NSNN, năm qua KBNN đã thực hiện cải cách, hiện đại hóa công tác quản lý thu, thực hiện thu trực tuyến theo dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4. Kết quả: Đến 15/12 thu đạt 100,21% dự toán được giao. Đến thời điểm hiện nay, thu ngân sách Trung ương (NSTW) mới đạt 96%, một số địa phương chưa hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách. Do đó, thời gian còn lại đến 31/12, KBNN sẽ cùng các cơ quan phấn đấu đạt tổng thu tối thiểu vượt 5%; phấn đấu thu NSTW và thu ngân sách của từng địa phương sẽ đạt dự toán. Thứ hai, về chi NSNN, KBNN tiếp tục cải cách, hiện đại hóa công tác kiểm soát chi với điểm nhấn là đã đưa dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4 áp dụng cho tất cả các đơn vị dự toán có giao dịch với KBNN tỉnh và KBNN thị xã, quận. Đối với giải ngân và chi đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), ông Vinh đánh giá tính đến ngày 15/12 đạt 61,8%, đây là một chỉ tiêu không cao. Trên cơ sở kiểm soát chi của gần 120 nghìn đơn vị dự toán trên toàn quốc, đã tổng hợp thống kê đầy đủ các nguyên nhân khách quan và chủ quan để báo cáo với Bộ Tài chính, Bộ Tài chính đã tham gia với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 94/NQ-CP để thúc đẩy phân bổ và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư năm 2019. Qua theo dõi của KBNN, Nghị quyết này đã đi vào cuộc sống và đang có chuyển biến tích cực. KBNN dự báo đến 31/1/2020 là hết thời điểm thanh toán vốn đầu tư thuộc niên độ ngân sách năm 2019 sẽ giải ngân trên 88% cho đầu tư XDCB. Thứ ba, đối với quản lý ngân quỹ có nhiều cải cách. Một trong những cải cách quan trọng, đột phá của KBNN đó là hình thành nên một tài khoản duy nhất. Cuối ngày, tất cả tiền gửi của KBNN nằm rải rác tại các ngân hàng thương mại sẽ về 0, tức là số dư chuyển hết về Ngân hàng Nhà nước. Khi chuyển về, mang lại một số lợi ích như: Hỗ trợ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Kết quả cụ thể là có nguồn ngân quỹ nhàn rỗi chủ động điều hành, KBNN đã tham mưu và Bộ Tài chính ban hành Thông tư giảm chi phí tạm ứng tồn ngân cho NSTW cũng như ngân sách địa phương (NSĐP) từ 0,15%/tháng xuống còn 0,1%/tháng. Cùng với tiết kiệm lãi suất tạm ứng bội chi, tính sơ bộ, tiết kiệm này của Kho bạc cho NSTW và NSĐP là trên 2.600 tỷ đồng. Đồng thời, dùng nguồn ngân quỹ tạm thời nhàn rỗi gửi có kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại tạo nên thặng dư và đã nộp NSNN được 5.000 tỷ đồng. Đây cũng chính là năm đầu tiên KBNN có thặng dư và nộp về ngân sách 5.000 tỷ đồng. Thứ tư, đối với công tác huy động vốn năm 2019, KBNN cũng có nhiều đổi mới. Đặc biệt KBNN đã bám sát tình hình tồn ngân của NSTW cũng như tiến độ thu vào NSNN. KBNN đã thường xuyên điều chỉnh các kỳ phát hành. Khối lượng phát hành đầu năm giao là 307 nghìn tỷ đồng, KBNN đã trình Bộ điều chỉnh giảm nhiệm vụ huy động vốn trong năm 2019 nhằm mục tiêu tiết kiệm chi phí lãi vay cho NSNN. Tính đến 15/12/2019, KBNN đã huy động được hơn 229.400 tỷ đồng, đạt số lượng phát hành. Lãi suất giảm so với năm 2018 là 0,2% và kỳ hạn dài hơn là xấp xỉ 1 năm. Thứ năm, năm 2019 là năm đầu tiên KBNN thực hiện báo cáo tài chính nhà nước (BCTCNN). Việc thực hiện BCTCNN này rất công phu, tổng hợp từ 53 nghìn đơn vị trên toàn quốc. Đây là một khâu đột phá. Theo thống kê, hiện nay trên toàn thế giới mới có khoảng 25 quốc gia có BCTCNN và BCTCNN này thực hiện chuẩn theo thông lệ quốc tế. Thứ sáu, thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW của Trung ương, KBNN tiếp tục đẩy mạnh tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Cụ thể, đã sáp nhập 15 KBNN thành phố vào KBNN cấp tỉnh. Có nghĩa từ năm 2019, KBNN tỉnh thực hiện giao dịch với tất cả các đơn vị đóng trên địa bàn tỉnh, không còn đơn vị cấp huyện nằm trên địa bàn; đồng thời giảm cấp phòng từ 7 phòng xuống 5 phòng. Riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, mỗi đơn vị giảm 3 phòng; tổng số giảm là 128 phòng, đạt 28%. Thứ bảy, về cải cách hành chính (CCHC), năm 2019, KBNN đẩy mạnh CCHC ở tất cả các khâu chuyên môn nghiệp vụ và được Bộ Tài chính đánh giá là 1 trong 2 đơn vị đi đầu trong ngành tài chính về tiến độ thực hiện CCHC. Phát huy thành tích đã đạt được, năm 2020, KBNN sẽ tiếp tục tăng cường kỳ hạn phát hành, giảm lãi suất phát hành và kéo dài kỳ hạn danh mục còn lại của trái phiếu. Cùng với đó, KBNN sẽ bám sát tình hình diễn biến thị trường để tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ cho phù hợp. Hồng Thiết    

Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, phát triển bền vững

TĐKT - Trong năm 2019, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã nỗ lực bám sát thực tiễn, vượt qua khó khăn, thách thức, triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, toàn ngành vẫn duy trì được đà tăng trưởng khá và đạt được những kết quả tích cực, nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch đề ra. Ứớc tính, tốc độ tăng GDP toàn ngành đạt khoảng 2,2% (trong đó thủy sản tăng cao 6,12%, lâm nghiệp tăng khá 3,98%). Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp Một trong những điểm sáng của ngành trong năm qua, đó là công tác mở cửa thị trường, xúc tiến thương mại nông lâm thủy sản được chú trọng, kịp thời giải quyết các vướng mắc để thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) sang các thị trường tuyền thống và mở rộng thêm đối với các thị trường có tiềm năng... Năm 2019, mặc dù khó khăn về thị trường, giá hầu hết các mặt hàng nông sản giảm từ 10 - 15%, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS năm 2019 dự kiến đạt 41,3 tỷ USD tăng khoảng 3,2% so với với năm 2018 (riêng lĩnh vực lâm nghiệp đạt trên 11,2 tỷ USD, tăng 19,2%). Thặng dư thương mại toàn ngành ước đạt mức kỷ lục 10,4 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2018. Bộ NN&PTNT đã chủ động triển khai rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất với các doanh nghiệp trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Các quy trình sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường (như VietGAP, Global GAP...) được phổ biến nhân rộng. Năm 2019 diện tích được chứng nhận VietGAP là 39,3 nghìn ha. Đồng thời, Bộ đã cùng các địa phương, doanh nghiệp đang tiến hành xây dựng các chuỗi liên kết một số sản phẩm chủ lực như: Chuỗi liên kết cá tra ba cấp chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); chuỗi liên kết ngành hàng lâm sản chủ lực; chuỗi liên kết ngành hàng lúa gạo của 10.000 hộ trồng lúa ở vùng ĐBSCL. Năm 2019, cả nước đã thành lập mới được 6 Liên hiệp HTX nông nghiệp, 1.455 HTX nông nghiệp, nâng tổng số lên 45 Liên hiệp HTX nông nghiệp, 15.434 HTX nông nghiệp, trong đó có 72,89% số HTX hoạt động hiệu quả (năm 2018 là 55%). Tỷ lệ HTX tham gia dịch vụ tiêu thụ nông sản cho xã viên tăng từ dưới 10% trước đây lên 24,5%. Cùng với sự tác động của nhiều chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, công nghiệp phụ trợ đã từng bước được nâng cao năng lực, một số tập đoàn kinh tế lớn đã chú trọng đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp. Năm 2019 có 17 dự án với tổng mức đầu tư trên 20.000 tỷ đồng được khởi công, khánh thành, đi vào hoạt động, giúp nâng cao chất lượng, mẫu mã và đa dạng các mặt hàng nông sản, lâm, thủy sản. Bộ đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về cơ chế chính sách để khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia ứng dụng khoa học công nghệ tạo các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao ở ba trục sản phẩm, gồm: Nhóm sản phẩm chủ lực cấp quốc gia; nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh; nhóm sản phẩm địa phương (OCOP). Theo đó, nhiều nhóm sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh có hàm lượng ứng dụng KHCN rất cao được áp dụng từ khâu sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến như: Tôm, cá tra…; có hàng chục doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ cao, tiên tiến ngang tầm khu vực và thế giới. Cùng với đó, nhờ chủ động, quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, công tác phòng, chống dịch bệnh, công tác thủy lợi và phòng, chống thiên tai đã có nhiều chuyển biến tích cực. Chương trình Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) đã về đích sớm trước một năm rưỡi. Đến hết năm 2019, cả nước có trên 4.806 xã (54%) đạt chuẩn nông thôn mới, bình quân cả nước đạt 15,66 tiêu chí/xã, không còn xã dưới 5 tiêu chí, hoàn thành trước 1,5 năm và vượt mục tiêu 10 năm (2010 - 2020). Đồng thời, có 63 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và xuất hiện địa phương có xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Có 112/664 đơn vị cấp huyện (16,86%) của 41 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; có 8 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Có 94% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh (tăng 2% so với năm 2018, tăng 8% so với năm 2015), vượt mục tiêu đề ra vào năm 2020. Tại Hội nghị trực tuyến tổng kết ngành năm 2019 và triển khai kế hoạch năm 2020, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết: Trong giai đoạn tới, trước các bối cảnh và yêu cầu mới; định hướng tổng thể phát triển ngành là: Tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng và nông thôn mới; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị với 3 nhóm sản phẩm chủ lực; khai thác và tận dụng tốt lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, xây dựng và phát triển vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm; kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và thị trường, xuất khẩu, với chuỗi giá trị toàn cầu; tổ chức liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng, tạo đột phá trong phát triển nhanh, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng nông thôn mới, cải thiện nhanh hơn đời sống của nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường. Năm 2020 là năm có ý nghĩa quan trọng, bứt phá, về đích hoàn thành Kế hoạch 5 năm 2016 – 2020; nhất là diễn ra Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Chỉ tiêu cơ bản năm 2020 của ngành NN&PTNT là: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành 2,8 - 3%; tốc độ tăng giá trị sản xuất NLTS khoảng 2,9 - 3,05%; kim ngạch xuất khẩu NLTS trên 42 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng 42%; tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM 59%; ít nhất 121 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh 96%; thành lập mới 2.000 HTX nông nghiệp; cả nước có 17.000 HTX nông nghiệp. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, toàn ngành xác định “Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, hội nhập quốc tế, thích ứng với biển đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh." Nguyệt Hà

Trang