TĐKT - Nằm trong chuỗi hoạt động phát triển và quảng bá cà phê Việt Nam ra thế giới, công ty Nestlé Việt Nam vừa tổ chức chuyến đi dành cho các phóng viên quốc tế đến thăm mô hình canh tác cà phê bền vững NESCAFÉ Plan cũng như tìm hiểu hoạt động gắn kết với nông dân, hoàn thiện chuỗi giá trị cà phê từ trang trại cà phê đến người tiêu dùng.
Trong chuyến đi thực tế này, các phóng viên quốc tế lần lượt trải nghiệm quá trình những hạt cà phê Việt Nam sạch và chất lượng cao được hình thành từ vườn ươm của viện nghiên cứu hợp tác cùng Nestlé, được đưa đến tay người nông dân qua chương trình hỗ trợ tái canh cà phê và canh tác bền vững với sự hỗ trợ kỹ thuật của NESCAFÉ Plan, đồng thời tham quan nhà máy chế biến cà phê công nghệ hiện đại của Nestlé, nơi sản xuất những sản phẩm cà phê từ 100% cà phê Việt Nam cho thị trường trong nước và xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Nữ phát thanh viên đài MBC tự hào với thành quả hái quả cà phê chín dưới sự hướng dẫn của chị Nguyễn Thị Huệ, nông dân Đắk Lắk, tham gia dự án NESCAFÉ Plan từ năm 2012
Để có được nguồn cà phê sạch và chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, từ năm 2011 đến nay, công ty Nestlé Việt Nam đã nỗ lực hỗ trợ hàng trăm nghìn nông dân tái canh, phát triển nông nghiệp bền vững kết hợp các hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị hạt cà phê Việt thông qua Chương trình NESCAFÉ Plan tại các tỉnh Tây Nguyên.
Sau hơn 7 năm triển khai, NESCAFÉ Plan đã phân phối trên 27 triệu cây giống năng suất cao, kháng bệnh nhằm hỗ trợ cho nông dân tái canh trên 21.000 ha diện tích cây cà phê già cỗi. Không chỉ hỗ trợ người nông dân canh tác bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế 4C (Bộ nguyên tắc chung cho cộng đồng cà phê (gọi tắt là Bộ tiêu chuẩn 4C) do Hiệp hội 4C ban hành, về canh tác cà phê bền vững dựa trên một loạt các tiêu chuẩn về kinh tế, môi trường, xã hội), Chương trình NESCAFÉ Plan còn hỗ trợ người nông dân trồng cà phê nắm bắt về cách quản lý chất lượng cà phê thu hoạch, kỹ thuật thử nếm cũng như hỗ trợ nông dân nâng cao năng lực nắm bắt thông tin thị trường.
Các phóng viên thử nếm, đối chiếu các sản phẩm cà phê chất lượng cao sản xuất tại nhà máy Nestlé Trị An, tỉnh Đồng Nai
Với nỗ lực nâng cao giá trị gia tăng cho cà phê Việt Nam, Nestlé Việt Nam đã liên tục đầu tư dây chuyền sản xuất và chế biến hạt cà phê Việt Nam chất lượng cao. Tháng 7 vừa qua, công ty đã đưa vào vận hành dây chuyền sản xuất sản phẩm viên nén cà phê NESCAFÉ Dolce Gusto với công suất ban đầu khoảng 2.500 tấn cà phê/năm (tương đương 130 triệu viên) và dự kiến sẽ tăng công suất trong các năm tới.
Dây chuyền này sử dụng 100% nguyên liệu là hạt cà phê chất lượng cao của Việt Nam nhằm sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người Việt và xuất khẩu đi 14 thị trường khác nhau trên toàn thế giới.
Trước đó, Nestlé Việt Nam đã đầu tư nhà máy hạt cà phê khử caffeine lớn nhất khu vực châu Á tại Việt Nam cũng như phát triển dòng sản phẩm Nescafé Cà phê Việt để đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt đến các thị trường khó tính trên thế giới. Toàn bộ các sản phẩm cà phê NESCAFÉ trong nước và xuất khẩu đều sử dụng 100% cà phê Việt Nam đạt chứng nhận quốc tế 4C. Điều này phù hợp với chủ trương mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là đẩy mạnh cho ngành hàng nông sản chủ lực của Việt Nam để cải thiện tình trạng sản phẩm cà phê chế biến sâu mới chỉ chiếm 10% tổng sản lượng cà phê nhân trong cả nước.
Đoàn phóng viên quốc tế thăm quan Trung tâm Thông tin NESCAFÉ vừa được đưa vào hoạt động tại nhà máy Nestlé Trị An, tỉnh Đồng Nai
Đoàn báo chí quốc tế đã kết thúc chuyến thăm quan với kỳ vọng sẽ đem những quan sát thực tiễn và kiến thức phong phú chuyển tải đến người tiêu dùng yêu cà phê quốc tế qua những bài báo và thước phim sống động. Hoạt động truyền thông quảng bá này một lần nữa khẳng định những nỗ lực không mệt mỏi của NESCAFÉ thúc đẩy chế biến cà phê chất lượng cao trong nước và đưa thương hiệu cà phê Việt ra thế giới.
Mai Thảo
Kinh tế
Nhận diện “cuộc chiến” giữa taxi truyền thống và taxi công nghệ
TĐKT - Ngày 6/12, Báo Lao Động tổ chức chương trình tọa đàm trực tuyến, với chủ đề: Nhận diện “cuộc chiến” giữa taxi truyền thống và taxi công nghệ. Tọa đàm được tổ chức nhằm giúp độc giả có những cái nhìn đa chiều về nội dung làm thế nào để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa taxi truyền thống và taxi công nghệ tại Việt Nam hiện nay. Theo ông Khuất Việt Hùng, bất kỳ một đơn vị nào tham gia kinh doanh ở lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự quản lý, tuân theo các quy định trong sân chơi chung của lĩnh vực đó. Trong kinh doanh vận tải cũng vậy, các đơn vị kinh doanh như grab, uber hay taxi truyền thống đều phải tuân thủ Nghị định 86 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải ô tô, tạo nên sân chơi bình đẳng. Các đại biểu khách mời chia sẻ tại Tọa đàm Theo thống kê, mô hình kinh doanh taxi công nghệ Grab hiện có hơn 170.000 tài xế. Như vậy, vấn đề đặt ra trước mắt trong quản lý taxi công nghệ chính là quyền lợi của hơn 170.000 lái xe đang tham gia vào mô hình kinh doanh vận tải của Grab. Theo ông Hùng, việc đóng BHXH cần thực hiện theo thỏa thuận giữa người lao động và doanh nghiệp vận tải. Việc này phải có quy định ngay trong hợp đồng, việc đóng BHXH phải có từ nguồn nhất định, theo thỏa thuận giữa hai bên, có thể trích từ nguồn tài xế được hưởng mô hình taxi công nghệ Grap nhưng phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo Luật Bảo hiểm xã hội. Theo luật sư Trương Anh Tú, riêng về vấn đề lao động, Luật Lao động đã quy định rõ người lao động cho doanh nghiệp 3 tháng trở lên phải đóng BHXH. Tuy nhiên, Grab cho rằng chỉ là đơn vị chỉ kết nối giữa người mua và người bán nên không thể nộp BHXH cho tài xế. Nếu định danh Grab là người bán dịch vụ vận tải hành khách, hành khách là người mua dịch vụ của Grab và đưa ra cung đường, giá, điều tài xế đến đón khách thì người lao động (tài xế) nhất định phải được đóng BHXH. Để quản lý taxi công nghệ và tạo sân chơi bình đẳng cho các hãng taxi truyền thống, ông Tạ Long Hỷ, Chủ tịch Hiệp hội Taxi TP Hồ Chí Minh nêu ý kiến, Nhà nước cần đưa ra chính sách quản lý chung với hai loại hình taxi truyền thống và công nghệ, các hãng sẽ tự cạnh tranh với nhau, doanh nghiệp nào làm ăn chất lượng thì tồn tại và ngược lại. “Nếu cứ tách riêng làm hai chính sách sẽ dễ tạo sự xích mích, nghi kỵ, có tâm lý so sánh”, ông Hỷ nêu. Hưng VũTĐKT - Chiều 6/12, tại Hà Nội, Liên hiệp Hợp tác xã (HTX) tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam tổ chức Lễ ra mắt Trung tâm Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam.
Ông Phạm Anh Tuấn, Chủ tịch Liên hiệp HTX tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam trao Quyết định thành lập cho đại diện Trung tâm Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam
Phát biểu tại Lễ ra mắt, ông Phạm Anh Tuấn, Chủ tịch Liên hiệp cho biết: Kinh tế HTX, HTX được khẳng định là một trong ba trụ cột của nền kinh tế Việt Nam. Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã là tất yếu khách quan trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với kinh tế thế giới. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước có rất nhiều chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế đầy tiềm năng, lợi thế này.
Tuy nhiên, kinh tế hợp tác, HTX ở Việt Nam chưa phát huy được sức mạnh vốn có của nó do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân chủ quan: Sự ảnh hưởng của HTX kiểu cũ dẫn đến việc người nông dân chưa mặn mà tham gia HTX. Mặt khác, do ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa, nhân lực trong khu vực này gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân chủ quan: Tuổi đời cán bộ HTX thường cao, năng lực, trình độ cán bộ HTX rất hạn chế, tiếp cận với kinh tế thị trường còn chậm, phần đa còn trông chờ chính sách hỗ trợ của nhà nước… dẫn đến HTX chậm phát triển và phát triển chưa phù hợp.
“Do đó, việc ra đời Trung tâm Hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.” – Ông Phạm Anh Tuấn khẳng định.
Trung tâm có vai trò cầu hỗ trợ các HTX trên cả nước tiếp cận với tiến bộ khoa học công nghệ, các nhà khoa học, doanh nghiệp, tập đoàn, thông tin thị trường từng bước rút ngắn khoảng cách của các HTX với các thành phần kinh tế khác hiện nay (hỗ trợ, giúp đỡ, thành lập mới, tái cấu trúc HTX, xây dựng phương án kinh doanh, tư vấn phương án tài chính, định hướng sản xuất, định hướng tiêu thụ, xây dựng chuỗi liên kết bền vững từ sản xuất đến thị trường… cho các HTX).
Nhân dịp này, Liên hiệp HTX tiêu thụ nông sản an toàn Việt Nam đã cắt băng khai trương Cửa hàng Giới thiệu và quảng bá sản phẩm nông sản an toàn tại số 4 đường Mạc Thái Tông, Cầu Giấy, Hà Nội.
Nguyệt Hà
Thương mại nông sản Việt Nam - EU: Đối tác phát triển bền vững
TĐKT - Nhằm tăng cường kết nối kinh tế giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), sáng 6/12, tại Hà Nội, Bộ Công thương phối hợp cùng Phái đoàn Liên minh châu Âu và Đại sứ quán một số nước thành viên tổ chức Diễn đàn Thương mại Việt Nam - EU với chủ đề "Thương mại nông sản Việt Nam - EU: Đối tác phát triển bền vững". Quang cảnh Hội thảo Diễn đàn được tổ chức dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, thu hút sự tham gia đông đảo của đại diện các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng, các đại sứ quán các nước EU tại Việt Nam và gần 100 doanh nghiệp. Tại Diễn đàn, các đại biểu đã trao đổi với nhau về các định hướng phát triển nông sản giữa Việt Nam và EU trong tương lai, chia sẻ kinh nghiệm, phương hướng phát triển, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường châu Âu. Các chuyên gia đến từ Anh, Pháp, Ý, Hà Lan đã chia sẻ các xu hướng thị trường tại các nước nhập khẩu nông sản chính của Việt Nam cũng như kinh nghiệm phát triển nông nghiệp thông minh - một trong những chiến lược của EU. Các chuyên gia của châu Âu nhận định nông sản Việt Nam là mặt hàng rất có tiềm năng xuất khẩu sang châu Âu. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chứng minh được chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của EU, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng EU. Nhiều sản phẩm Việt Nam được ưa chuộng tại châu Âu: Hạt điều, cà phê, rau củ, thanh long, vải... Nhân dịp này, đại diện Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam cũng chia sẻ triển vọng to lớn của việc thúc đẩy hợp tác thương mại nông sản giữa hai bên thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU dự kiến xem xét và thông qua trong thời gian sắp tới. Trong khuôn khổ Diễn đàn, các đại biểu doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và một số địa phương phía Bắc đã có cơ hội gặp và kết nối trực tiếp với đại diện thương mại đến từ Phái đoàn Liên minh châu Âu và đại sứ quán các nước thành viên tại Việt Nam để trao đổi cụ thể hơn về thị trường và các cơ hội hợp tác trong tương lai. Ông Trần Văn Công, Phó Cục trưởng Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Năm 2017, tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 768.200 tỷ đồng và tăng 4,5% so với năm 2016. Trong đó, nông nghiệp: 560.000 tỷ đồng; lâm nghiệp: 37.000 tỷ đồng; thủy sản: 171.200 tỷ đồng. Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất châu Á: Thương mại hai chiều được định giá vào khoảng 165% GDP vào năm 2017. Việt Nam đã gia nhập WTO vào tháng 1/2007 và đã ký và đang triển khai 14 FTA... Tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam đứng thứ 13 trên thế giới và có mặt tại 180 quốc gia. Các nước EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với châu Âu đạt 52,89 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2016. EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, là điểm đến của 18% lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, thủy sản. Việc thực thi EVFTA là động lực lớn thúc đẩy quan hệ đầu tư, thương mại giữa hai bên trong tương lai gần. Phương ThanhTĐKT - Ngày 5/12, tại Hà Nội, Tổng cục Hải quan đã tổ chức họp báo về kết quả, các giải pháp thu ngân sách, thu hồi nợ thuế, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách được giao và đánh giá 1 năm triển khai nộp thuế điện tử qua ngân hàng phối hợp thu và thông quan 24/7 của ngành hải quan.
Cụ thể, tổng số thu đạt 284.202 tỷ đồng, bằng 100,42% dự toán, bằng 97,00% chỉ tiêu phấn đấu.
Quang cảnh họp báo
Theo Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) Lê Mạnh Hùng, số thu 11 tháng đạt tỷ lệ cao so với dự toán và tăng so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh so với dự toán và so với cùng kỳ năm 2018. Tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng đầu năm đạt 439,96 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 223,76 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt 216,20 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước là nguyên nhân tăng thu chủ yếu.
Đặc biệt, mặt hàng xăng dầu nhập khẩu, do giá dầu thô tăng mạnh so với thời điểm xây dựng dự toán cùng với nhu cầu tiêu thụ tăng cũng làm tăng lượng nhập khẩu. Do đó, 11 tháng đầu năm số thu từ xăng dầu nhập khẩu tăng gần 20.000 tỷ đồng so với dự toán, tăng 3.700 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước 2017.
Ngoài ra, với sự nỗ lực phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2018, ngay từ những ngày đầu năm, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã ban hành Chỉ thị số 555/CT-TCHQ về việc triển khai nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2018 và giao chỉ tiêu phấn đấu thu NSNN, chỉ tiêu thu hồi nợ cho từng Cục Hải quan tỉnh, thành phố và nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết nghiệp vụ trong các lĩnh vực trị giá, phân loại, xuất xứ, quản lý nợ thuế. Kết quả, thu hồi và xử lý nợ thuế đến 30/11/2018 đạt 1.425,7 tỷ đồng; việc chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm tra sau thông quan, giá, phân loại… đạt khoảng 2.954 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, để tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế có thể nộp tiền thuế vào mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện, Tổng cục Hải quan đã thực hiện ký kết thỏa thuận hợp tác với 39 ngân hàng; trong đó, có 24 ngân hàng đã thực hiện thí điểm nộp thuế điện tử 24/7. Đến hết tháng 11/2018, số thu thuế của ngành hải quan qua hệ thống ngân hàng phối hợp thu (thu thuế điện tử) đạt 269.990 tỷ đồng, đạt 95% tổng thu (284.202 tỷ đồng).
Mặc dù đánh giá số thu NSNN năm 2018 vượt dự toán được giao, Tổng cục Hải quan vẫn tích cực đẩy mạnh các giải pháp tăng thu, chống thất thu ngân sách. Cùng đó, tăng cường thu hồi nợ thuế như tập trung rà soát, nắm chắc tình hình nợ thuế của các chi cục trực thuộc. Đồng thời, phân loại các nhóm nợ có khả năng thu, nợ không có khả năng thu, mỗi nhóm nợ có đánh giá chi tiết từng khoản nợ theo từng tờ khai, từng doanh nghiệp nợ.
Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra tên hàng, mã số, mức thuế tại khâu thông quan, khâu sau thông quan để phát hiện và xử lý các trường hợp khai sai mã số, khai ngụy trang tên hàng hoặc khai tên hàng không rõ ràng để được áp dụng mức thuế suất thấp.
Đánh giá 1 năm triển khai nộp thuế điện tử qua ngân hàng phối hợp thu và thông quan 24/7, đến nay, có 3.235 doanh nghiệp đã thực hiện thanh toán nộp thuế điện tử 24/7; 21 ngân hàng và chi nhánh có phát sinh giao dịch đạt 14.902 tỷ đồng và 87.006 giao dịch; trong đó, có 3 ngân hàng VCB, BIDV, Vietinbank có số thu chiếm khoảng 79,1% tổng số thu nộp thuế điện tử 24/7.
Tổng cục Hải quan nhận định, việc triển khai nộp thuế điện tử 24/7 là bổ sung thêm kênh thanh toán tạo thuận lợi doanh nghiệp khi thực hiện nộp tiền vào NSNN. Đặc biệt, hỗ trợ các doanh nghiệp mở tài khoản tại các ngân hàng nước ngoài, các doanh nghiệp lớn, mở nhiều tờ khai nộp thuế, làm thủ tục hải quan ngoài giờ làm việc.
Hồng Thiết
TĐKT- Toàn cảnh ngành thép năm vừa qua là một bức tranh nhiều gam màu tối, khi giá thép cán nóng liên tục biến động khó lường, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng những biện pháp phòng vệ thương mại khiến thị trường xuất khẩu gặp muôn vàn khó khăn. Xu thế này đẩy thị trường nội địa vào tình thế cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước, thêm vào đó là hàng nhập khẩu giá rẻ ồ ạt tràn vào khiến nguồn cung vượt xa cầu. Đây là thực sự là cơn “sóng dữ” mà tất cả các doanh nghiệp ngành thép đều phải đối mặt. Điều quan trọng là họ đã làm gì để vượt qua cơn sóng dữ đó.
Hoa Sen vốn được biết đến như “người khổng lồ” trong ngành tôn thép Việt. Trong những ngày qua Hoa Sen đã được nhắc đến khá nhiều trên các phương tiện báo chí truyền thông. Tuy nhiên, ít người biết và hiểu về cuộc chiến tăng trưởng sản lượng và giữ vững thị phần của Hoa Sen.
Tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giảm nợ vay tối đa
Vấn đề nợ vay đã trở thành đề tài nóng. Song chúng ta cần có cái nhìn thấu đáo về cơ cấu và sử dụng hợp lý các khoản vay trong cơ chế thị trường đầy biến động như hiện nay.
Trong vòng 3 năm qua, nắm bắt cơ hội vay với lãi suất thấp, Tập đoàn Hoa Sen đã tích cực đầu tư xây dựng các nhà máy mới trên toàn quốc và mở rộng hệ thống chi nhánh phân phối bán lẻ. Tính đến thời điểm hiện tại, Hoa Sen đã đầu tư và đưa vào hoạt động 11 nhà máy trên cả nước. Chính nhờ việc đầu tư mở rộng sản xuất, công suất của các nhà máy Hoa Sen được nâng lên gấp đôi từ 1,2 triệu tấn/năm vào năm 2015 đến khi hoàn tất đầu tư đạt mức 2,5 triệu tấn/năm, trở thành công ty có nhiều nhà máy với công suất lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Việc đầu tư nhà máy tại cả 3 miền Bắc – Trung – Nam đã giúp cho Tập đoàn Hoa Sen giảm được chi phí vận chuyển, đáp ứng nhanh nhất nhu cầu khách hàng, từ đó tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Song song với việc đầu tư nhà máy, Tập đoàn Hoa Sen đã thực hiện chiến lược mở rộng hệ thống chi nhánh phân phối bán lẻ trên toàn quốc. Hiện tại, tập đoàn Hoa Sen đang sở hữu gần 500 chi nhánh trên cả nước, tăng gấp 2,5 lần so với con số 190 chi nhánh vào năm 2015. Tuy nhiên, đầu tư luôn đi đôi với việc chi phí nợ vay tăng lên. Trong bối cảnh Chính phủ đang áp dụng những biện pháp siết chăt tín dụng, trong thời gần đây, Tập đoàn Hoa Sen đã tập trung giảm mạnh chi phí nợ vay, với những “chiến lược thần tốc”.
Tập đoàn Hoa Sen hiện đang nắm giữ thị phần tôn số 1 Việt Nam
Nhằm giải quyết một cách hiệu quả về tài chính, Lãnh đạo Tập đoàn đã đưa ra những chính sách cụ thể và thiết thực. Thứ nhất: Giảm hàng tồn kho về định mức tối thiểu. Thứ hai: Giảm chi phí bán hàng bằng cách tái cấu trúc hệ thống phân phối theo mô hình chi nhánh tỉnh, tối ưu hóa chi phí hoạt động của từng chi nhánh, tạm dừng việc mở thêm các chi nhánh mới. Thứ ba: Tinh gọn bộ máy nhân sự, đưa vào vận hành thành công hệ thống ERP đã tiết giảm chi phí nhân sự, quản lý bộ máy doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp. Thứ tư: Thu gọn các dự án đầu tư trái ngành bằng việc quyết định tạm dừng và chấm dứt đầu tư các dự án bất động sản như: Dự án Khu du lịch sinh thái đầm Vân Hội, Yên Bái; Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng suối nước nóng Hội Vân, Bình Định,…Chuyển nhượng dự kiến đầu tư bất động sản tại đường Đỗ Xuân Hợp, Phường Phước Long B, Quận 9, TP. HCM với giá có lãi…
Bằng những động thái tích cực, trong thời gian rất ngắn (hơn 1 tháng) Tập đoàn Hoa Sen đã giảm nợ vay hơn 3.140 tỷ đồng. Đây là một con số ấn tượng chứng tỏ được sự nhanh nhạy và quyết liệt của Hoa Sen trong việc tối ưu hóa hoạt động sản xuất kinh doanh .
Năm 2018, Hiệp hội thép Đông Nam Á đã chọn NM Tôn Hoa Sen Phú Mỹ là địa điểm làm việc và thăm quan duy nhất trong ngành tôn tại Việt Nam
Tăng sản lượng, duy trì thị phần, giữ vững vị thế dẫn đầu
Trong hoàn cảnh những cơn “sóng dữ” dồn dập đổ xuống thị trường tôn thép, Hoa Sen vẫn chèo lái con thuyền doanh nghiệp đạt được những con số tăng trưởng ấn tượng. Theo báo cáo của Hiệp hội Thép Việt Nam 09 tháng đầu năm 2018, thị phần tôn mạ của Tập đoàn Hoa Sen chiếm 35,2%, sản lượng tăng gần 100 ngàn tấn so với cùng kỳ năm ngoái.
Kết quả NĐTC 2017-2018 Tập đoàn Hoa Sen đã khẳng định sự tăng trưởng không ngừng: Sản lượng đã vượt mốc 1,8 triệu tấn, doanh thu đạt hơn 34 nghìn tỷ đồng, trong đó mức tăng trưởng lần lượt là 13% và 32% so với niên độ trước. Điều đáng chú ý là cả doanh thu nội địa và doanh thu xuất khẩu đều tăng trưởng vượt bậc. Trong đó doanh thu nội địa đạt hơn 22 nghìn tỷ đồng ( tăng 34%), doanh thu xuất khẩu đạt hơn 538 triệu USD, (tăng 27%). Lợi nhuận sau thuế của trong niên độ vừa qua đạt 410 tỷ đồng. Trong bối cảnh ngành thép đối mặt với những thách thức lớn trên cả hai “mặt trận”: thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu thì doanh nghiệp cần phải linh hoạt ứng phó với những khó khăn đó. Tăng trưởng doanh thu và sản lượng là chiến lược cần thiết để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Tiên phong nghiên cứu sản phẩm mới, Ống kẽm nhúng nóng Hoa Sen chính thức có mặt trên thị trường từ tháng 5/2018
Riêng đối với mặt hàng ống thép, Tập đoàn Hoa Sen trong nhiều năm liền vẫn giữ vững vị trí thứ hai trong ngành, chiếm 17,8% thị phần. Sản lượng ống thép của Tập đoàn tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái..
“Vua tôn thép” phát triển thành công ở ngành nhựa
Với vị thế vững chắc trong ngành tôn thép, hơn 10 năm nay, Tập đoàn Hoa Sen đã bước chân vào ngành sản xuất và kinh doanh ống nhựa, vươn lên trở thành một trong 03 doanh nghiệp dẫn đầu ngành. Hiện tại sản lượng ống nhựa tăng trưởng đáng kể đạt tới 5.000 tấn/tháng, chất lượng sản phẩm cao đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng trên cả nước.
Hiện tại, Tập đoàn Hoa Sen đang sản xuất và kinh doanh 3 loại sản phẩm ống nhựa chính: uPVC, HDPE, PPR và đầy đủ các loại phụ kiện đi kèm. Đặc biệt, Tập đoàn Hoa Sen có các nhà máy sản xuất ống nhựa tại cả 3 miền Bắc, Trung, Nam được đầu tư hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ, cho ra những sản phẩm chất lượng cao, ổn định nên có thể giảm được chi phí vận chuyển, giảm giá bán, tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm, đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng theo từng khu vực.
Sản lượng Ống nhựa Hoa Sen tháng 11/2018 đạt mốc 5.000 tấn/ tháng
Bức tranh ngành thép năm 2018 có nhiều gam màu tối nhưng xen lẫn vào đó vẫn là những điểm sáng đáng kể của những doanh nghiệp đầu ngành đã nỗ lực vượt “sóng dữ” để gặt hái được những thành công. Phần lớn những thành công đó là do đội ngũ lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, năng động và bản lĩnh cùng với đội ngũ nhân sự tinh nhuệ và sáng tạo. Bước sang niên độ mới, con thuyền doanh nghiệp ấy chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn của thị trường. Tuy nhiên với những chiến lược và kế sách cụ thể, phù hợp cho từng khu vực bao gồm cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu, chúng ta có thể hy vọng bức tranh ngành thép trong năm tới sẽ tươi sáng hơn.
Thuỳ Dung – Trần Lê
TĐKT – Chiều 30/11, tại Hà Nội, Bộ Công thương tổ chức họp báo Công bố chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Theo báo cáo năm 2017, sản lượng điện thương phẩm của EVN thực hiện là 174,65 tỷ kWh; tỷ lệ tổn thất điện năng toàn EVN là 7,24%, thấp hơn 0,36% so với kế hoạch và thấp hơn 0,33% so với tỷ lệ tổn thất điện năng thực tế của EVN năm 2016 (7,57%).
Quang cảnh buổi họp báo
Tổng chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 là 291.278,46 tỷ đồng, giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 là 1.667,77 đ/kWh, tăng 0,15% so với năm 2016.
Chi phí sản xuất, kinh doanh điện tại các huyện, xã đảo khu vực chưa nối lưới điện quốc gia được hạch toán vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2017. Doanh thu bán điện năm 2017 là 289.954,78 tỷ đồng, tương ứng giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện là 1.660,19 đ/kWh.
Thu nhập từ các hoạt động có liên quan đến sản xuất, kinh doanh điện trong năm 2017 là 4.115,76 tỷ đồng.
Tổng cộng hoạt động sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 và các hoạt động liên quan đến hoạt động điện năm 2017 EVN lãi 2.792,08 tỷ đồng.
Ngoài ra còn có các khoản chênh lệch tỷ giá thực hiện hợp đồng mua bán điện của các đơn vị phát điện các năm trước cũng chưa được tính vào giá điện.
Việc kiểm tra chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 căn cứ trên các tài liệu do EVN và các đơn vị thành viên cung cấp: Báo cáo chi phí và giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 của EVN do kiểm toán độc lập - Công ty TNHH Deloitte Việt Nam kiểm toán; báo cáo tài chính hợp nhất năm 2017 sau kiểm toán của EVN, báo cáo tài chính do đơn vị kiểm toán độc lập kiểm toán của Công ty mẹ EVN và các đơn vị thành viên; hợp đồng mua bán điện giữa EVN và các đơn vị phát điện thông qua kiểm tra chọn mẫu; tài liệu do các đơn vị được kiểm tra cung cấp theo yêu cầu của Đoàn kiểm tra.
EVN chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính trung thực của các số liệu báo cáo cho Đoàn kiểm tra chi phí sản xuất, kinh doanh điện.
Việc kiểm tra chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2017 không bao gồm thanh kiểm tra việc chấp hành của EVN đối với các quy định của pháp luật về quản lý sử dụng vốn và tài sản, các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp, các quy định về đầu tư, đấu thầu xây dựng công trình điện và mua sắm, thanh lý thiết bị. Khi có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền về các vấn đề liên quan, chi phí/giá thành sản xuất, kinh doanh điện sẽ được hiệu chỉnh tương ứng.
Tại buổi họp báo, chia sẻ về những khó khăn, thách thức của việc cung ứng điện trong năm 2019, ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám đốc phụ trách EVN cho biết: Để bảo đảm đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ năm 2019, cần thực hiện nhiều giải pháp: Tuyên truyền tiết kiện điện, giải pháp với các doanh nghiệp trong việc chủ động điều hành lịch sản xuất nhằm san tải và sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Đại diện EVN cũng kiến nghị các giải pháp nhằm huy động, đấu nối hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo góp phần bảo đảm việc cung ứng điện trong thời gian tới.
Thục Anh
Khai mạc Ngày mua sắm trực tuyến – Online Friday 2018 tại phố đi bộ hồ Gươm
TĐKT - Tối 30/11, tại Hà Nội, Bộ Công thương phối hợp cùng UBND TP Hà Nội đã tổ chức khai mạc sự kiện Ngày mua sắm trực tuyến – Online Friday 2018, sự kiện mua sắm trực tuyến lớn nhất trong năm với quy mô trên 3.000 website và doanh nghiệp thương mại điện tử tham gia, tập trung vào các sản phẩm chính hàng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ dự và ấn nút khai mạc sự kiện Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cùng các đại biểu ấn nút khai mạc sự kiện Phát biểu tại Lễ khai mạc, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho biết: Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu với thế giới, các loại hình thương mại trong đó có thương mại điện tử sẽ tiếp tục phát triển và đem lại những động lực đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho người tiêu dùng Việt Nam. Liên tục trong 5 năm qua, Ngày hội mua sắm trực tuyến (Online Friday) đã chứng kiến sự phát triển ngày càng mạnh mẽ không chỉ của thị trường trong nước, mà còn của người tiêu dùng và các doanh nghiệp tham gia. “Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng để cộng đồng doanh nghiệp chung tay xây dựng những giải pháp hướng đến người dân, người tiêu dùng, xây dựng niềm tin trong giao dịch thương mại điện tử nói riêng và xu hướng giao dịch số trong thời gian tới” – Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định. Theo thống kê của Bộ Công thương, năm 2014, doanh số của chương trình mới đạt trên 160 tỷ đồng; đến năm 2017, chương trình đã thu hút được trên 3.000 doanh nghiệp tham gia với 120.000 mặt hàng, sản phẩm và doanh số đã tăng vọt lên 1.223 tỷ đồng với 1,3 triệu đơn hàng trong 24 giờ tổ chức chương trình. Năm nay chương trình tiếp tục có sự góp mặt của gần 3000 doanh nghiệp tham gia, hàng nghìn sản phẩm giảm giá siêu hấp dẫn từ các thương hiệu Samsung, Oppo, LG, Vinamilk, Sunhouse, Laneige, theFaceShop…, hứa hẹn sẽ đón nhận được sự quan tâm đông đảo từ cộng đồng. Ngay sau Lễ khai mạc, sự kiện “Trải nghiệm Công nghệ số và Thương mại điện tử” - một hoạt động nằm trong khuôn khổ Ngày hội mua sắm trực tuyến - Online Friday 2018 đã chính thức diễn ra. Với mục tiêu nâng cao trải nghiệm của người tiêu dùng, chương trình được tổ chức từ ngày 30/11 đến 9/12/2018 xung quanh khu vực Hồ Gươm trong cả thời gian triển khai phố đi bộ và ngày thường trong tuần. Đây là cơ hội để người tiêu dùng tương tác, trải nghiệm và gặp gỡ những thương hiệu uy tín nhất trong lĩnh vực thương mại điện tử của Việt Nam. Sự kiện chính Ngày Mua sắm trực tuyến sẽ diễn ra trong ngày thứ 6 (7/12) tại địa chỉ www.onlinefriday.vn. Những điểm nhấn đáng chú ý khác của Ngày mua sắm trực tuyến – Online Friday 2018: - Doanh nghiệp tham gia chương trình sẽ được các nhà chuyển phát đồng hành cùng chương trình như VnPost, ViettelPost, Ninjavan, Lalamove, Snailship… hỗ trợ chi phí chuyển phát trong thời gian diễn ra sự kiện. - 20 ngân hàng đồng hành cùng Ban tổ chức sẽ hỗ trợ hoạt động thanh toán, cash-back cho người tiêu dùng sử dụng thẻ thanh toán trong hoạt động mua sắm trong thời gian diễn ra sự kiện. Các Hệ thống trung gian thanh toán, cổng thanh toán, trong thương mại điện tử sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tích hợp thanh toán và phí thanh toán trong thời gian diễn ra chương trình. - Về pháp lý, Online Friday 2018 sẽ là chương trình khuyến mãi trực tuyến tập trung đầu tiên trong năm 2018 do Chính phủ tổ chức, triển khai theo Nghị định 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 05 năm 2018 quy định chi tiết về luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Trong đó, các trường hợp tổ chức các chương trình khuyến mại tập trung (giờ, ngày, tuần, tháng, mùa khuyến mại) thì áp dụng hạn mức tối đa về giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là 100%. Do đó, hạn mức tối đa về giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại 100% cũng được áp dụng đối với các hoạt động khuyến mại trong khuôn khổ các chương trình, hoạt động xúc tiến thương mại do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Phương ThanhTái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa
TĐKT - Sáng 30/11, tại Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh tổ chức chương trình “Diễn đàn quản trị sự thay đổi và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa”. Toàn cảnh Hội thảo Sắp xếp, đổi mới và thích ứng với sự thay đổi trong công cuộc cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong phát triển kinh tế- xã hội hằng năm nhằm nâng cao hiệu quả tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh toàn cầu chú trọng thực chất và hiệu quả. Để thực hiện tốt công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/05/2017 về việc phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016 – 2020”, cùng với Nghị quyết số: 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 được Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khóa XII ban hành trong hội nghị lần thứ V một lần nữa đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước là hết sức quan trọng. Theo số liệu của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, trong năm 2017, cả nước đã phê duyệt phương án cổ phần hóa 57 DNNN (gấp 1,03 lần so với 55 DNN cổ phần hóa năm 2016). Sáu tháng đầu năm 2018, Chính phủ đã phê duyệt tiếp phương án cổ phần hóa 19 DNNN (bằng 86,2% so với cùng kỳ năm 2017), tổng giá trị doanh nghiệp là 40.672,09 tỷ đổng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 23.0847,23 tỷ đồng. Tổng thu từ cổ phần hóa 6 tháng đầu năm 2018 đạt 28.055,29 tỷ đồng, trong đó thu từ cổ phần hóa 22.457,29 tỷ đồng, thu từ thoái vốn 5.598 tỷ đồng. Lũy kế đến nay, tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt khoảng 198.000 tỷ đồng (năm 2016 là 30.000 tỷ; năm 2017 là 140.000 tỷ đồng; năm 2018 là 28.000 tỷ đồng)… Tại Diễn đàn, các nhà quản lý, các chuyên gia, đại diện doanh nghiệp nhà nước đã đối thoại, trao đổi thẳng thắn về cơ chế chính sách và thực trạng cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Cùng với đó trao đổi về những rào cản, vướng mắc đối với tiến trình cổ phần hóa DNNN, tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đối với tiến trình cổ phần hóa. Theo TS. Nguyễn Văn Khách, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn DNNN được đẩy mạnh. Trong giai đoạn 2011 – 2018, cả nước đã cổ phần hóa được hơn 600 DNNN, tổng giá trị thu về cho ngân sách Nhà nước từ bán vốn Nhà nước thông qua cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước đạt khoảng 200 nghìn tỷ đồng. Cơ chế, chính sách về cổ phần hóa DNNN đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Tuy nhiên, theo TS Khách, tiến độ cổ phần hóa DNNN, thoái vốn Nhà nước, niêm yết trên thị trường chứng khoán của DNNN đã cổ phần hóa còn chậm. Cũng như, chưa phân định rõ giữa chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước; việc công bố thông tin và tính minh bạch đối với DNNN còn thấp; công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá các DNNN cũng còn nhiều hạn chế; bộ máy quản lý điều hành chưa đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp… Trong thời gian tới, cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Trong đó, cần thực hiện việc tách biệt chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước, thông qua hình thành tổ chức chuyên trách thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư (Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã được thành lập) thay mặt Chính phủ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty và các DNNN quy mô lớn quan trọng. Theo ông Hoàng Trường Giang, Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương, quản trị doanh nghiệp và cơ cấu lại DNNN ở Việt Nam cần xác định rõ vị trí, vai trò, lĩnh vực hoạt động của DNNN trong nền kinh tế, để từ đó xây dựng quan điểm, mục tiêu cải cách DNNN ổn định trong thời gian dài, tạo sự nhất quán trong thực hiện. Đồng thời, phân chia DNNN thành hai loại chính là DNNN thương mại và DNNN công ích để áp dụng các biện pháp cải cách, quản lý phù hợp…. Thông qua trao đổi, thảo luận, góp ý, các chuyên gia kinh tế, đại diện DNNN đã đưa ra những đánh giá khách quan về vai trò của thiết chế hỗ trợ tái cơ cấu DNNN và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động của DNNN, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Diễn đàn cũng mang đến cho các cấp quản lý lãnh đạo doanh nghiệp những tư duy, nhận thức quan trọng, cũng như các công cụ và phương pháp trong công tác quản lý lãnh đạo sự thay đổi. Mai Thảo – Phương ThanhNgành Hải quan thực hiện tốt quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế
TĐKT - Việc áp dụng quản lý rủi ro, phân luồng kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) là một phương thức quản lý hiện đại được áp dụng rộng rãi trên thế giới theo khuyến nghị của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) và quy định của Luật Hải quan. Tại Việt Nam, phương thức quản lý rủi ro đang được ngành Hải quan và nhiều bộ, ngành triển khai áp dụng nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý với các doanh nghiệp, hàng hóa có nguy cơ rủi ro cao. Phương thức quản lý hiện đại Theo Tổng cục Hải quan, việc áp dụng quản lý rủi ro, phân luồng kiểm tra hàng hóa đối với các lô hàng XNK được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 16, Điều 17 Luật Hải quan; Điều 13, Điều 14, Điều 15 Nghị định 08/2015/NĐ-CP ngày 21/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan. Theo đó, khi hàng hóa được phân vào luồng Xanh sẽ thông quan ngay; luồng Vàng phải kiểm tra chi tiết hồ sơ; luồng Đỏ phải kiểm tra thực tế hàng hóa. Thủ tục Hải quan tại Cục Hải quan Bình Định Cơ quan Hải quan căn cứ vào kết quả tổng hợp, xử lý các kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, phân loại mức độ rủi ro theo tiêu chí do Bộ Tài chính ban hành để quyết định việc kiểm tra, giám sát hải quan, kiểm tra sau thông quan, thanh tra hải quan và các biện pháp nghiệp vụ hải quan khác. Về cơ bản, đây là các quy định được thể chế hóa từ các thông lệ quốc tế và các tiêu chuẩn, khuyến nghị của WCO nhằm đảm bảo việc hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là dưới góc độ tạo thuận lợi thương mại toàn cầu. Bên cạnh đó, ngành Hải quan đang triển khai quyết liệt việc thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo. Theo đó, một trong những giải pháp trọng tâm là chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, giảm tỷ lệ kiểm tra đối với hàng hóa XNK để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Trong các buổi làm việc với Bộ Giao thông vận tải và Bộ Y tế ngày 17/11/2018, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo quốc gia Cơ chế một cửa ASEAN (ASW), Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) và tạo thuận lợi thương mại, nhấn mạnh: Cần loại bỏ dần việc “tiền kiểm” hàng hoá (XNK) sang “hậu kiểm” dựa trên các nguyên tắc quản trị rủi ro. “Doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn thì lần sau cứ để hàng hoá của họ đi luồng Xanh. Không doanh nghiệp nào dại dột mà lại để mất đi uy tín và quyền lợi của mình, thậm chí là bị truy tố hình sự. Nhưng cũng có loại hàng hoá bắt buộc phải kiểm tra ngay tại cửa khẩu chứ không thể “hậu kiểm” khi được lưu thông, phân phối trong nội địa được”- Phó Thủ tướng Chính phủ nói. Song hành giữa “phục vụ” và “quản lý” Đại diện lãnh đạo Cục Quản lý rủi ro (Tổng cục Hải quan) cho biết: Ngoài việc áp dụng quản lý rủi ro, phân luồng kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải quan nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp, giảm thời gian thông quan hàng hóa, để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ các hành vi vi phạm, lợi dụng chính sách thông thoáng của nhà nước trong hoạt động XNK để buôn lậu, gian lận thương mại, ngành Hải quan đã và đang áp dụng đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp. Đó là thực hiện soi chiếu trước đối với hàng nhập khẩu. Cụ thể, cơ quan Hải quan tổ chức thu thập, phân tích thông tin trước (thông tin bản lược khai hàng hóa điển tự- E-manifest) nhằm kịp thời phát hiện các lô hàng có dấu hiệu rủi ro, dấu hiệu vi phạm, buôn lậu để thực hiện soi chiếu trước đối với hàng hóa nhập khẩu theo quy định tại Điều 9 Thông tư số 38/2015/TT-BTC. Đẩy mạnh tự động hóa hoạt động kiểm tra điều kiện đăng ký tờ khai để quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận tờ khai của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Thông tư số 38/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC). Tiến hành các biện pháp kiểm soát, giám sát hải quan; thu thập, trao đổi thông tin nghiệp vụ từ các cơ quan Hải quan, giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan chức năng trong và ngoài nước, nguồn tin do quần chúng nhân dân cung cấp để phát hiện các doanh nghiệp, lô hàng vi phạm, kịp thời áp dụng biện pháp dừng hàng qua khu vực giám sát để kiểm tra hoặc khám xét đối với các lô hàng có dấu hiệu vi phạm theo quy định tại khoản 32 Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC (bổ sung Điều 52d Thông tư 38/2015/TT-BTC) Song song đó, cơ quan Hải quan cũng tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan theo quy định tại Điều 77, Điều 78 Luật Hải quan. Theo đó, cơ quan Hải quan các cấp thường xuyên xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch tăng cường kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng luồng Xanh, qua đó, mỗi năm cơ quan Hải quan phát hiện truy thu hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế cho nhà nước. Đối với công tác kiểm tra, soi chiếu sau đối với các tờ khai xuất khẩu luồng Xanh đã được thông quan, cơ quan Hải quan tiến hành các biện pháp thu thập thông tin nghiệp vụ, đánh giá rủi ro, xác định các lô hàng xuất khẩu có dấu hiệu rủi ro cao để lựa chọn soi chiếu, kiểm tra theo quy định tại Điều 9 Thông tư 38/2015/TT-BTC. Có thể khẳng định, việc áp dụng phương thức quản lý rủi ro, phân luồng kiểm tra trong công tác quản lý nhà nước về hải quan được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế để góp phần quan trọng cải cách, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK, giảm thời gian thông quan hàng hóa, góp phần cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo chủ trương của Chính phủ. Cùng với đó, cơ quan Hải quan cũng triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều biện pháp để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, kịp thời phát hiện, xử lý các cá nhân, tổ chức cố tình thực hiện hành vi vi phạm. Hồng ThiếtTrang
- « đầu tiên
- ‹ trước
- …
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- …
- sau ›
- cuối cùng »





















