Kinh tế

Nâng cao tính độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế

TĐKT - Tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công thương nhận định: “Tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu nhưng đồng thời nâng cao tính độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế của nước ta thời gian tới vừa là yêu cầu, đòi hỏi nhưng cũng vừa là phương châm, cách thức để Việt Nam có thể vượt qua khó khăn, thách thức và tận dụng được những cơ hội để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn phát triển sắp tới.” Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công thương tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII Tạo dựng vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu Sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, điều hành quyết liệt, linh hoạt của Chính phủ và sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một trong những quốc gia thuộc nhóm nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo nên một nền tảng phát triển to lớn cho kinh tế đất nước. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết: Tới nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức trung bình cao. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng 16 bậc trong vòng 10 năm, từ vị trí thứ 58 vào năm 2009 lên vị trí thứ 42 vào năm 2019 (theo xếp hạng của UNIDO), trở thành quốc gia có mức tăng hạng nhanh nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN, đã tiệm cận vị trí thứ 5 trong khu vực (chỉ thua Philippines 0,0015 điểm) và tiến gần hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối ASEAN. Trong giai đoạn chiến lược 10 năm qua 2011 - 2020, công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% vào GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam từ vị trí thứ 50 (năm 2010) lên vị trí thứ 22 (năm 2019) trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới. Đến nay, Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như: Khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng và vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy..., tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa. Công nghiệp hỗ trợ được quan tâm thúc đẩy, tăng cường liên kết, đặc biệt là trong những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản... Cùng với các hoạt động thu hút đầu tư với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và công ty đa quốc gia hàng đầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước cũng đã có bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ, trong đó đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo... như Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát..., đã tạo nền tảng cho công nghiệp hỗ trợ, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy tái cơ cấu, nâng cao năng lực nội tại Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, “bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn nhiều khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình phát triển công nghiệp của đất nước ta, đặc biệt trước những yêu cầu và đòi hỏi trong giai đoạn phát triển sắp tới với mục tiêu đặt ra là vượt qua bẫy thu nhập trung bình, đưa nước ta phát triển thịnh vượng.” Trên cơ sở phân tích bối cảnh và tình hình thế giới đang đặt ra cho Việt Nam những thách thức to lớn và những cơ hội vô cùng quý giá, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng để giúp Việt Nam có thể nâng cao được vai trò, vị thế trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu và phát triển bền vững, cần bám sát quan điểm xuyên suốt mà Đảng ta đã xác định, đó là: "Ngoại lực là quan trọng, nhưng nội lực đóng vai trò quyết định". Theo đó, trọng tâm là tập trung vào thúc đẩy tái cơ cấu, nâng cao năng lực nội tại của các ngành công nghiệp; phát triển đội ngũ doanh nghiệp trong nước, củng cố các doanh nghiệp lớn, nòng cốt trong các lĩnh vực sản xuất nền tảng và lĩnh vực mũi nhọn, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực áp dụng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ cao. Các định hướng lớn cần tập trung thực hiện là: Tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên cơ sở tái cơ cấu mạnh mẽ từng ngành, từng lĩnh vực và khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Thực hiện có hiệu quả việc phân bổ nguồn lực cho phát triển, tập trung nguồn lực tạo ra các cực tăng trưởng, đầu tàu phát triển mạnh trong các ngành, lĩnh vực. Tiếp tục phát huy vai trò của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là kinh tế tư nhân trong nước trong các ngành quan trọng như công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn, bán lẻ, dịch vụ phân phối, chế biến nông sản, sắt thép...; coi trọng sự đóng góp của khối doanh nghiệp FDI trong việc nâng cao chất lượng chuyển đổi công nghệ, tạo sự kết nối, hợp tác hiệu quả giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước để nâng cao giá trị gia tăng của các ngành. Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế theo hướng Chính phủ kiến tạo, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho đầu tư kinh doanh. Tập trung xem xét xây dựng các Luật mới trong một số ngành, lĩnh vực mới để tạo lập nên các cơ chế mới mang tính nền tảng cho phát triển các ngành, lĩnh vực. Tập trung thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực, các cam kết trong WTO và Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đặc biệt là năng lực thực thi và hiện thực hóa các FTA đã ký kết để mở rộng thị trường xuất khẩu, kiểm soát có hiệu quả nhập khẩu. Tăng cường thu hút đầu tư để mở rộng sản xuất cho phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh diễn biến phức tạp từ tình hình căng thẳng chính trị, xung đột thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch trên thế giới… “Nhận thức sâu sắc quan điểm, định hướng của Đảng, ngành Công thương sẽ tiếp tục nỗ lực, cố gắng, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo hơn nữa để nhất định sẽ thực hiện thành công mục tiêu Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.” – Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Anh Tuấn khẳng định. Phương Thanh

Nông nghiệp vươn lên trở thành ngành kinh tế năng động, phát triển bền vững

TĐKT - Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế là mục tiêu xuyên suốt, một cuộc cách mạng to lớn, lâu dài, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề hết sức hệ trọng nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham luận tại Đại hội Hiệu quả từ chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân 5 năm qua, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân đã được toàn bộ hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, các cấp, các ngành vào cuộc quyết liệt, đồng bộ với nhiều chủ trương, giải pháp mạnh mẽ, đột phá; nhiều mô hình mới, cách làm hay, các điển hình trong lao động sản xuất đã tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu. Với sự đồng lòng, chung sức phấn đấu của cả nước, nông nghiệp không chỉ tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, mà còn vươn lên trở thành ngành kinh tế năng động, phát triển bền vững, tham gia sâu vào hội nhập kinh tế thế giới. Đặc biệt khi kinh tế - xã hội khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19, nông nghiệp đã đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thặng dư xuất khẩu cao mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn, góp phần quan trọng ổn định kinh tế - chính trị - xã hội và phát triển đất nước. Điều này thể hiện, 15/15 chỉ tiêu chủ yếu của ngành giai đoạn 2016 - 2020 đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình quân đạt 2,62%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 190,5 tỷ USD, riêng năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%; hết năm 2020 có 62% xã đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập của cư dân nông thôn năm 2020 đạt 43 triệu đồng/người. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp một cách thực chất, hiệu quả hơn, đạt nhiều kết quả quan trọng; quy mô và trình độ sản xuất được nâng cao, chuyển dịch mạnh sang sản xuất hàng hóa. Công nghiệp chế biến nông sản phát triển nhanh cùng với ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản. Thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản được mở rộng. Đến nay, nông sản Việt đã đến trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU...; tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản giai đoạn 2016 - 2020 đạt 190,5 tỷ USD, riêng năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD, vượt mục tiêu đề ra, đưa Việt Nam vào nhóm thứ nhất Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông lâm thủy sản. Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới về đích trước gần 2 năm, đã thúc đẩy nông thôn “thay da đổi thịt” hàng ngày, phát triển văn minh và hiện đại hơn. Hết năm 2020, có 62% số xã, 173/664 (26%) đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, 12/63 tỉnh/thành phố có 100% số xã đạt chuẩn. Đến 15/01/2021, đã có 4 tỉnh (Đồng Nai, Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam) được công nhận Tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới... Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhận định: Bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc đúc rút cho toàn ngành nông nghiệp để có được thành tựu trên là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo rất cụ thể của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của cả hệ thống chính trị; lựa chọn những giải pháp đột phá để chỉ đạo quyết liệt như: Mở cửa thị trường, áp dụng quy trình sản xuất tốt, an toàn, chất lượng; tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư của xã hội, doanh nghiệp; khơi dậy niềm tin và khích lệ tinh thần đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp toàn xã hội; thường xuyên quan tâm đời sống người dân, quán triệt tinh thần “phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau”. Các thành quả to lớn và từ bài học kinh nghiệm nêu trên một lần nữa khẳng định sự đúng đắn, hiệu quả và hợp lòng dân trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu tổng quát của ngành nông nghiệp: “Phát triển nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; nông thôn mới phồn vinh và văn minh, nông dân giàu có” và mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 2,5 - 3,0%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 48 - 50 tỷ USD. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới 80%. Thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn gấp 1,5 lần năm 2020. Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ở mức 42%, tăng cường chất lượng rừng. Để đạt được mục tiêu trên, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cần chú trọng thực hiện, giải quyết đồng bộ, tổng thể 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Trong đó, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về “Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế” đến các cấp, ngành, địa phương và người dân. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành; trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư. Thông tin, dự báo tình hình thị trường, tranh thủ lợi thế các Hiệp định thương mại tự do và các cam kết quốc tế để ổn định, giữ vững các thị trường truyền thống, quy mô lớn, phát triển thị trường mới. Phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, thông minh tăng tỷ trọng chế biến sâu để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm. Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, tập trung giải quyết các khâu then chốt, ứng dụng nhanh thành quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao để tạo tăng trưởng đột phá. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình “chuyển đổi số, kinh tế số” trong lĩnh vực nông nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa. Huy động nguồn lực, đầu tư hạ tầng đồng bộ cho nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, bền vững, đảm bảo khả năng chống chịu trước rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu ngày một nghiêm trọng… Theo Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Quốc Phong, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, chuyển đổi số và công nghệ viễn thám... là cơ hội để chúng ta nắm bắt các công nghệ mới, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh sự phát triển của ngành nông nghiệp. Tư duy sản xuất nông nghiệp chỉ lấy sản lượng làm mục tiêu không còn phù hợp với xu hướng của thời đại. Thay vào đó là tư duy kinh tế thị trường, căn cứ vào quy luật cung - cầu với sự điều tiết hợp lý của nhà nước, lấy thị trường làm định hướng sản xuất, sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với phát triển các liên kết ngang và liên kết dọc, đẩy mạnh các hoạt động đổi mới sáng tạo, các mô hình mới trong sản xuất kinh doanh, quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu người tiêu dùng, tạo ra thêm dịch vụ, trải nghiệm mới trên chính thửa ruộng, mảnh vườn, gia tăng thêm giá trị. Để chuyển đổi từ "tư duy sản xuất nông nghiệp" sang "tư duy kinh tế nông nghiệp" thích ứng với biến đổi khí hậu và xu thế thị trường, tại Đại hội XIII của Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Quốc Phong đã chia sẻ kinh nghiệm của Đồng Tháp và đề xuất 5 giải pháp cụ thể. Trong đó, đáng chú ý là giải pháp phát triển tư duy kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển cộng đồng dân cư, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, liên kết tăng cường liên kết, hợp tác trong sản xuất, gắn sản xuất, chế biến với thị trường, lấy thị trường là tín hiệu đầu vào cho sản xuất… Phương Thanh

Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen tổ chức Đại hội cổ đông thường niên niên độ tài chính năm 2020 - 2021

TĐKT - Ngày 21/1, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (HOSE: HSG) tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên niên độ tài chính (NĐTC) 2020 – 2021. Thông qua các báo cáo tại hội nghị, Hội đồng Quản trị, Ban Tổng Giám đốc trình bày chi tiết cho Đại hội đồng cổ đông về kết quả hoạt động của HSG trong NĐTC 2019 – 2020 vừa qua, và đề xuất Đại hội đồng cổ đông thông qua kế hoạch kinh doanh và một số định hướng hoạt động của HSG trong NĐTC 2020 – 2021 và giai đoạn sắp tới.   Đoàn Chủ tịch Đại hội cổ đông thường niên của Tập đoàn Hoa Sen Năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu tạo ra những tác động chưa từng có tiền lệ đối với tình hình kinh tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới. Giá thép nguyên liệu biến động khó lường. Các doanh nghiệp đối mặt với các biện pháp phòng vệ thương mại từ các thị trường xuất khẩu. Thị trường nội địa cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Tuy nhiên bằng chiến lược kinh doanh linh hoạt và đúng đắn, kết thúc NĐTC 2019 – 2020 (từ ngày 1/10/2019 đến ngày 30/9/2020) HSG vẫn đạt được kết quả kinh doanh bứt phá ngoạn mục: Sản lượng đạt 1.622.682 tấn, vượt 8% kế hoạch, tăng trưởng 9% so với cùng kỳ; doanh thu đạt 27.531 tỷ đồng, hoàn thành 98% kế hoạch; lợi nhuận sau thuế đạt 1.153 tỷ đồng, thực hiện 288% kế hoạch và tăng trưởng 219% với cùng kỳ. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, năm 2020, HSG tiếp tục tăng trưởng thị phần tôn mạ và củng cố vị thế dẫn đầu thị trường với thị phần 34%; thị phần ống thép của HSG đứng vị trí thứ hai với thị phần 17%. Đồng thời, HSG đã khẳng định vị trí top 3 nhà sản xuất và kinh doanh ống nhựa hàng đầu Việt Nam, sản lượng ống nhựa Hoa Sen liên tục tăng trưởng.   Siêu thị phân phối Vật liệu xây dựng & Nội thất Hoa Sen Home Kết quả kinh doanh tích cực trong niên độ vừa qua được xuất phát từ những chủ trương lớn mà HSG đã quyết liệt triển khai. HSG đã thực hiện tái cấu trúc toàn diện trong tập đoàn và vận hành hiệu quả hệ thống ERP. Bước đầu đa dạng hóa danh mục sản phẩm kinh doanh. Phát huy tối đa lợi thế về logistics từ hệ thống nhà máy sản xuất và lợi thế cạnh tranh của hệ thống cửa hàng phân phối trên toàn quốc để gia tăng sản lượng, thị phần và tối đa hóa lợi nhuận. Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín của Hoa Sen – thương hiệu dẫn đầu trên thị trường. NĐTC 2020 – 2021, HSG đặt mục tiêu sản lượng 1.800.000 tấn, tăng 11%; doanh thu 33.000 tỷ đồng, tăng 20%; lợi nhuận sau thuế 1.500 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ.   Toàn cảnh Đại hội đồng cổ đông thường niên niên độ tài chính 2020 – 2021 Với tầm nhìn trở thành một Tập đoàn sản xuất tôn, ống thép, ống nhựa và phân phối vật liệu xây dựng, nội thất hàng đầu Việt Nam và khu vực ASEAN. HSG đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn tiếp theo: Duy trì ổn định và phát huy các lợi thế cạnh tranh cốt lõi của HSG để phát triển thị trường kinh doanh nội địa và xuất khẩu hiệu quả, giữ vững và nâng tầm vị thế thương hiệu Hoa Sen trên thương trường. Phát triển chuỗi Siêu thị phân phối Vật liệu xây dựng & Nội thất Hoa Sen Home, trong đó tập trung vào các giải pháp: Mở mới và nâng cấp các cửa hàng hiện có thành hệ thống Siêu thị Vật liệu xây dựng & Nội thất Hoa Sen Home; hợp tác với các nhà cung cấp để đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh trong lĩnh vực vật liệu xây dựng cơ bản và vật liệu xây dựng hoàn thiện. Triển khai Dự án công nghệ thông tin & ERP giai đoạn II, góp phần tối ưu hóa các quy trình hoạt động của Tập đoàn, tiết giảm chi phí vận hành, tiết giảm các công đoạn trung gian và góp phần tinh giảm bộ máy hoạt động. HSG đưa ra kế hoạch trong 3 năm đến 5 năm tới sẽ nâng số lượng Siêu thị Vật liệu xây dựng & Nội thất Hoa Sen Home lên 1.200 siêu thị trên toàn quốc, hướng đến mục tiêu: Sản lượng 3 triệu tấn – doanh thu 3 tỷ USD – lợi nhuận sau thuế 3.000 tỷ đồng. Chính chiến lược khác biệt đã tạo nên một thương hiệu Hoa Sen dẫn đầu. Trong niên độ vừa qua, HSG liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng uy tín như: Lần thứ 5 liên tiếp Hoa Sen được vinh danh Chương trình Thương hiệu Quốc gia cho cả 3 nhóm sản phẩm: Tôn Hoa Sen, ống nhựa Hoa Sen và ống thép Hoa Sen; Giải vàng Chất lượng Quốc gia 2020 cho sản phẩm tôn Hoa Sen và ống thép Hoa Sen; Top 100 doanh nghiệp phát triển bền vững năm 2019; Top 50 thương hiệu Việt Nam dẫn đầu năm 2020; vị trí thứ 18 trong Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2020; nhiều năm liền Hoa Sen được vinh doanh trong Top 1.000 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất Việt Nam… Tất cả là minh chứng rõ ràng nhất cho quá trình xây dựng thành công thương hiệu của HSG, đồng thời khẳng định vị thế của Hoa Sen trên thị trường. Xuân Phúc  

Nâng cao năng lực quản trị và tiếp cận thị trường du lịch cộng đồng

TĐKT – Ngày 21/1, tại Hà Nội, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP) phối hợp với quỹ Toyota tổ chức “Hội thảo liên quốc gia về du lịch cộng đồng - Nâng cao năng lực quản trị và tiếp cận thị trường - trao đổi kinh nghiệm giữa Việt Nam và Thái Lan”. Dự án được thực hiện đồng thời tại 2 nước Việt Nam và Thái Lan với đơn vị triển khai dự án tại Việt Nam là CSIP và Sapa O Chau; tại Thái Lan là Change Fusion và Local Alike. Bà Phạm Kiều Oanh, Giám đốc CSIP phát biểu khai mạc Hội thảo Dự án hướng đến việc nâng cao năng lực cho những đơn vị, cá nhân làm du lịch cộng đồng thông qua chia sẻ những thành công điển hình, tạo nền tảng nâng cao năng lực và hỗ trợ tiếp cận thị trường. Trong khuôn khổ dự án, 37 đại diện cho các tổ chức, cá nhân tham gia trong lĩnh vực du lịch cộng đồng của hai nước đã tham gia hai chuyến học tập tại Việt Nam và Thái Lan. Cùng với đó, dự án góp phần xây dựng kiến thức chung về du lịch cộng đồng thông qua việc tổ chức hội thảo chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giữa hai nước, đồng thời biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn làm du lịch cộng đồng chung của Việt Nam và Thái Lan, 2 tài liệu trường hợp điển hình về du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó, hoạt động kết nối các cụm du lịch cộng đồng ở hai nước với thị trường trong khu vực cũng được diễn ra thông qua các nền tảng trực tuyến. Bà Phạm Kiều Oanh, Giám đốc CSIP cho biết: “Trong hai năm 2019 và 2020, được sự hỗ trợ của Quỹ Toyota, CSIP đã nâng cao năng lực cho các đơn vị, cá nhân làm du lịch cộng đồng. Những kinh nghiệm từ dự án đã thúc đẩy quá trình vận động chính sách và các đối tác trong việc tạo dựng một môi trường thuận lợi nhằm phát triển du lịch cộng đồng, từ đó tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương ở cả hai nước.” Nhằm tiếp tục xây dựng kiến thức chung về du lịch cộng đồng, từ đó tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương, CSIP tổ chức "Hội thảo Liên quốc gia về du lịch cộng đồng - nâng cao năng lực quản trị và tiếp cận thị trường - Trao đổi kinh nghiệm giữa Việt Nam và Thái lan". Hội thảo đã tổng kết và báo cáo các hoạt động và kết quả đã đạt được của Dự án, đồng thời tạo cơ hội để các bên làm du lịch cộng đồng ở Việt Nam và trong khu vực cùng thảo luận, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm, tiến tới thúc đẩy sự phát triển bền vững của du lịch cộng đồng. Hội thảo gồm 2 phần chính: Trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về phát triển du lịch cộng đồng; marketing cho du lịch cộng đồng và du lịch cộng đồng trong và sau ảnh hưởng của COVID-19. Phương Thanh

Công ty cổ phần đầu tư Thiên Lộc: Một thương hiệu mạnh trong lĩnh vực bất động sản

TĐKT - Không ngừng nỗ lực phát triển lâu dài và bền vững - đây là điểm mạnh của Công ty cổ phần đầu tư Thiên Lộc và hiện nay công ty đã trở thành một trong những thương hiệu mạnh của lĩnh vực bất động sản và đã đem lại nhiều thành công lớn cho công ty như ngày hôm nay. Luôn lấy văn hóa thi đua là cốt lõi Theo ông Vũ Văn Trường - Tổng Giám đốc Công ty Thiên Lộc, ngay từ những ngày đầu thành lập công ty, ông và Ban Giám đốc đã luôn đề cao yếu tố văn hóa thi đua lao động, sản xuất kinh doanh. Bởi, trong thời kỳ hội nhập, khi vốn, công nghệ, trình độ... không còn sự khác biệt quá lớn giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân; hay giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước thì chỉ có văn hóa mới làm nên sự khác biệt và tạo được ấn tượng với khách hàng, đối tác.  Một mặt, lãnh đạo công ty phát huy triệt để thế mạnh nền tảng là kinh nghiệm, trí tuệ của các thành viên Ban Giám đốc đã có thời gian dài công tác tại các tổng công ty lớn như: Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà, Công ty XNK Việt Nam Vinaconex,... Mặt khác, tích cực lấy văn hoá làm đòn bẩy, thúc đẩy kinh tế phát triển theo cách riêng của Thiên Lộc. Được biết, tại công ty, con người luôn được lựa chọn là ưu tiên số 1. Ông Vũ Văn Trường - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty phát biểu tại buổi gặp mặt kỷ niệm 12 năm thành lập Công ty Dưới sự định hướng của lãnh đạo, Thiên Lộc luôn chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có văn hóa và coi đây là yếu tố hàng đầu. Đó phải là những người có trình độ học vấn cao; có trách nhiệm với công việc; có kiến thức và kỹ năng khoa học hiện đại; có phong cách, lối sống ứng xử thông minh, văn minh và lịch thiệp. "Những con người có đầy đủ năng lực và sự tận tâm thì chắc chắn sẽ tạo nên một giá trị thương hiệu thành công" - ông Vũ Văn Trường khẳng định. Tiếp đó, Công ty đưa ra phương châm “Ba không”, gồm: Không làm trái pháp luật - Không đầu tư dàn trải - Không đúng mục đích; “Ba lợi ích”, gồm: Lợi ích nhà nước - Lợi ích nhà đầu tư - Lợi ích doanh nghiệp. Để xây dựng thương hiệu, Thiên Lộc luôn mang tới đối tác tinh thần làm việc cầu thị, hợp tác cao độ. Mỗi dự án đều được thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao nhất, đảm bảo chất lượng - mỹ thuật - kỹ thuật, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Không những thế, tại những nơi thi công dự án, Công ty luôn làm tốt công tác giữ gìn vệ sinh môi trường cảnh quan như tổ chức thu gom rác thải, vật liệu xây dựng... sạch sẽ; hạn chế tối đa bụi bẩn, cát sỏi rơi vãi gây phiền toái, khó chịu đối với mọi người; chủ động tiến hành những việc có tiếng ồn lớn vào ban ngày để tôn trọng giờ nghỉ ngơi buổi tối của mọi người; ý thức tự giác, văn minh của người lao động trong doanh nghiệp cũng được quán triệt sâu sắc. Nhờ đó, công ty rất được lòng địa phương và người dân sống xung quanh khu vực dự án triển khai. Tính tới nay, thị phần của Công ty đã phủ sóng gần như toàn quốc. Hiện nay, Công ty đang triển khai và thực hiện nhiều dự án uy tín được đông đảo khách hàng, nhà đầu tư quan tâm: Dự án đầu tư xây dựng đoạn đường Thống Nhất và hạ tầng kỹ thuật khu dân cư phường Thắng Lợi tại TP Sông Công, Thái Nguyên; Dự án Đầu tư xây dựng đường Thống Nhất kéo dài đến khu đô thị sinh thái từ nút giao đường Thống Nhất đến cầu Du Tán; Dự án đầu tư xây dựng khu dân cư Quang Trung, Quang Vinh, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Dự án Thiên Lộc Tower, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội hiện đã có chủ trương, đang hoàn thành thủ tục trình duyệt dự án đầu tư. Tại Đồng Nai, công ty đang triển khai các dự án gồm: Dự án đường Nguyễn Du và hạ tầng kỹ thuật khu đất tại TP Biên Hòa… Phát huy trí tuệ tập thể, tích cực tham gia hoạt động xã hội từ thiện  Điều đặc biệt nhất tại Thiên Lộc là ngoài bộ máy điều hành như nhiều công ty khác, lãnh đạo đơn vị còn thành lập một hội đồng cố vấn gồm những nhà văn hóa, nhà chính trị, nhà khoa học, nhà quản lý có uy tín. Có thể thấy, Công ty rất kiên định với mục đích xây dựng văn hóa doanh nghiệp với những đặc trưng riêng. Rõ ràng, trong thành công của Thiên Lộc trên thị trường ngày hôm nay, có phần đóng góp không nhỏ của yếu tố văn hóa. Nhờ đó, không chỉ doanh thu của công ty mỗi năm một tăng, mà thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng được cải thiện đáng kể. Ban Cố vấn và các đại biểu về dự buổi lễ chụp ảnh kỷ niệm với Ban Lãnh đạo và cán bộ, nhân viên công ty Với cộng đồng, lãnh đạo công ty cho biết, công ty đã, đang và sẽ đồng hành thông qua việc duy trì thường xuyên các hoạt động thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách vào các dịp lễ, tết. Lấy văn hóa làm trọng nên việc công ty duy trì, tiếp nối truyền thống "lá lành đùm lá rách" của dân tộc ta thực sự là một hành động đáng quý, đáng trân trọng. Hành động này còn đồng thời thể hiện được cái phông văn hóa của người đứng đầu công ty. Văn hóa là kinh tế. Thiên Lộc làm kinh tế trong văn hóa. Đâu phải doanh nghiệp nào cũng hiểu, cũng làm được và cũng thành công như Thiên Lộc. Phát huy lợi thế đạt được, giai đoạn này lãnh đạo Công ty đã quyết định chuyển dịch cơ cấu từ thi công xây lắp sang đầu tư là chính. Tất nhiên, để chuẩn bị cho bước chuyển mình này, Thiên Lộc đã tiến hành bài bản từ khâu nhân sự cho đến kế hoạch, chiến lược. Phối cảnh khu dân cư Thiên Lộc tại TP Sông Công - Dự án Công ty Thiên Lộc làm chủ đầu tư Không tự hài lòng với chính mình, công ty vẫn đang thi đua nỗ lực không mệt mỏi để nâng cao giá trị và tầm vóc trước những đòi hỏi của thị trường và diễn biến phức tạp của xã hội. Hướng tới sự phát triển lâu dài và bền vững, Thiên Lộc vẫn tiếp tục dựa trên những nền tảng nội lực đã được xây dựng, củng cố trong suốt thời gian qua. Đó là văn hóa doanh nghiệp, trí tuệ và kinh nghiệm. Vương Thủy

Hội thảo khoa học Các công vụ quản trị năng suất trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

TĐKT - Ngày 13/1, tại Hà Nội, Khoa Quản lý Kinh doanh, trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học Các công vụ quản trị năng suất trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Dự Hội thảo, có: TS Hà Minh Hiệp, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cán bộ của Tổng cục; GS. TS. Đinh Văn Tiến, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội; GS. TSKH Nguyễn Quang Thái, Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam; TS Đoàn Hữu Xuân, Chủ nhiệm Khoa Quản lý Kinh doanh, Ban chủ nhiệm, các giảng viên của Khoa; đại diện lãnh đạo các đơn vị trong trường. Toàn cảnh Hội thảo Tại Hội thảo, TS Hà Minh Hiệp, Phó Tổng Cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã chia sẻ các thông tin về chủ đề “Các công cụ quản trị năng suất trong bối cảnh các mạng công nghiệp 4.0”. Việc các doanh nghiệp hiện nay cũng như trong nhiều năm tới cần tiếp tục cải thiện môi trường cạnh tranh, nâng cao năng lực, trong đó năng lực cạnh tranh về hàng hóa và sản phẩm dịch vụ là những vấn đề có tính cấp bách, nhất là khi Việt Nam đang được đánh giá thuộc nhóm quốc gia có độ mở cao nhất thế giới. Cơ hội và nguy cơ luôn là vấn đề đan xen và song hành phát triển. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thể hiện cụ thể và chủ yếu qua năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, trong đó, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong những năm qua, nhiều bộ, ngành ở Trung ương và địa phương đã sớm triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, các hộ kinh doanh và người lao động tăng cường đổi mới quản trị nội bộ, tạo lập sự liên kết theo chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ luôn đi đầu và đã triển khai các chương trình nghiên cứu hỗ trợ nhiều doanh nghiệp trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Đây là một nguồn lực vô cùng hiệu quả. Khoa Quản lý Kinh doanh và các khoa khối Kinh tế của trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đang cùng đồng hành thực hiện mục tiêu đào tạo; đào tạo những cử nhân kinh tế có kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành đào tạo, trong đó kiến thức và kỹ năng thực hành phải bám sát yêu cầu của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp. Đó cũng là yêu cầu tiên quyết trong chương trình đào tạo của Khoa Quản lý Kinh doanh. Hội thảo được tổ chức nhằm gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, không ngừng đổi mới về nội dung và chương trình đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Khoa Quản lý Kinh doanh. Nguyễn Văn Long

Phấn đấu đến hết năm 2022, EVN cơ bản chuyển đổi thành doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp số

TĐKT - Ngày 12/1, tại Hà Nội, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác năm 2020 và triển khai nhiệm vụ năm 2021, kết nối tới 272 điểm cầu (đến các đơn vị cấp 4) trên toàn quốc. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. Hội nghị tổng kết công tác năm 2020 và triển khai nhiệm vụ năm 2021 Phó Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh cho biết, đến cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn hệ thống đạt 69.300MW, tăng gần 14.000MW so với năm 2019. Quy mô hệ thống điện Việt Nam đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 23 thế giới. Sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống năm 2020 là 247,08 tỷ kWh, điện thương phẩm đạt 216,95 tỷ kWh, lần lượt tăng 2,9% và 3,42% so với năm 2019. Năm 2020, công tác vận hành hệ thống điện có nhiều biến động, đặc biệt do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên phụ tải điện tăng trưởng thấp. Bên cạnh đó, thủy văn diễn biến bất thường, khó dự báo; tỷ trọng các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao gây khó khăn trong điều hành hệ thống và dẫn đến tình trạng “thừa nguồn” trong các thời điểm buổi trưa và các ngày lễ, cuối tuần. Cũng trong năm qua, thị trường điện đã đảm bảo liên tục, ổn định theo đúng quy định. Từ ngày 1/9/2020, thị trường điện đã được chuyển đổi chu kỳ điều độ - chu kỳ giao dịch xuống 30 phút, góp phần xử lý chính xác và kịp thời các biến động trong vận hành hệ thống. Trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát, Tập đoàn đã nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời chủ động báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và đã thực hiện giảm giá điện, giảm tiền điện trong 2 đợt với tổng số tiền khoảng 12.300 tỷ đồng (chưa bao gồm VAT). Công tác dịch vụ khách hàng được nâng cao, đã cung cấp 12/12 dịch vụ điện và chiếm trên 77% giao dịch qua Cổng dịch vụ công Quốc gia. Trong công tác đầu tư cấp điện nông thôn, miền núi, đặc biệt khu vực chưa có điện, các đơn vị của EVN đã chủ động thu xếp vốn với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ đồng để cấp điện cho gần 14.000 hộ dân chưa có điện thuộc các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Kon Tum, Bạc Liêu,... Về cấp điện hải đảo, trong năm, các Tổng công ty Điện lực đã hoàn thành các dự án cấp điện lưới quốc gia bằng cáp ngầm cho xã đảo Nhơn Châu (Bình Định), đảo Trần (Quảng Ninh); triển khai dự án Cấp điện cho huyện đảo Bạch Long Vỹ (Hải Phòng) và tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống cấp điện tại huyện đảo Trường Sa và nhà giàn DK1. Tính đến cuối năm 2020, số xã có điện trên cả nước đạt 100% và số hộ dân được sử dụng điện đạt 99,54%, trong đó số hộ dân nông thôn có điện đạt 99,3%. Tập đoàn đề ra mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh lộ trình ứng dụng khoa học công nghệ trong các hoạt động của Tập đoàn; tích hợp công nghệ kỹ thuật số và mô hình quản trị phù hợp với quá trình ứng dụng công nghệ kỹ thuật số vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn. Qua đó, gia tăng hiệu quả hoạt động, đổi mới sáng tạo, tối ưu hóa chi phí, nâng cao trải nghiệm và mức độ hài lòng khách hàng. Phấn đấu đến hết năm 2022, EVN cơ bản chuyển đổi thành doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp số. Thực hiện kế hoạch này, Tập đoàn sẽ triển khai các chương trình nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển doanh nghiệp số cho lãnh đạo Tập đoàn và các đơn vị; cán bộ quản lý các cấp; chuyên gia và cán bộ kỹ thuật; người lao động... Xây dựng và hoàn thiện lại quy trình quản lý kỹ thuật theo hướng sử dụng các thiết bị điện tử thông minh; tin học hóa trong sửa chữa theo phương pháp RCM cho các nhà máy điện; xây dựng và thử nghiệm quy trình quản lý tối ưu nhiên liệu; nghiên cứu và đưa ra yêu cầu số hóa tổng thể cho một nhà máy nhiệt điện than; thống nhất các nguồn dữ liệu, tích hợp thông tin từ các hệ thống phần mềm khác (CMIS, ERP, HRMS, ĐTXD). Hồng Thiết

Lễ bàn giao thiết bị đào tạo nhận diện hàng hóa lưỡng dụng Hoa Kỳ

TĐKT - Ngày 8/1, tại Trường Hải quan Việt Nam, Tổng cục Hải quan phối hợp với Đại sứ quán Hoa Kỳ tổ chức Lễ bàn giao thiết bị đào tạo nhận diện hàng hóa lưỡng dụng để chính thức tiếp nhận một số thiết bị đào tạo gồm: Máy tính xách tay, máy chiếu, loa,… với tổng trị giá gần 40.000 USD (tương đương hơn 900 triệu đồng) từ Chính phủ Hoa Kỳ. Lễ bàn giao Được biết, Việt Nam đã và đang tham gia các chương trình hợp tác có liên quan đến an ninh thương mại, chống khủng bố và bảo vệ an ninh toàn cầu như Chương trình Kiểm soát xuất khẩu và an ninh biên giới (EXBS) hợp tác với Hoa Kỳ, Chương trình ngăn chặn nguy cơ Hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân (CBRN) với EU, hợp tác về phòng, chống phổ biến vũ khí hàng loạt với BAFA (Đức)… Trong số đó, một trong những chương trình hợp tác hiệu quả nhất là chương trình Kiểm soát xuất khẩu và an ninh biên giới liên quan (EXBS) hợp tác với Hoa Kỳ. Trong những năm qua, trong khuôn khổ Chương trình Kiểm soát xuất khẩu và an ninh biên giới, Chính phủ Hoa Kỳ đã có nhiều hoạt động hỗ trợ cho Hải quan Việt Nam tăng cường năng lực ngăn chặn các hoạt động buôn bán trái phép những hàng hóa sử dụng cho mục đích phổ biến vũ khí hủy diệt. Các hỗ trợ từ Chính phủ Hoa Kỳ được thực hiện dưới nhiều hình thức, như tổ chức đào tạo, nâng cao nhận thức; hỗ trợ rà soát cơ sở pháp lý liên quan đến kiểm soát thương mại chiến lược; hỗ trợ xây dựng tài liệu giảng dạy về nhận diện hàng hóa lưỡng dụng và tài trợ một số trang thiết bị gồm thiết bị cầm tay, thiết bị soi chiếu cho hàng hóa và phương tiện vận tải và hành khách xuất nhập cảnh. Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục Hải quan Lưu Mạnh Tưởng phát biểu tại lễ bàn giao Thông qua việc hợp tác này, một lần nữa Việt Nam khẳng định quan điểm nhất quán của mình trong việc đấu tranh chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, ngăn chặn chống khủng bố, đồng thời thể hiện trách nhiệm của mình trong hợp tác quốc tế, đặc biệt trong việc đảm bảo an ninh, an toàn cho cộng đồng trong khu vực và trên thế giới. Trên tinh thần đó, Tổng cục Hải quan cam kết sẽ tạo mọi điều kiện hỗ trợ Trường Hải quan Việt Nam trong việc đảm bảo việc quản lý và sử dụng một cách hiệu quả nhất các thiết bị đào tạo nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng về ngăn chặn khả năng vận chuyển bất hợp pháp các vật liệu nguy hiểm, thông qua đó ngăn chặn hoạt động khủng bố, buôn lậu. Với những hệ thống đào tạo hiện đại, song song với những nỗ lực tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại và kinh doanh xuất nhập khẩu, hiệu quả của công tác quản lý và kiểm soát hải quan sẽ được nâng cao hơn nữa. Từ đó, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn quốc gia, an ninh chuỗi cung ứng thương mại khu vực và trên thế giới. Nhân dịp này, ông Lưu Mạnh Tưởng - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến toàn thể đội ngũ chuyên gia Hoa Kỳ đã tích cực hỗ trợ Hải quan Việt Nam trong khuôn khổ Chương trình Kiểm soát xuất khẩu và an ninh biên giới và đặc biệt là Chương trình đào tạo nhận diện hàng hóa lưỡng dụng, cảm ơn các Cơ quan của Chính phủ Hoa Kỳ đã dành cho Hải quan Việt Nam sự ủng hộ giúp đỡ quý báu góp phần đảm bảo an ninh, sự ổn định của Việt Nam nói riêng và trên khu vực và trên thế giới nói chung và mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác giúp đỡ của phía Hoa Kỳ trong các lĩnh vực nghiệp vụ trong quá trình cải cách và hiện đại hóa hải quan. Hồng Thiết  

Ngành Tài chính hoàn thành vượt kế hoạch nhiệm vụ tài chính ngân sách

TĐKT - Thực hiện chủ trương của Đảng về khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển đất nước; các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; toàn ngành Tài chính đã đoàn kết, đồng lòng, bám sát tình hình thực tiễn, chủ động đề xuất và triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp chính sách tài khóa, quyết tâm phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất nhiệm vụ tài chính - ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2020, góp phần tích cực thực hiện “nhiệm vụ kép” - vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì phục hồi và phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân, hoàn thành vượt kế hoạch nhiệm vụ tài chính ngân sách Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu khai mạc Hội nghị ngành Tài chính tổng kết năm 2020 và triển khai kế hoạch năm 2021 Ngay từ đầu năm 2020, Bộ Tài chính đã ban hành văn bản hướng dẫn các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai thực hiện dự toán chi NSNN năm 2020, trong đó yêu cầu chặt chẽ về thời gian phân bổ, nội dung phân bổ và tổ chức thực hiện dự toán, đảm bảo phù hợp với thực tế, triệt để tiết kiệm và phát huy hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách. Trong điều hành đã tăng cường công tác thanh tra tài chính - ngân sách, công tác kiểm soát chi NSNN, qua đó, phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các sai phạm. Trước tình hình phức tạp của dịch bệnh, cân đối NSNN khó khăn, Bộ Tài chính đã chủ động trình cấp thẩm quyền cho phép thực hiện những biện pháp, như: yêu cầu tiết kiệm 70% kinh phí hội nghị, công tác phí trong và ngoài nước và tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên khác còn lại của năm 2020; chưa thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lương hưu từ ngày 1/7/2020 nhằm chia sẻ khó khăn với nhà nước và người lao động; yêu cầu các địa phương chủ động điều hành ngân sách địa phương, trường hợp hụt thu thì phải chủ động sử dụng dự phòng ngân sách, quỹ dự trữ tài chính, tăng thu, tiết kiệm chi và các nguồn hợp pháp khác và cắt giảm các nhiệm vụ chi theo quy định của Luật NSNN. Tổng số kinh phí đã cắt giảm, tiết kiệm được của ngân sách trung ương là 49,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 4,6% dự toán Quốc hội giao. Quang cảnh hội nghị Nhờ chủ động trong điều hành, đến nay có thể khẳng định rằng chi NSNN năm 2020 đã hoàn thành mục tiêu đề ra, với tổng số chi ngân sách ước khoảng 1.781,4 nghìn tỷ đồng, đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn. NSNN đã chi trên 18 nghìn tỷ đồng cho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân vượt qua tác động của đại dịch Covid-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ số 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và số 37/NQ-CP của Chính phủ về một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch Covid-19. Ngân sách trung ương đã sử dụng khoảng 12,4 nghìn tỷ đồng dự phòng để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả bão, mưa lũ và khôi phục sản xuất sau thiên tai, dịch bệnh; xuất cấp gần 37 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói cho nhân dân, khắc phục hậu quả thiên tai và giáp hạt đầu năm. Các địa phương cũng chủ động sử dụng khoảng 8,2 nghìn tỷ đồng dự phòng ngân sách địa phương và nguồn lực tại chỗ để chi cho công tác phòng, chống dịch bệnh, khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất, cơ sở hạ tầng thiết yếu và hỗ trợ đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương. Điểm sáng trong tổ chức thực hiện chi ngân sách năm 2020 là tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển tiến bộ hơn so với năm trước, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương. Ước tính đến ngày 31/12/2020 chi đầu tư phát triển đạt 82,8% dự toán (cùng kỳ đạt 62,9% kế hoạch); phấn đấu đến hết thời điểm khóa sổ kế toán năm 2020 (ngày 31/01/2021) đạt 92 - 93% dự toán. Bên cạnh đó, đã thực hiện giải ngân vốn năm 2019 chuyển sang năm 2020 đạt khoảng 75% kế hoạch. Tính chung 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, tổng chi NSNN ước đạt khoảng 7,66 triệu tỷ đồng; tỷ trọng chi NSNN bình quân khoảng 28% GDP (giai đoạn 2011 - 2015 là 29,5% GDP). Cơ cấu chi tiếp tục chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển năm 2020 đạt trên 29% (mục tiêu là 25 - 26%), chi thường xuyên khoảng 63,1% tổng chi NSNN (mục tiêu là dưới 64%). Bên cạnh đó, để có được kết quả vượt trội, Bộ Tài chính đã tập trung triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài chính - NSNN, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính; hoàn thành 100% kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh được giao. Bộ Tài chính cũng đã thường xuyên rà soát, hệ thống hóa danh mục văn bản pháp luật; cập nhật thông tin về văn bản mới ban hành, đăng tải đầy đủ, kịp thời trên Cổng thông tin điện tử của Bộ và cơ sở dữ liệu quốc gia; tăng cường tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật, chính sách chế độ mới; hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho doanh nghiệp, người dân. Nhìn chung, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được triển khai thực hiện nghiêm túc, đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lượng, kể cả các đề án, nhiệm vụ phát sinh ngoài kế hoạch. Qua đó, không chỉ góp phần hoàn thiện khung khổ pháp lý trong lĩnh vực tài chính - NSNN, mà còn tích cực hỗ trợ cho công cuộc phòng, chống đại dịch Covid-19, tháo gỡ kịp thời khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân ứng phó với dịch bệnh. Cùng với việc ban hành, hoàn thiện thể chế pháp luật như nêu trên; trong triển khai thực hiện, Bộ Tài chính cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật, chính sách chế độ mới; thường xuyên tổ chức đối thoại, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho doanh nghiệp, người dân. Tính chung 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua 6 Luật; trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua 23 Nghị quyết của Quốc hội về các giải pháp, chính sách tài chính; trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 10 Nghị quyết; trình Chính phủ ban hành 159 Nghị định; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 42 Quyết định và ban hành theo thẩm quyền 799 Thông tư… Năm 2020 ,mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức lớn, tác động xấu nhiều mặt, ảnh hưởng nặng nề tới đất nước, song nhờ có sự chỉ đạo sát sao, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp với quyết tâm cao ngay từ đầu năm, Bộ Tài chính đã hoàn thành nhiều mục tiêu, nhiệm vụ tài chính - NSNN quan trọng mà Đảng và Nhà nước giao, góp phần vào hoàn thành thắng lợi mục tiêu chung của cả nước, đó là vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế, ổn định an ninh trật tự xã hội. Bước sang năm 2021, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, dự báo tình hình thế giới và trong nước cũng còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động không thuận lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2021. Do đó, đòi hỏi phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu của toàn ngành Tài chính nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính - NSNN đề ra. Hồng Thiết  

Tổng cục Thuế hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước

TĐKT - Năm 2020, Tổng cục Thuế triển khai thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngay từ đầu năm, Tổng cục Thuế đã chủ động đánh giá tác động của thiên tai, dịch bệnh đến số thu NSNN theo các kịch bản tăng trưởng; tham mưu cho Chính phủ, Bộ Tài chính về các phương án để chủ động cân đối NSNN năm 2020 và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hội nghị trực tuyến đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ thu – chi ngân sách năm 2020 Kết quả vượt trội Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế Cao Anh Tuấn cho biết, ngay từ những ngày đầu năm 2020, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các Cục Thuế triển khai dự toán thu ngân sách năm 2020, đồng thời phát động các phong trào thi đua phấn đấu hoàn thành dự toán thu NSNN; giao nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, nhiệm vụ quản lý thu nợ thuế năm 2020 cho Cục Thuế tỉnh, thành phố. Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các địa phương triển khai kịp thời, có hiệu quả các nhóm giải pháp quản lý thu, tập trung rà soát toàn bộ số doanh nghiệp (DN) đăng ký kinh doanh để đưa vào quản lý thuế, kiểm tra toàn bộ số người nộp thuế (NNT) báo ngừng hoạt động; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ công tác hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT), đảm bảo hoàn thuế đúng quy định của pháp luật; tăng cường công tác quản lý hóa đơn bán hàng... nhằm quản lý chặt chẽ số thu, động viên kịp thời nguồn lực cho ngân sách. Cùng với đó, kết quả thu năm 2020 do Tổng cục Thuế quản lý đạt 1.278.649 tỷ đồng, bằng 101,9% dự toán (vượt 24.349 tỷ đồng), vượt 175.849 tỷ đồng so với số ước thu đã báo cáo Quốc hội (trong đó thu ngân sách trung ương đạt 562.093 tỷ đồng, bằng 94,7% dự toán). Trong đó, thu từ dầu thô đạt 34.576 tỷ đồng, bằng 98,2% dự toán. Thu nội địa đạt 1.244.073 tỷ đồng, bằng 102% dự toán (vượt 24.973 tỷ đồng), vượt 173.773 tỷ đồng so với số ước thu đã báo cáo Quốc hội. So với dự toán, có 55/63 địa phương ước hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán, trong đó có một số địa phương vượt trên 10% như Ninh Bình, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Lào Cai… Có 41/63 địa phương có tăng trưởng thu. Để có được kết quả vượt trội, Tổng cục Thuế đã thực hiện chức năng quản lý thuế, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên tục được cải tiến dựa trên kinh nghiệm thực tiễn kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin và bộ tiêu chí đánh giá rủi ro. Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên căn cứ kế hoạch thanh, kiểm tra thuế đã được phê duyệt, Tổng cục Thuế đã yêu cầu Cục trưởng các Cục Thuế chỉ đạo bộ phận thanh, kiểm tra thực hiện phân tích chuyên sâu, phân loại rủi ro thông qua các báo cáo DN trên các ứng dụng của ngành thuế và thông tin thu thập khác. Đối với các DN chịu ảnh hưởng trực tiếp của dịch bệnh (nhà hàng, khách sạn, du lịch, hàng không,...) thì chưa thực hiện thanh, kiểm tra và xem xét phân tích rủi ro báo cáo cơ quan thuế cấp trên để thực hiện điều chỉnh kế hoạch theo quy định. Đối với các DN không chịu ảnh hưởng của dịch Covid – 19 và các DN có rủi ro cao, có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế thì thực hiện liên hệ với DN để sắp xếp thời gian thanh, kiểm tra tại DN. Kết quả, tính đến ngày 31/12, toàn ngành Thuế đã thực hiện được 83.979 cuộc thanh, kiểm tra tại trụ sở NNT; kiểm tra được 804.590 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra là 71.876 tỷ đồng, bằng 114,7% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: Tổng số thuế tăng thu vào ngân sách là 19.867 tỷ đồng, bằng 17,6% so với cùng kỳ; giảm khấu trừ là 2.248 tỷ đồng, giảm lỗ là 49.760 tỷ đồng, bằng 119,6% so với cùng kỳ. Tổng số tiền thuế nộp vào ngân sách là 12.435 tỷ đồng. Tích cực giảm nợ đọng thuế Để giảm nợ đọng thuế, Tổng cục Thuế đã tích cực tuyên truyền, phổ biến, giải thích các quy định pháp luật về nợ thuế cho người nộp thuế để nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế trong việc thực hiện các quy định nộp thuế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các khâu của công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế, điện tử hóa hệ thống quy trình nghiệp vụ quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ từ khâu ban hành thông báo nợ và quyết định cưỡng chế nợ, phân công, phân loại nợ đầy đủ, chính xác để tăng cường hiệu quả việc quản lý nợ thuế. Tổng cục Thuế đã xây dựng và giao chỉ tiêu thu nợ thuế năm 2020 đến từng Cục Thuế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ các Cục Thuế thực hiện áp dụng biện pháp cưỡng chế nợ, tiến độ thu nợ hàng tháng, công khai thông tin nợ thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tổ chức đánh giá tình hình thực hiện của các Cục Thuế; đôn đốc nhắc nhở và thông báo bổ sung những trường hợp nợ thuế mới phát sinh cho các Cục Thuế để tổ chức đôn đốc thu kịp thời các khoản nợ đọng thuế vào ngân sách. Tổng cục Thuế tham mưu cho Bộ Tài chính xây dựng Thông tư quy định hồ sơ và trình tự, thủ tục xử lý nợ theo Nghị quyết số 94/2019/QH14 ngày 26/11/2019 của Quốc hội. Chỉ đạo, hướng dẫn các Cục Thuế thực hiện xử lý gia hạn nộp thuế, miễn tiền chậm nộp đối với người nộp thuế bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 theo quy định của Luật Quản lý thuế và Nghị định 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Rà soát đôn đốc, cưỡng chế nợ thuế thu nợ ngay khi hết hạn gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Với việc tích cực triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp quản lý nên ngành thuế đã tăng thu cho ngân sách thêm hàng chục nghìn tỷ đồng. Tổng số tiền nợ thuế mà ngành thuế quản lý tính đến thời điểm cuối năm 2020 đã giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2019; tỷ lệ tổng nợ có khả năng thu trên tổng thu năm 2020 ở mức 4%.    Bên cạnh đó, bộ phận hỗ trợ người nộp thuế đã tích cực giải đáp, hỗ trợ quyết toán thông qua điện thoại, thư điện tử và hướng dẫn trực tiếp tại bộ phận một cửa. Cụ thể, đã trực tiếp hướng dẫn tại cơ quan thuế với hơn 100 ngàn lượt người; hỗ trợ qua điện thoại với trên 300 ngàn cuộc gọi, hỗ trợ trả lời trên 21.600 văn bản. Phát huy kết quả đạt được, trong năm 2021, cơ quan thuế sẽ tập trung triển khai một số giải pháp cụ thể. Thứ nhất, thực hiện tốt các giải pháp theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; các chỉ đạo của Bộ Tài chính. Cơ quan Thuế các cấp sẽ tổ chức rà soát toàn bộ nguồn thu năm 2021, giao chỉ tiêu phấn đấu tăng thu làm cơ sở để cơ quan thuế các cấp triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp quản lý thu ngay từ đầu năm. Dự báo sát tiến độ thu ngân sách, đánh giá, phân tích cụ thể từng địa bàn, từng sắc thuế, rà soát, xác định chính xác những nguồn thu còn tiềm năng, các lĩnh vực, loại thuế còn thất thu để kịp thời đề xuất các giải pháp về chính sách và quản lý thu hiệu quả. Thứ hai, theo dõi sát sao diễn biến tình hình sức khỏe DN để tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ đã triển khai năm 2020, tham mưu cho Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục ban hành các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người nộp thuế năm 2021... Thứ ba, trong năm 2021, ngành thuế sẽ tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu, đẩy mạnh thu hồi nợ đọng thuế, trong đó sẽ đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế; đẩy mạnh kiểm tra, kiểm soát kê khai, nộp thuế; quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế, đảm bảo hoàn thuế đúng đối tượng, theo đúng chính sách pháp luật; xây dựng và triển khai nhiệmvụ kế hoạch thanh tra, kiểm tra tập trung vào những doanh nghiệp thuộc ngành nghề, lĩnh vực có rủi ro cao. Đồng thời tổ chức rà soát số nợ thuế đến ngày 31/12/2020, xây dựng và giao chỉ tiêu thu nợ thuế năm 2021 cho cơ quan thuế các cấp, thực hiện các biện pháp đôn đốc và cưỡng chế thu nợ thuế theo đúng quy định, phấn đấu tổng số nợ thuế đến thời điểm 31/12/2021 không vượt quá 5% tổng thu ngân sách năm 2021. Cuối cùng là tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức cơ quan Thuế các cấp; chỉ đạo cơ quan thuế các cấp thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành, quản lý thu ngân sách, tăng cường phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tranh thủ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc chỉ đạo các cấp, các ngành tại địa phương phối hợp với cơ quan thuế trong công tác quản lý thu, chống thất thu, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tiếp tục duy trì và tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo chống thất thu, thu hồi nợ đọng thuế, tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân đẩy mạnh đầu tư, sản xuất, kinh doanh và đôn đốc người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời các khoản phải thu vào NSNN. Hồng Thiết      

Trang