Điển hình tiên tiến

Tiên phong đưa than củi Việt Nam vào thị trường Nhật Bản

BTĐKT - Lại Văn Hiệp (sinh năm 1988) là du học sinh đầu tiên của Việt Nam lựa chọn ngành Lâm nghiệp tại Trường Đại học quốc lập Utsunomiya thuộc tỉnh Tochigi của Nhật Bản để theo học. Với khát khao tạo dựng một thương hiệu vươn tầm số 1 thế giới cho sản phẩm được tạo ra bởi bàn tay và khối óc của người Việt Nam, năm 2015 anh bắt đầu nghiên cứu, khởi nghiệp sản xuất than trắng cao cấp Binchotan theo công nghệ Nhật Bản. Lựa chọn than củi để khởi nghiệp Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất miền Trung nắng táp, gió Lào, cảm nhận rõ những cực nhọc, mất mát của người thân mỗi khi có trận bão quét qua, chàng trai Lại Văn Hiệp luôn đau đáu trong mình khát vọng khởi nghiệp giúp những người xung quanh mình thoát khỏi cái đói, cái nghèo. Ngay từ khi còn là du học sinh, anh Hiệp đã tìm hiểu về sản phẩm rượu sake của Nhật Bản, nhận thấy sản phẩm này còn khá mới mẻ với thị trường Việt Nam, anh quyết tâm xây dựng hệ thống phân phối rượu sake tại Việt Nam, hình thành showroom ẩm thực Sake Nakama. Hệ thống vận hành thuận lợi với một showroom trưng bày tại Thành phố Hồ Chí Minh và chuỗi nhà hàng tại Hà Nội, anh Hiệp lại trăn trở khi lựa chọn khởi nghiệp không phải sản phẩm của quê hương khiến anh chợt bừng tỉnh. Năm 2015, anh chuyển nhượng toàn bộ hệ thống Sake Nakama, bắt đầu khởi nghiệp với sản phẩm mới là than củi. Lại Văn Hiệp kiên trì mang than củi Việt đi giới thiệu với các đối tác Nhật Bản Nhiều năm sinh sống và kinh doanh tại Nhật Bản đã giúp anh hiểu thêm về thị trường Nhật Bản, những lựa chọn tiêu dùng, quy chuẩn chất lượng… cộng thêm kiến thức từ trường học là động lực thôi thúc anh bắt tay vào khởi sự kinh doanh. Thời điểm đó, thị trường Nhật Bản đánh giá rất thấp về chất lượng than của Việt Nam dẫn đến cánh cửa cho than Việt vào Nhật Bản gần như đóng lại hoặc nếu có doanh nghiệp tiếp cận được thì sản phẩm chỉ nằm ở phân khúc thấp, giá thành rẻ, không gây được sự chú ý tới người tiêu dùng tại Nhật. Cùng lúc đó ở trong nước, hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn về tiêu thụ do thiếu đầu ra, chất lượng than không đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính, khiến thị phần vẫn có nhưng nguồn cung không tiếp cận được. Lúc này anh Hiệp cùng chuyên gia Nhật Bản nghiên cứu những yêu cầu chất lượng, đầu vào nguyên liệu và sản xuất thử nghiệm. Anh Hiệp cho biết, “nếu một doanh nghiệp sản xuất có sản phẩm rồi mới xây dựng thị trường hoặc doanh nghiệp dịch vụ có thị trường rồi mới bắt tay vào sản xuất thì tôi làm mọi thứ gần như là đồng thời. Tôi vừa sản xuất, vừa xây dựng thị trường và định hình phân khúc cho thương hiệu của riêng mình”. Trái ngọt từ những nỗ lực Nguyên liệu doanh nghiệp anh sử dụng là cây bạch đàn thuộc nhóm ngành năng lượng tái tạo bền vững, thân thiện với môi trường và góp phần giảm phát thải khí CO2. Những mẻ than ra lò, anh tập hợp thêm các mẫu than có chất lượng tốt nhất từ các doanh nghiệp cùng ngành trong nước mang đi chào hàng ở Nhật Bản. Ngay từ cuộc gặp đầu tiên đã khiến doanh nghiệp Nhật Bản hứng thú và bất ngờ với chất lượng than của Việt Nam. Lập tức một đoàn gồm 8 doanh nghiệp Nhật Bản đến thăm quan nhà xưởng, quy trình sản xuất than tại Việt Nam mở ra cơ hội hợp tác đầu tiên. “Muốn đi xa thì đi cùng nhau”, với định hướng đó, anh Hiệp thành lập Công ty TNHH thương mại Nguồn lực Biển Đông và kêu gọi gần 40 doanh nghiệp sản xuất than trong nước thành lập Hiệp hội Than củi Việt Nam cùng tập trung sản xuất, nâng cao chất lượng than của các doanh nghiệp trong Hiệp hội để tiến sâu hơn vào thị trường Nhật Bản. Nhờ sự quyết liệt trong hành động đó đã giúp các doanh nghiệp Việt – Nhật đều đặt niềm tin ở anh. Lại Văn Hiệp (ngoài cùng bên trái) đi khảo sát nguồn nguyên liệu ở nhiều địa phương Đầu ra đã được giải quyết nhưng nguồn nguyên liệu thì không như dự tính. Toàn bộ than củi xuất đi Nhật đều từ cây bạch đàn nhưng anh Hiệp lại không có thống kê về trữ lượng của nguyên liệu mà phải lặn lội đi tìm theo lời kể của người dân địa phương. Ban đầu khi khảo sát, hầu hết các khu vực đều được đánh giá là vùng có trữ lượng lớn, nhưng thực tế lại có nhiều nhầm lẫn giữa cây tràm với cây bạch đàn, hoặc nếu có vùng đúng nguyên liệu thì trữ lượng đánh giá không đúng với thực tế hoặc đúng nguyên liệu, đúng trữ lượng thì sản phẩm đầu ra lại không đạt các chỉ số thị trường yêu cầu. Anh Hiệp phải mất 4 năm, mở 4 nhà xưởng tại các tỉnh Nghệ An, Bình Thuận, Trà Vinh, Bình Định, Long An để sản xuất, so sánh và đối chiếu chất lượng. Trải qua nhiều lần mở xưởng rồi phải đóng lại do thiếu nguồn nguyên liệu, tiền vốn cũng lần lượt đội nón ra đi, nhưng với tinh thần bại không nản, cuối cùng điểm sản xuất ở Bình Thuận đã đáp ứng được trữ lượng nguyên liệu và chất lượng sản phẩm đầu ra để duy trì và mở rộng sản xuất. Xưởng than đóng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận của Công ty TNHH thương mại Nguồn lực Biển Đông Đến nay, xưởng đã có 100 lao động với mức lương trung bình công nhân nam 10,5 triệu đồng/tháng, công nhân nữ 7 triệu đồng/tháng; sản lượng sản xuất đạt 2000 tấn than trắng/năm, 1300 tấn than đen/năm. Khi đại dịch Covid-19 có những chuyển biến phức tạp, liên kết sản xuất và cung cầu bị gián đoạn, hàng loạt doanh nghiệp rời bỏ thị trường nhưng đây lại chính là cơ hội cho anh Hiệp trở mình. Các doanh nghiệp sản xuất than các nước trong khu vực không thể đáp ứng được nhu cầu thị trường mở ra dự địa lớn, anh Hiệp nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh vào sản xuất, không những không phải cắt giảm nhân sự mà còn tạo được việc làm thường xuyên cho lao động, lượng nhân công tăng 20% so với trước dịch, cùng với đó là tăng 15% lương và trợ cấp cho người lao động. Để vững vàng vượt dịch, trước đó, ngay khi tiếp cận được thị trường Nhật Bản, anh Hiệp đã nhanh chóng thâm nhập vào các kênh bán lẻ, siêu thị tại đây. Đại dịch bùng nổ, nhà hàng bị đóng cửa nhưng nhu cầu nướng tại nhà lại tăng lên bất ngờ khiến lượng than xuất khẩu của anh không những không bị giảm xuống mà còn tăng lên. “Thực ra bản thân tôi cũng không hề dự đoán được thị trường mà bởi khi đưa sản phẩm vào Nhật Bản tôi vẫn muốn đa dạng được kênh bán hàng để không bị phụ thuộc, thụ động”, anh Hiệp nói. Cùng lúc đó, anh cũng tiếp cận thành công thị trường Mỹ, Malaysia, Úc mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới. Thắng không kiêu, anh Hiệp luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, chỉ dẫn từng bước để các doanh nghiệp sản xuất trong nước, thậm chí là doanh nghiệp của nước bạn Lào tham gia vào các thị trường có yêu cầu chất lượng cao như Nhật Bản. Song, anh cũng khẳng định, các thị trường nước ngoài khó tiếp cận, bởi chúng ta tiếp cận họ bằng các thông số định tính, không có đánh giá, không có chỉ số về độ cứng, độ ẩm, sinh nhiệt, tỏa nhiệt, thời gian cháy… nên không đủ sức thuyết phục với đối tác. Khi giải quyết được điểm mấu chốt, đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật thì việc duy trì đơn hàng với đối tác lại rất thuận lợi. Nhưng không phải vì thế mà các doanh nghiệp được phép lơ là về chất lượng sản phẩm.“Một thương hiệu có chỗ đứng trên thương trường phải dựa vào cả 2 yếu tố: Chất lượng của chính sản phẩm và chất lượng của cách thức vận hành doanh nghiệp cũng như tư duy của người đứng đầu doanh nghiệp đó”, anh Hiệp chia sẻ. Lê Văn Công

Góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong ngành Y tế

BTĐKT - Với mong muốn đồng hành cùng Chính phủ trong quá trình chuyển đổi số ở lĩnh vực y tế, chàng trai Nguyễn Minh Kiều (sinh năm 1984) cùng với tập thể Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch Vụ Song Ân đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu, cung cấp các giải pháp quản lý các cơ sở y tế như bệnh viện, phòng khám, nhà thuốc, viện dưỡng lão,... thi công, tư vấn giải pháp cho các công ty, xí nghiệp, cơ quan, đơn vị trên mọi miền đất nước. Qua đó, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong ngành Y tế, giúp cho người dân được hưởng nhiều lợi ích trong khám, chữa bệnh. Sản phẩm Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis là “đứa con” đặc biệt của Nguyễn Minh Kiều cùng với tập thể Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch Vụ Song Ân đã ấp ủ, nỗ lực nghiên cứu và xây dựng từ năm 2009. Đây được coi là giải pháp hoàn hảo để quản lý bệnh viện một cách chuyên nghiệp và chặt chẽ các khâu từ quản lý bệnh nhân, khám chữa bệnh ngoại trú, nội trú, phòng lưu, phòng mổ, quản lý chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm, quản lý kho, quản lý viện phí, quản lý kho trang thiết bị, quản lý nhân sự, tiền lương... Tất cả đều chung một hệ thống xuyên suốt và đồng bộ giúp tiếp kiệm thời gian và chính xác các khâu. Anh Nguyễn Minh Kiều, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch vụ Song Ân nhận Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam năm 2019 Được xây dựng từ năm 2009 dựa trên một hệ thống mở, Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis phục vụ cho việc phân tích điều hành tại bệnh viện, nghiên cứu khoa học, đồng thời dễ dàng mở rộng hệ thống, nâng cấp phiên bản mới; hỗ trợ tối ưu cho việc kết nối, trao đổi thông tin với các bệnh viện, các trạm y tế phường xã trong khu vực cũng như hỗ trợ xây dựng báo cáo gửi đến các Sở Y tế, Bộ Y tế. Hiện nay, Ehis đã được triển khai tại các cơ sở y tế của hơn 5 tỉnh, thành trên cả nước. Năm 2023, Ehis Song Ân đang từng bước chuyển đổi số hoàn toàn trong khám chữa bệnh, chuyển dần đến hồ sơ bệnh án điện tử hoàn toàn, không chỉ là số hóa giấy tờ, hồ sơ bệnh án để lưu trữ, phục vụ công tác tra cứu mà còn mang tính chất hệ thống, có giá trị pháp lý tương đương và thay thế cho hồ sơ giấy hiện vẫn còn đang thực hiện ở giai đoạn này. Từng bước nâng cao và phát triển các tính năng, không ngừng nâng cấp để đáp ứng với các yêu cầu mới và thách thức mới trong ngành Y tế, cam kết với việc đưa ra các giải pháp y tế điện tử tiên tiến, Ehis đã vượt qua mục tiêu của mình và hoàn thành tính năng chữ ký số cho đơn thuốc điện tử, hồ sơ bệnh án và giấy khám sức khỏe, liên thông phiếu khám sức khỏe lái xe cùng nhiều hồ sơ giấy tờ khác theo các thông tư, quyết định, văn bản của BHXH và Bộ Y tế ban hành. Đến nay, Ehis không chỉ đáp ứng đúng theo quy định thông tư và quyết định của Bộ Y tế, mà còn vượt xa sự mong đợi, tập trung vào việc tối ưu hóa trải nghiệm người dùng, chủ động nâng cấp trước thời hạn. EHIS không chỉ cung cấp hệ thống mà còn đồng hành hỗ trợ các y, bác sĩ qua các chương trình đào tạo liên tục trong suốt quá trình sử dụng để giúp y, bác sĩ sử dụng hệ thống thành thạo và hiệu quả. Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis vinh dự đạt giải Ba, Giải thưởng “Y tế thông minh năm 2018” Ông Nguyễn Long, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội Tin học Việt Nam đánh giá: Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo thông tư 54 của Bộ Y tế ban hành, góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, giảm gánh nặng tinh thần cho y bác sĩ và cả ngành Y, giúp xây dựng phác đồ điều trị thông minh, hạn chế sự cố y khoa do thông tin sai lệch vì thất thoát hồ sơ, hay do chữ viết tay trong hồ sơ bệnh án không đọc được chính xác.  Ehis vinh dự đạt giải Ba, Giải thưởng “Y tế thông minh năm 2018” và Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam năm 2019. Không ngừng tỏa rộng, vươn xa Được biết, ngoài Hệ sinh thái phần mềm quản lý bệnh viện Ehis, anh Kiều và tập thể Công ty Song Ân còn làm chủ nhiều sản phẩm công nghệ y tế chất lượng khác như: Phần mềm quản lý phòng khám E-Clinic, Phần mềm quản lý nhà thuốc E-Med, Phần mềm quản lý Viện dưỡng lão E-Nursinghome cũng không ngừng cải tiến qua từng giai đoạn và đồng hành song song trong công cuộc phát triển, hội nhập ứng dụng cao công nghệ 4.0 vào trong công tác quản lý y tế. Hiện hệ thống sản phẩm phần mềm của Song Ân đã và đang được tin dùng ở hơn 50 bệnh viện, hơn 1000 phòng khám và trạm y tế xã, phường, 1500 nhà thuốc và 2 viện dưỡng lão trải dài trên khắp cả nước, từ Bắc tới Nam, hỗ trợ tối ưu công tác khám chữa bệnh. Khi được hỏi tại sao giữa nhiều vùng đất, nhiều lĩnh vực, anh lại lựa chọn dấn thân khởi nghiệp vào chuyển đổi số y tế, doanh nhân trẻ Nguyễn Minh Kiều chia sẻ: “Khi Song Ân ra đời thì việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Y tế đã được phát động và triển khai rồi. Lúc đó, các ông lớn trong ngành là VNPT, Viettel đã triển khai rất rầm rộ, thậm chí là miễn phí. Duy chỉ có các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa là đi lại còn nhiều khó khăn, hạ tầng chưa hoàn thiện nên thị trường các tỉnh này còn bỏ ngỏ. Việc bắt đầu xây dựng Ehis từ Điện Biên vừa là lựa chọn phần ít mầu mỡ nhất trong một mảnh ruộng lớn sẽ dễ tiếp cận hơn, vừa là khẳng định việc Song Ân sẵn sàng cắm bản, đồng hành cùng các cơ sở y tế, gây dựng niềm tin và uy tín với các đối tác sau này”. Anh Kiều cho biết, việc phát triển phần mềm cho ngành Y tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đặc biệt, do tính chất đặc thù và yêu cầu cao về bảo mật và chất lượng, bám sát các thông tư, quy định của các Bộ Y tế ban hành. Khó khăn nhất là phải hiểu và nắm rõ nhu cầu thị trường theo từng thời điểm, hiểu rõ nhu cầu của bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ y tế để sản phẩm đầu ra đáp ứng đầy đủ các tiêu chí khách hàng yêu cầu. Cùng lúc đó, các biến động trong chính sách y tế có thể ảnh hưởng đến phần mềm, yêu cầu điều chỉnh và cập nhật liên tục. Cộng thêm, chuyển đổi số trong từng năm lại có sự khác biệt do đó doanh nghiệp buộc phải thay đổi để phù hợp với thực tiễn hoạt động của các cơ sở y tế. Trong khi đó, Song Ân lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong phát triển sản phẩm đặc thù nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong khâu sản xuất và triển khai thực tế, kiểm soát chất lượng, kiểm thử phần mềm trong khi mức độ cạnh tranh cùng lĩnh vực rất cao, bối cảnh kinh tế có nhiều biến động, khách hàng sụt giảm, hạn chế nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh… Vượt qua những khó khăn, 14 năm không ngừng phấn đấu vươn lên, tập thể Công ty Song Ân luôn đoàn kết, nỗ lực tạo ra những phần mềm ưu việt đã và đang chinh phục nhiều khách hàng, từng bước khẳng định vị thế của một trong những đơn vị hàng đầu về CNTT, cung cấp phần mềm quản lý phục vụ ngành Y tế. Theo anh Nguyễn Minh Kiều: “Việt Nam đang trên đường phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản trị là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của quốc gia. Nhiều dự án công nghệ thông tin trong các công ty, xí nghiệp, cơ quan, đơn vị, hệ thống thông tin quản trị trong các bệnh viện đang triển khai trên toàn quốc và việc xây dựng những hệ thống quản trị như thế là nhu cầu hết sức cấp thiết. Đáp ứng lại các mục tiêu của quốc gia, chúng tôi luôn muốn làm hết sức mình để góp phần vào công cuộc hội nhập quốc tế và đổi mới đất nước” . Lê Thị Phượng

Giao lưu điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua 'Vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau'

Chương trình Gala gặp mặt, giao lưu điển hình tiên tiến tiêu biểu trong phong trào thi đua “Vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” năm 2023, do Ban Thi đua – Khen thưởng (Bộ Nội vụ) tổ chức, đã diễn ra sáng 15/12, tại Hà Nội. Giao lưu với các điển hình trong phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau" năm 2023. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN Chương trình là sự kiện ý nghĩa, nhằm tuyên truyền những kết quả đạt được trong năm 2021-2023; đồng thời cổ vũ, động viên các địa phương tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và cộng đồng, phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân, tập thể và gia đình, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách, chương trình giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Tham gia giao lưu tại Chương trình Gala là 10 nhân vật đại diện cho 30 tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trong Phong trào thi đua “Vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 - 2023, với những câu chuyện truyền cảm hứng về những tấm gương nỗ lực, quyết tâm vươn lên thoát nghèo, làm giàu; chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức thực hiện, về xây dựng mô hình sinh kế để giảm nghèo bền vững. Anh Triệu Văn Hòn, tỉnh Cao Bằng, giao lưu tại chương trình. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN Đó là anh Triệu Văn Hòn (dân tộc Sán Chỉ), Trưởng thôn Nà Mon, xã Nam Cao, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng, người tiên phong trồng và sản xuất tinh dầu cây sả Java. Anh đã vận động 124/154 hộ tham gia mô hình trồng cây sả, thu nhập bình quân 50 đến 100 triệu đồng/năm/hộ. Năm 2023, anh là một trong 150 đại biểu có uy tín tiêu biểu, xuất sắc dự Hội nghị biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Hay anh Lã Văn Buốn (dân tộc Tày), thôn Bản Dọn, xã Lộc Yên, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn với mô hình trồng cây ăn quả (hồng không hạt Bảo Lâm - đặc sản của địa phương) mang lại thu nhập 500 triệu đồng/năm. Gia đình anh đã thoát nghèo và giúp đỡ nhiều hộ khác trong thôn. Chia sẻ tại Chương trình, ông Nguyễn Tấn Bản, Chủ tịch UBND huyện Châu Đức cho biết, là một huyện thuần nông, thuộc vùng sâu, vùng xa, Châu Đức cũng là địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất trên toàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với 15 dân tộc thiểu số anh em cùng sinh sống. Đến cuối năm 2023, huyện Châu Đức không còn hộ nghèo theo chuẩn của tỉnh (thoát nghèo 610/610 hộ, đạt 100% kế hoạch), hoàn thành mục tiêu giảm nghèo của cả giai đoạn sớm 2 năm. Nói về mô hình “Biến rác thải thành tiền”, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thái Bình Nguyễn Thị Minh Hiền cho biết, mô hình do Hội phát động với tên gọi ban đầu là “Thu gom phế liệu bảo vệ môi trường”, thực hiện ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư. Mô hình đã mang lại hiệu quả thiết thực, nâng cao ý thức của cán bộ, hội viên phụ nữ và người dân trong việc bảo vệ môi trường, đồng thời giúp hội xây dựng được nguồn quỹ để thực hiện các hoạt động giảm nghèo, nhân đạo từ thiện. Khi thực hiện mô hình này, Hội phải dày công vận động hội viên phân loại rác thải ngay tại hộ gia đình. Trước đây khi vận động gây quỹ nhân ái, hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, Hội phải quyên góp bằng tiền thì nay, người dân ủng hộ bằng vật liệu có thể tái chế được. Từ mô hình ban đầu, đến nay đã có trên 900 mô hình của 231 xã/260 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Số tiền thu được đã lên tới 1,7 tỷ đồng, để làm những việc hết sức nhân văn như thực hiện chương trình “Mẹ đỡ đầu” (các cấp hội đã nhận đỡ đầu và kết nối đỡ đầu cho 824 cháu có hoàn cảnh khó khăn), mua xe đạp "Nâng bước em đến trường", hỗ trợ gia đình hội viên nghèo... Mô hình đã lan tỏa, phát huy tinh thần thương thân tương ái trong cộng đồng và được lựa chọn là mô hình “dân vận khéo” của tỉnh. Nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng về định hướng giảm nghèo bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã phát động phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2016 - 2020. Phong trào đã góp phần cải thiện rõ rệt đời sống người dân, đặc biệt là các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao đã có tiến bộ rõ rệt trong công tác giảm nghèo. Các dịch vụ cơ bản cho người dân hưởng thụ như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt, tiếp cận thông tin, vay vốn ưu đãi được các cấp, các ngành quan tâm, hỗ trợ, bộ mặt nông thôn đã có nhiều thay đổi và khởi sắc. Tiết mục biểu diễn văn nghệ tại buổi giao lưu. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN Công tác an sinh, chăm lo đời sống cho người nghèo tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm, nhất là một số tỉnh đã có sự quan tâm lớn, có hiệu quả để người dân được vay vốn, chủ động sản xuất, làm ăn vươn lên thoát nghèo. Phong trào thi đua đã tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đóng góp cho những thành tựu giảm nghèo nổi bật của Việt Nam thời gian qua, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác giảm nghèo bền vững, ghi nhận, cổ vũ, động viên, khích lệ sự quan tâm vào cuộc và phát huy trách nhiệm của người dân cả nước trong thực hiện công tác giảm nghèo và vì người nghèo, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 666/QĐ-TTg về Kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 – 2025. Phong trào nhằm phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và cộng đồng trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tinh thần chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân, tập thể và gia đình, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách, chương trình giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Việc thực hiện phong trào thi đua đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong các phong trào thi đua của các bộ, ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội; UBND các tỉnh, thành phố; các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp và các cụm, khối thi đua giai đoạn 2021-2023. Năm 2023, ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,93%, (giảm 1,1%); tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33% (giảm 5,62%). Ước tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao. Dự kiến cuối năm 2023 có thêm 9 xã thoát khỏi xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo, sẽ góp phần đạt tiêu chí để được công nhận hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới đối với 10/54 xã, đạt khoảng 18,5% so với mục tiêu 30% vào cuối năm 2025 theo chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. Theo TTXVN  

Tiến sĩ trẻ đam mê nghiên cứu khoa học

BTĐKT - Luôn gương mẫu, trách nhiệm trong mọi công việc, được học trò yêu quý, kính trọng, được tập thể lãnh đạo, đồng nghiệp tín nhiệm, đặc biệt là có nhiều đổi mới, sáng tạo trong công việc, đó là nhận xét của nhiều thầy, cô giáo và học sinh, sinh viên khi nói về thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyên (sinh năm 1993), giảng viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyên, giảng viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên. Sinh ra và lớn lên ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, sau khi tốt nghiệp thủ khoa ngành Thú y tại Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên vào tháng 1/2016, Tuyên đã xung phong lên vùng cao biên giới, chọn Điện Biên là điểm dừng chân, với mong muốn đem tri thức đến với vùng cao, phát triển kinh tế cho người dân nơi đây. Với những thành tích học tập, nghiên cứu khoa học xuất sắc, Nguyễn Văn Tuyên, giảng viên Khoa Kỹ thuật Nông, lâm nghiệp - Xây dựng (Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên) đã được đặc cách học thẳng lên tiến sĩ mà không cần qua bậc thạc sĩ. Tháng 9/2022, anh đã xuất sắc bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của mình trước Hội đồng, chính thức trở thành tiến sĩ thú y đầu tiên của tỉnh Điện Biên khi vừa bước sang tuổi 29. Bạn bè và người thân chúc mừng Nguyễn Văn Tuyên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyên không những đã khẳng định được năng lực chuyên môn mà còn có bảng thành tích đồ sộ về nghiên cứu khoa học. Từ đó đã giúp anh đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Tuyên đã và đang đóng góp công sức, trí tuệ làm thay đổi dần tư duy của người nông dân về việc phát triển chăn nuôi, chăn nuôi theo khoa học kỹ thuật, lấy chăn nuôi làm nền tảng trong cơ cấu nội tại của ngành Nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng. “Mặc dù có rất nhiều khó khăn, song công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học là những công việc đúng sở trường và tôi vô cùng tâm huyết. Cũng như nhiều thầy, cô giáo khác, tình yêu nghề nghiệp là động lực giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống đời thường và trong công việc để trở thành một nhà giáo, một nhà khoa học với đúng nghĩa của hai cụm từ cao quý này”, anh chia sẻ. Anh suy nghĩ rất đơn giản là: “Đã không làm thì thôi, đã làm là làm cho bằng được, làm với chất lượng và hiệu quả cao nhất, sáng tạo nhất mà bản thân mình có thể cố gắng được”. Từ niềm đam mê nghiên cứu khoa học, Tiến sĩ Tuyên đã dành nhiều thời gian, công sức và tâm huyết cho công việc này. Vừa giảng dạy, vừa cùng học sinh, sinh viên và đồng nghiệp đến các địa phương để phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, thu thập mẫu, nghiên cứu, tìm hiểu các loại dịch bệnh phổ biến của gia súc, gia cầm để có các biện pháp điều trị hiệu quả... Dấu chân của anh và các cộng sự đã in dấu ở khắp các địa phương của tỉnh. Các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học của anh chủ yếu liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi, thú y, như: “Xây dựng bản đồ dịch tễ và đánh giá sự lưu hành của virus dịch tả lợn châu Phi tại tỉnh Điện Biên”, “Xây dựng bộ hình ảnh về đặc điểm phân loại, hình thái và xác định sự phân bố các loài giun, sán ký sinh ở đường tiêu hóa và hô hấp của lợn tại tỉnh Điện Biên”, “Xây dựng mô hình nuôi gà J-Dabaco trên đệm lót sinh học tại trại thí nghiệm - thực hành Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên”…  Một trong những đề tài anh rất tâm đắc là: “Xây dựng bản đồ dịch tễ và đánh giá sự lưu hành của virus dịch tả lợn châu Phi tại tỉnh Điện Biên”. Theo anh, đây là đề tài khá hay, được thực hiện để giải quyết vấn đề cấp thiết của thực tiễn, bởi hiện nay căn bệnh dịch tả lợn châu Phi đang là nỗi lo lớn, gây nhiều thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi, do đó việc đánh giá diễn biến tình hình dịch, giám sát được sự lưu hành của virus dịch tả lợn châu Phi, cung cấp tài liệu thực tiễn, đã giúp các cơ quan chuyên môn của tỉnh chủ động trong công tác phòng, chống dịch, giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh khi có dịch phát sinh để góp phần phát triển ngành chăn nuôi lợn của tỉnh theo hướng bền vững. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyên báo cáo kết quả đề tài khoa học Mặc dù nghiên cứu khoa học là lĩnh vực có nhiều thử thách, khó khăn với nhiều chông gai, đặc biệt đối với một tỉnh miền núi như Điện Biên thì khó khăn tăng gấp nhiều lần, nhưng là một nhà giáo năng lực, nhiệt huyết, anh đã vượt qua những rào cản. Đến nay, anh đã chủ trì và tham gia thực hiện 9 nhiệm vụ nghiên cứu khoa học các cấp, có trên 20 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành uy tín và báo cáo khoa học tại các hội thảo trong nước, quốc tế. Trong đó có 2 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí danh tiếng quốc tế thuộc danh mục ISI tạp chí khoa học quốc tế chuyên ngành uy tín theo xếp hạng của Web of Science - WoS, với vai trò tác giả chính; 5 bài báo đăng trên các tạp chí danh tiếng quốc tế thuộc danh mục cơ sở dữ liệu khoa học Trung tâm Trích dẫn ASEAN (ASEAN Citation Index - ACI), được Hội đồng Chức danh giáo sư cấp Nhà nước đánh giá cao; 2 báo cáo khoa học tại các hội thảo trong nước, quốc tế; 12 bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành uy tín trong nước. Hầu hết các đề tài do anh làm chủ nhiệm đều được ứng dụng vào công tác chăn nuôi, phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm ở các huyện, thành, thị của tỉnh, giúp các cơ quan chuyên môn của tỉnh giám sát tốt dịch bệnh, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết của gia súc, gia cầm ở các địa phương. Ngoài ra, anh còn chủ trì và tham gia biên soạn sách giáo trình - tham khảo - chuyên khảo phục vụ đào tạo cho học sinh, sinh viên… Ít khi nói về những thành công trong việc giảng dạy, nghiên cứu của mình, khi được hỏi, anh chỉ chia sẻ: "Thành công của tôi là công sức của cả một tập thể những nhà khoa học của nhà trường, của Khoa Kỹ thuật Nông, lâm nghiệp - xây dựng và cả các thế hệ học sinh, sinh viên nữa. Để dành trọn tâm huyết cho nghề nghiệp, ngoài việc tự thu xếp, cân đối hợp lý giữa công việc ở trường với công việc cá nhân, tôi còn có sự ủng hộ rất nhiệt tình của gia đình. Ngoài danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, Nhà giáo trẻ tiêu biểu tỉnh Điện Biên, các bằng khen, giấy khen của UBND tỉnh Điện Biên, Tỉnh đoàn Điện Biên, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội)… thì phần thưởng lớn nhất của tôi chính là những kết quả khả quan thu được sau quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và được ứng dụng rộng rãi trong việc phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm, góp phần phát triển chăn nuôi, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con các dân tộc khu vực trung du miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng…”. Trần Bình  

Bác sĩ hết lòng vì người bệnh

BTĐKT - Với tấm lòng hết mình vì người bệnh và sự phấn đấu, học hỏi không ngừng nghỉ, bác sĩ chuyên khoa I Trương Trung Kiên, Trưởng Trạm Y tế phường Tân Hương (TP Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) đã đưa ra nhiều nghiên cứu khoa học áp dụng thực tiễn, mang lại hiệu quả cao tại đơn vị. Các sáng kiến của anh cũng được mở rộng áp dụng tới các địa phương khác, góp phần nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh ban đầu cho nhân dân ở tuyến cơ sở. Bác sĩ Kiên luôn chăm sóc tận tình cho bệnh nhân Trở về quê hương sau khi hoàn thành bằng Trung cấp Y và thời gian nghĩa vụ quân sự, chàng thanh niên Trương Trung Kiên khoác lên mình chiếc áo blouse trắng, nhận nhiệm vụ y sĩ tại Trạm Y tế xã Tân Hương (nay là phường Tân Hương), TP Phổ Yên. Xác định trọng trách của người đứng đầu trạm y tế trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, y sĩ Kiên không ngừng tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, trở thành một trong những bác sĩ chuyên khoa I đầu tiên ở tuyến y tế cơ sở trong toàn tỉnh. Ngoài ra, anh còn chịu khó nghiên cứu tài liệu, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao kinh nghiệm quản lý, thực hiện các chương trình mục tiêu y tế, dân số, chăm sóc sức khỏe nhân dân, vận dụng một cách sáng tạo tại địa phương của mình. Để thay đổi ý thức của người dân trong việc phòng, chống dịch bệnh, bác sĩ Kiên đã cùng với nhân viên của trạm đi đến từng hộ dân để tuyên truyền, vận động bà con, đồng thời hướng dẫn cụ thể về cách phòng tránh các dịch bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, tay chân miệng, Covid-19, sởi, tiêu chảy… Ông Nguyễn Mạnh Cường, tổ dân phố Hương Đình, phường Tân Hương, TP Phổ Yên chia sẻ: “Nhiều hôm sau khi đã khám tại Trạm Y tế, bác sĩ Kiên còn đến tận nhà để xem bệnh của mẹ tôi tiến triển thế nào. Không quản ngại mưa nắng, đêm hôm, bác sĩ Kiên thường xuyên thăm khám. Trạm trưởng là người đã giúp mẹ tôi trở về từ cõi chết. Đây là điều tôi rất trân trọng”. Bác sĩ Kiên trực tiếp đến tận nhà thăm khám cho bệnh nhân Với vai trò lãnh đạo của mình, bác sĩ Kiên còn chỉ đạo nhân viên trạm y tế xây dựng kế hoạch phối hợp với các ngành, đoàn thể mở nhiều đợt tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn thực hiện phòng, chống dịch bệnh theo mùa. Chú trọng chỉ đạo triển khai tiêm phòng cho trẻ em trong độ tuổi do Bộ Y tế quy định. Thường xuyên cử nhân viên trực 24/24h để nắm bắt và theo dõi tình hình sức khỏe của trẻ em sau tiêm chủng vắc xin, kịp thời xử lý các trường hợp cấp cứu tai nạn, điều trị bệnh… Trạm cũng thường xuyên kiểm tra định kỳ, đột xuất, các cơ sở kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, giám sát các cơ sở ngoài thẩm quyền quản lý, báo cáo kịp thời lên tuyến trên các trường hợp vi phạm về vệ sinh, an toàn thực phẩm vượt quá thẩm quyền của mình. Nhờ đó, trong nhiều năm qua, các hoạt động của trạm y tế xã đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Chia sẻ về công việc của mình, bác sĩ Kiên cho biết: Từ khi ngồi trên ghế nhà trường và cho đến hôm nay, mỗi khi mệt mỏi hay gặp khó khăn trong công việc, cuộc sống, anh luôn tự nhắc nhớ lời dạy của Bác “Lương y như từ mẫu” để động viên mình phải nỗ lực vượt qua, tạo được niềm tin cho mỗi người bệnh. Ngoài ra, gánh vác vai trò người quản lý đơn vị, khối lượng công việc nhiều, tần suất hoạt động lớn trong khi lực lượng mỏng, một cán bộ y tế phải cùng lúc đảm đương nhiều nhiệm vụ song ai cũng nỗ lực không ngừng nhằm bảo vệ sự an toàn cộng đồng, vì vậy bản thân anh phải nỗ lực phấn đấu, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; luôn gần gũi, tạo mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa các đồng nghiệp để xây dựng đơn vị ngày càng phát triển, trở thành địa chỉ tin cậy trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân địa phương. Bên cạnh việc chăm lo sức khỏe cho người dân, bác sĩ Kiên còn tích cực nghiên cứu khoa học, đưa ra các giải pháp thực tiễn, hiệu quả tại đơn vị, có thể triển khai tại các địa phương khác. Năm 2020, anh có sáng kiến đề tài “Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống bệnh ung thư tuyến giáp ở người dân lứa tuổi 40 - 65 tại xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên” được Hội đồng Nghiên cứu khoa học Sở Y tế thông qua. Năm 2021, bác sĩ Kiên có sáng kiến “Thực trạng kiến thức, thái độ thực hành phòng, chống bệnh tăng huyết áp tại xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên” được đánh giá cao. Với sự năng động, sáng tạo trong công tác quản lý, điều hành công việc của một người trưởng trạm, tận tâm với sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, anh luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, bác sĩ Trương Trung Kiên là tấm gương tiêu biểu của đội ngũ cán bộ y tế cơ sở TP Phổ Yên. Nhiều năm liền bác sĩ Trương Trung Kiên đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở; được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên và Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế. Riêng năm 2023, bác sĩ Kiên vinh dự là 1 trong 10 “Công dân tiêu biểu Thái Nguyên”. Bảo Linh

Người thầy đam mê sáng tạo, truyền cảm hứng cho học trò

BTĐKT - Tâm huyết, sáng tạo không ngừng để mang lại cho học sinh những giờ học trực quan, sinh động, dễ hiểu nhất, thầy giáo Đào Thanh Tuấn, giáo viên Trường TH &THCS Nhuế Dương, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên luôn được học trò tin yêu, đồng nghiệp quý mến. Không chỉ giỏi nghiệp vụ sư phạm, anh còn có nhiều sáng kiến đổi mới được áp dụng thành công trong việc giảng dạy, được các cấp ghi nhận và đánh giá cao. Thầy giáo Đào Thanh Tuấn hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm Vốn là cựu sinh viên khoa sinh hóa Trường Cao đẳng Sư phạm Hưng Yên, năm 2002, anh Đào Thanh Tuấn về Trường TH&THCS Nhuế Dương công tác và tham gia giảng dạy môn Sinh học trong Tổ Hóa - Sinh. Nhiều năm giữ chức vụ Bí thư Đoàn trường, anh đã góp phần thúc đẩy các hoạt động phong trào trong nhà trường. Hiện nay, anh là Tổ phó Tổ Khoa học Tự nhiên. Anh cũng tham gia tổ nghiệp vụ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Khoái Châu, tham gia tổ nghiệp vụ và là cộng tác viên thanh tra của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hưng Yên. Hơn 20 năm gắn bó với nghề, thầy giáo Đào Thanh Tuấn luôn gương mẫu, đi đầu trong các phong trào thi đua, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Anh tâm niệm: “Dạy - học là quá trình động, có sự thay đổi liên tục. Đặc biệt, mỗi lứa học sinh có đặc điểm tâm lý, nhận thức khác nhau nên để phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi em thì giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học”. Bởi vậy, trong quá trình giảng dạy, song song với việc trang bị kiến thức, thầy giáo trẻ thường xuyên nghiên cứu áp dụng những phương pháp và kỹ thuật dạy học mới, tìm tòi giải pháp hay giúp học sinh nhớ nhanh, nhớ lâu và nhớ sâu những kiến thức cơ bản của môn học. Anh cho biết: Hiện nay hầu hết các giáo viên đã thực hiện việc đổi mới bằng cách áp dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực để tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh, đem lại sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định như: Việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học ở nhiều trường hợp còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học. Quá trình triển khai thực hiện các kỹ thuật dạy học còn máy móc, cứng nhắc, thiếu linh hoạt nên mất nhiều thời gian, tốn nhiều công chuẩn bị mà hiệu quả hoạt động của học sinh lại không cao. Trên thực tế, còn một số giáo viên chỉ sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực theo phong trào, nghĩa là làm cho có, các thầy cô đó quan niệm càng sử dụng nhiều kỹ thuật dạy học tích cực càng tốt chứ chưa thật chú trọng đến hiệu quả. Phát huy tinh thần “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học, tự sáng tạo”, với phương châm “Lấy người học làm trung tâm”, từ khi ra trường tới nay, thầy giáo Đào Thanh Tuấn đã có nhiều sáng kiến được áp dụng mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy, được hội đồng sáng kiến cấp huyện, cấp sở, tỉnh nghiệm thu. Tiêu biểu là 2 sáng kiến cấp tỉnh: “Sáng tác và sử dụng thơ trong dạy học Sinh học 8 nhằm nâng cao sức hấp dẫn, hiệu quả môn học và phát triển nhân cách học sinh” và “Sử dụng giấy ghi việc (giấy note, giấy nhớ) giúp nâng cao hiệu quả dạy - học môn Khoa học Tự nhiên”. Ngoài ra, nhiều sáng kiến khác của anh cũng đã được triển khai cho tập thể giáo viên trong trường cùng áp dụng, đem lại hiệu quả rõ rệt: “Những khó khăn thường gặp trong dạy - học môn Khoa học Tự nhiên (Sinh - Hóa) cấp THCS và biện pháp khắc phục”; “Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng kỹ thuật khăn trải bàn trong dạy môn Khoa học Tự nhiên 6”; “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề trong môn Khoa học Tự nhiên 8”… Truyền cảm hứng cho học sinh qua những tiết học sinh động, hấp dẫn Nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi với trình độ chuyên môn vững vàng nhưng thầy giáo Đào Thanh Tuấn vẫn không ngừng học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp; tham khảo các loại tài liệu, sách báo để nâng cao kiến thức; tham gia các khóa học tập huấn nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Anh còn đứng ra chủ trì nhiều buổi tập huấn chuyên môn cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh về phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra, đánh giá… theo Chương trình phổ thông năm 2018. Anh đã giúp đỡ, bồi dưỡng 9 giáo viên dạy giỏi, trong đó có 2 người trở thành giáo viên giỏi cấp huyện, 7 người trở thành giáo viên giỏi cấp tỉnh. Anh rất tích cực tham gia công tác bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học kỹ thuật, thực hiện các dự án Stem. Nhiều năm liên tục các đội tuyển do anh phụ trách đều đạt kết quả cao. Thầy giáo Đào Thanh Tuấn tiết lộ, anh đang nghiên cứu thử nghiệm đề tài “Học mà chơi, chơi mà học” vào giảng dạy môn Khoa học Tự nhiên và đang ấp ủ dự định sẽ viết sách tham khảo về môn này. Đối với thầy, để chất lượng dạy học đạt được hiệu quả cao thì việc nắm bắt tâm lý, tâm tư nguyện vọng của mỗi học sinh là điều rất quan trọng; từ đó có sự chia sẻ, khích lệ và hỗ trợ các em một cách kịp thời, giảm bớt tâm lý căng thẳng trong mỗi giờ lên lớp. Đặc biệt, thầy còn lồng ghép giáo dục đạo đức, kỹ năng sống trong các tiết học để giúp các em học sinh hình thành thói quen tốt cho cuộc sống. Bằng sự yêu nghề, trách nhiệm của người thầy hết lòng vì học sinh, ngày ngày, thầy giáo Đào Thanh Tuấn vẫn miệt mài với niềm say mê “chèo lái con đò tri thức” đưa nhiều thế hệ học trò đến với tương lai tươi sáng. Phương Thanh      

Chủ tịch Công đoàn nhiệt tình và trách nhiệm

BTĐKT - Với vai trò là Chủ tịch Chủ tịch Công đoàn cơ sở Vườn Quốc gia Hoàng Liên (thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai), anh Nguyễn Duy Thịnh luôn quan tâm chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động. Bên cạnh việc thực hiện tốt vai trò của người cán bộ công đoàn, anh Thịnh còn tiên phong trong các phong trào thi đua của đơn vị, thị xã Sa Pa, công đoàn các cấp. Anh Nguyễn Duy Thịnh (thứ ba từ phải sang) được tuyên dương tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua đặc biệt chào mừng 70 năm thành lập Công đoàn Lào Cai Vườn Quốc gia Hoàng Liên hiện có 105 đoàn viên công đoàn, trong đó có 45 lao động nữ. Do đặc thù công việc địa bàn rộng, vùng núi, đi lại khó khăn, cán bộ ở đây không những phải có sức khỏe, nắm vững kiến thức chuyên môn về rừng, lâm sản mà còn cần có một trái tim và tinh thần thép, mưu trí, dũng cảm đấu tranh chống lâm tặc để bảo vệ rừng... Anh Thịnh luôn trăn trở: “Làm thế nào để ổn định và cải thiện đời sống của đoàn viên, người lao động, từ đó tạo động lực để mỗi đoàn viên, người lao động luôn gắn bó và hết lòng với công việc được giao”. Với suy nghĩ đó, trong nhiều năm qua, anh Thịnh đã cùng với tập thể lãnh đạo và Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở Vườn Quốc gia Hoàng Liên tổ chức, vận động đoàn viên, người lao động thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của công đoàn các cấp vào thực tế hoạt động tại đơn vị; thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo cấp ủy, công đoàn cấp trên; quản lý, sử dụng nguồn kinh phí công đoàn đúng theo quy định. Thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động: Thời gian làm việc, nghỉ ngơi, tiền lương, thưởng, khen thưởng, kỷ luật… và xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong đơn vị, đồng thời tạo việc làm ổn định cho công nhân, lao động, với thu nhập bình quân đối với công chức 11,6 triệu đồng/người/tháng, đối với viên chức 5,3 triệu đồng/người/tháng. Phối hợp chuyên môn xây dựng và thực hiện các chế độ khoán kinh phí hành chính, tiết kiệm chi tiêu, góp phần tăng thêm thu nhập cho đoàn viên, người lao động. Từ năm 2016 đến nay, anh Thịnh đã cùng tập thể Ban Chấp hành Công đoàn phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước với mục tiêu hiệu quả cao, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động và có nhiều sáng kiến cải tiến áp dụng vào công tác chuyên môn. Các phong trào thi đua đã được đông đảo đoàn viên, công nhân, lao động hăng hái tham gia, tiêu biểu như: Phong trào “Xanh - sạch - đẹp và đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động”, phong trào “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”, “Thi đua học tập nâng cao trình độ về mọi mặt”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”… Trong quá trình thực thi công việc chuyên môn và hoạt động công đoàn, anh và các cán bộ công đoàn cơ sở luôn lấy người lao động là trung tâm để thực hiện tốt các chế độ, chính sách có liên quan. Tất cả các quyền lợi của người lao động trong đơn vị được bảo đảm theo quy định. Anh Thịnh cùng với Ban Chấp hành công đoàn đã tích cực triển khai thực hiện nghị quyết đại hội công đoàn các cấp; tham mưu với ban thường vụ Đảng ủy, phối hợp Ban Giám đốc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đối thoại định kỳ và tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức. Vì vậy, trong những năm qua, tại đơn vị không xảy ra tranh chấp lao động tập thể, không có đơn thư khiếu kiện; đời sống việc làm của cán bộ, đoàn viên trong đơn vị được đảm bảo; quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động được quan tâm. Cán bộ, đoàn viên, người lao động yên tâm làm việc, gắn bó xây dựng Vườn Quốc gia Hoàng Liên ngày càng phát triển bền vững. Với vai trò là người cán bộ công đoàn, anh luôn lắng nghe và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những phản ánh, những vướng mắc của đoàn viên, qua đó tìm ra các giải pháp và hướng đi tích cực, tạo ra các phong trào thi đua thiết thực, nhiệt tình, đoàn kết, vững mạnh và làm nền tảng vững chắc để cán bộ, đoàn viên yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cùng với Ban Chấp hành công đoàn, anh luôn quan tâm thực hiện tốt các hoạt động thăm hỏi, kịp thời động viên, giúp đỡ đối với con gia đình đoàn viên, đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau hoặc bị tai nạn, bị ảnh hưởng do Covid-19 trong dịp Tết Nguyên đán, “Tháng Công nhân”, Chương trình “Tết Sum vầy”; tổ chức các ngày Tết Thiếu nhi và Tết Trung thu cho các cháu là con cán bộ, đoàn viên, người lao động... Ngoài ra, công đoàn còn phối hợp với chuyên môn tổ chức khám sức khỏe và khám bệnh nghề nghiệp định kỳ hằng năm cho 100% công nhân, lao động tại đơn vị, với tổng kinh phí trên 157 triệu đồng/năm. Với những đóng góp của anh trong hoạt động công đoàn, những năm qua công đoàn cơ sở Vương Quốc gia Hoàng Liên luôn đạt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Liên đoàn Lao động tỉnh, Liên đoàn Lao động thị xã Sa Pa ghi nhận thành tích và tặng thưởng. Về công tác chuyên môn, với nhiệm vụ là Phó Giám đốc được phân công phụ trách Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, anh Thịnh luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình là đoàn kết, quy tụ, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, quản lý. Anh thường xuyên có sự bàn bạc, thống nhất biện pháp thực hiện kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho từng tập thể, giao nhiệm vụ cho từng cá nhân phụ trách và chịu trách nhiệm. Anh đã có nhiều sáng kiến, đề tài nghiên cứu khoa học được công nhận: Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển cây đặc sản rừng (đảng sâm - Codonopsis javanica); khai thác và phát triển nguồn gien tam thất hoang và Hoàng Liên ô rô làm nguyên liệu sản xuất thuốc; nghiên cứu khai thác và phát triển nguồn gien Hoàng Liên gai làm nguyên liệu sản xuất thuốc. Các sáng kiến của anh đã được công nhận Đề tài cấp Nhà nước, được áp dụng trong lĩnh chuyên môn, có giá trị kinh tế cao tại tỉnh Lào Cai. Có thể thấy, dù ở bất cứ cương vị nào, anh cũng luôn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Anh Nguyễn Duy Thịnh đã vinh dự được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, nhiều năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, được các cấp, các ngành và công đoàn các cấp tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen. Những thành tích đã đạt được là phần thưởng xứng đáng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của anh, góp phần không nhỏ vào thành tích chung của đơn vị và phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn chung của thị xã Sa Pa. Bình Nguyên

Người thủ lĩnh “thắp lửa” cho phong trào phụ nữ

BTĐKT - Không những làm tốt vai trò của người đứng đầu tổ chức Hội phụ nữ, chị Nguyễn Thị Tâm, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) phường Hoàng Văn Thụ (TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) còn luôn hết lòng vì chị em phụ nữ. Chị luôn trăn trở suy nghĩ, sáng tạo, xây dựng những phong trào, mô hình hữu ích để tạo sân chơi, sự kết nối và thu hút các hội viên. Xác định: “Việc tập hợp, thu hút hội viên tham gia sinh hoạt Hội phụ nữ và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Hội phụ nữ là nhân tố quyết định của phong trào phụ nữ”, chị đã cùng tập thể Hội LHPN phường thực hiện nhiều cách làm sáng tạo, chú trọng xây dựng các mô hình, điển hình, coi đây là động lực để các phong trào thi đua, các cuộc vận động thực sự đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Chị Nguyễn Thị Tâm (người thứ 3 từ trái sang, hàng dưới) trao quà chương trình “Mẹ đỡ đầu” cho cháu Trần Tiến Đạt Chị Tâm cho biết, hiện phường Hoàng Văn Thụ có 18/18 chi hội, thực hiện hiệu quả các mô hình xây dựng đô thị văn minh gắn với cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” như: Mô hình “Chi hội phụ nữ tự quản xây dựng tuyến phố văn minh”, mô hình “Điển hình 5 không, 3 sạch”, “Đoạn đường hoa phụ nữ”, câu lạc bộ “Phòng, chống bạo lực gia đình - xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ và trẻ em”… Thông qua các phong trào đã xuất hiện nhiều điển hình tiêu biểu như: Mô hình “Đường hoa phụ nữ” của Chi hội phụ nữ Tổ 10. Chỉ từ một khu đất bỏ hoang, mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường, có nhiều ý kiến tại các cuộc tiếp xúc cử tri nhưng nhờ sự nhiệt tình, tâm huyết, khéo léo của cán bộ, hội viên phụ nữ, khu vực này đến nay đã trở thành một vườn hoa đa sắc màu. Hay như mô hình dân vận khéo của Chi hội phụ nữ Tổ 6 đã vận động nhân dân hiến đất làm đường với tổng trị giá trên 119 triệu đồng, được Chủ tịch UBND tỉnh khen thưởng năm 2022. Chị cùng Ban Chỉ đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ phường thường xuyên chỉ đạo các cấp hội duy trì và nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế, hỗ trợ các gia đình chính sách, hội viên phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn như: Mô hình tiết kiệm tại chi tổ, “Nuôi heo đất”, “Tiết kiệm vốn xoay vòng”… “Riêng với mô hình “Nuôi heo đất”, các hội viên thu gom rác thải tái chế bán và sử dụng các khoản tiền đó nuôi lợn nhựa tiết kiệm, từ số tiền tiết kiệm thu được, chi hội cho chị em có hoàn cảnh khó khăn vay vốn phát triển kinh tế; tặng quà cho hội viên phụ nữ nghèo trong dịp lễ, tết và khen thưởng cho các hội viên tiêu biểu… Hiện số tiền tiết kiệm từ mô hình “Nuôi heo đất” là trên 477 triệu đồng cho 40 chị vay với tổng số tiền là 390 triệu đồng”, chị Tâm chia sẻ. Bên cạnh đó, với vai trò là người đứng đầu, chị Tâm thường xuyên chỉ đạo các cấp Hội phụ nữ tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp; tăng cường nắm bắt tình hình tư tưởng cán bộ, hội viên phụ nữ và nhân dân trên địa bàn, tích cực tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện giải phóng mặt bằng các dự án, công trình trọng điểm của tỉnh, thành phố trên địa bàn phường... Với những cách làm sáng tạo, hiệu quả, các mô hình, điển hình đã mang lại lợi ích thiết thực cho cán bộ, hội viên phụ nữ. Đến nay, Hội phụ nữ đã phát triển 569 hội viên so với đầu nhiệm kỳ, vượt chỉ tiêu đề ra. Chị Nguyễn Thị Tâm được biểu dương Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở giỏi toàn quốc năm 2023 Không chỉ làm tốt công tác hội, chị Tâm luôn gương mẫu đi đầu trong thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Hàng năm, gia đình chị đều đạt danh hiệu “Gia đình 5 không 3 sạch” và danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Gia đình văn hóa tiêu biểu”... Hơn 17 năm gắn bó với tổ chức Hội phụ nữ, chị Tâm đã không ngừng nỗ lực học tập, trau dồi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng; gương mẫu, tâm huyết, trăn trở và hy sinh với công tác hội ở địa phương. Là một phường trung tâm của thành phố, công tác hội cũng đặt ra nhiều yêu cầu, khó khăn, thách thức nhưng chị cùng tập thể Ban Chấp hành Hội LHPN đã phường lãnh đạo và tổ chức các phong trào, các cuộc vận động đạt nhiều kết quả tích cực, trở thành điểm sáng được các cấp Hội phụ nữ ghi nhận. Với những kết quả đã đạt được, chị Nguyễn Thị Tâm vinh dự được nhận Bằng khen của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh và Hội LHPN tỉnh Thái Nguyên cùng nhiều giấy khen của Hội LHPN thành phố, Đảng ủy, UBND phường Hoàng Văn Thụ. Tùng Chi  

Giữ gìn màu xanh cho những cánh rừng

BTĐKT - 50 năm qua, trên khắp các cánh rừng Việt Nam không nơi nào thiếu dấu chân của lực lượng kiểm lâm và các lực lượng bảo vệ rừng. Lực lượng kiểm lâm đã không ngừng rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành cả về phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, ở mỗi giai đoạn lịch sử, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong lực lượng Kiểm lâm Việt Nam và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đổ mồ hôi, máu xương để bảo vệ rừng; tích cực, chủ động tham mưu cho chính quyền các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lâm nghiệp, khẳng định được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho Cục Kiểm lâm Ông Bùi Chính Nghĩa, Cục trưởng Cục Kiểm lâm cho biết: Ngành Kiểm lâm đã chủ động tham mưu, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng và phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn. Từ Pháp lệnh Bảo vệ rừng năm 1972, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), đến Luật Lâm nghiệp năm 2017 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành để hướng dẫn, cụ thể hóa luật; các văn bản này đã cơ bản bao quát, điều chỉnh mọi hành vi xã hội trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng và quản lý lâm sản; nhiều chính sách, cơ chế mới và xã hội hóa được ban hành, từng bước đáp ứng yêu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Theo ông Nghĩa, cuộc đấu tranh bảo vệ rừng luôn diễn ra âm thầm nhưng đầy cam go, phức tạp; có lúc, có nơi trở thành “điểm nóng”. Tính từ năm 2010 đến nay có 12 chiến sĩ kiểm lâm đã mãi mãi ra đi, trong đó có những người nằm xuống khi tuổi xuân còn đang phơi phới; có đến 452 chiến sĩ đã mất mát một phần cơ thể hay phải chịu đựng thương tật suốt đời. Tuy nhiên, lực lượng kiểm lâm luôn kiên trì đấu tranh, phát huy trí tuệ, bản lĩnh của người cán bộ kiểm lâm, giữ gìn màu xanh cho những cánh rừng. Nhờ đó, công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, quản lý lâm sản có nhiều tiến bộ, tình trạng vi phạm các quy định pháp luật về quản lý bảo vệ rừng giảm dần qua từng năm. Thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng, lực lượng kiểm lâm đã tham gia tích cực công tác quy hoạch, định hình lâm phần ổn định; bước đầu đã hoàn thành việc rà soát, quy hoạch 3 loại rừng làm cơ sở cho việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở địa phương. Lực lượng kiểm lâm đã tổ chức giao hàng triệu héc-ta rừng cho các chủ thể quản lý; hướng dẫn hàng nghìn cộng đồng dân cư thôn, bản xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước bảo vệ rừng. Đồng thời, thành lập các tổ, đội quần chúng bảo vệ rừng ở cơ sở; phân công cán bộ kiểm lâm về phụ trách địa bàn, trực tiếp tham mưu cho chính quyền cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Lực lượng kiểm lâm đã tham gia tích cực công tác quy hoạch, định hình lâm phần Những biện pháp đồng bộ theo chủ trương xã hội hóa được thực hiện đã góp phần nâng độ che phủ rừng của nước ta đạt 42,02%. Đến nay cả nước có trên 14,7 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên là 10,2 triệu ha, rừng trồng là 4,5 triệu ha. Công tác kiểm tra, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng ngày càng đi vào nền nếp và hiệu quả hơn. Lực lượng kiểm lâm đã làm tốt vai trò tham mưu cho chính quyền các cấp và phối hợp với các cơ quan công an, quân đội, dân quân tự vệ thực hiện các hoạt động này. Đặc biệt, lực lượng kiểm lâm đã góp phần tích cực vào công tác bảo vệ các hệ sinh thái rừng tự nhiên trên địa bàn cả nước; tham gia tích cực các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Trước xu thế phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng kiểm lâm đã sớm tiếp cận, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ như: Hệ thống theo dõi cháy rừng trực tuyến (Firewach), hệ thống cảnh báo nguy cơ cháy rừng, hệ thống phần mềm theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, phần mềm theo dõi, quản lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp và nhiều phần mềm ứng dụng khác nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và góp phần cải cách hành chính. Lực lượng kiểm lâm ngày càng được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức kiểm lâm luôn được coi trọng, mỗi năm có hàng trăm lượt công chức kiểm lâm được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác; gắn liền công tác đào tạo với công tác xây dựng lực lượng. Những năm qua, lực lượng kiểm lâm toàn quốc đẩy mạnh thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tha hóa, biến chất; xử lý nghiêm túc những cán bộ, công chức kiểm lâm biến chất, vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, làm trong sạch đội ngũ kiểm lâm. Với những thành tích đạt được, lực lượng Kiểm lâm Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác. Chặng đường sắp tới, lực lượng kiểm lâm tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thách thức như yêu cầu ngày càng cao về nhiệm vụ; áp lực của sự phát triển và bùng nổ của khoa học công nghệ đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức kiểm lâm cần phải thay đổi tư duy theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng… Bình Nguyên

Trưởng bản gương mẫu giúp dân xây dựng đời sống văn hóa mới

BTĐKT - Nhiều năm làm công việc “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng”, nhưng anh Thao Văn Dia, Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa chưa khi nào chùn bước mà vẫn luôn nhiệt huyết với công việc. Không kể nắng hay mưa, dù đường xa hiểm trở, anh vẫn lặn lội ra xã, huyện để báo cáo công việc, đi lấy giống vật nuôi, cây trồng, hay học tập kiến thức mới để về truyền đạt lại cho dân. Nhờ những nỗ lực của anh, giờ đây ở bản Mùa Xuân, hủ tục lạc hậu dần được đẩy lùi, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được cải thiện đáng kể. Anh Thao Văn Dia, Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản Mùa Xuân báo cáo tại Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Thanh Hóa lần thứ X, giai đoạn 2020 - 2025 Bản Mùa Xuân cách trung tâm xã hơn 15 km đường rừng, dốc đèo hiểm trở, đi lại khó khăn, nên bản gần như biệt lập với thế giới bên ngoài. Cũng như ở phần lớn các bản vùng cao khác, cuộc sống của đồng bào người Mông trước đây gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân chính là do bà con bị trói buộc bởi những phong tục, tập quán lạc hậu như: Hiện tượng tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tục thách cưới cao, tổ chức tiệc cưới linh đình; tục mổ nhiều trâu để làm ma cho người chết; tục để xác người chết trong nhà nhiều ngày rồi mới đưa đi an táng; tập quán thả rông gia súc, đốt rừng làm nương rẫy… Để loại bỏ những hủ tục ra khỏi đời sống của người dân vùng cao là việc làm không hề đơn giản. Được nhân dân tín nhiệm bầu làm Bí thư chi bộ kiêm Trưởng bản, nhận thức được rằng đẩy lùi hủ tục là vấn đề then chốt để mở đường phát triển kinh tế - xã hội ở một bản vùng cao nghèo khó như bản Mùa Xuân, anh Thao Văn Dia cùng với tập thể chi ủy, ban quản lý bản đã tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới, trọng tâm là vận động người dân cải tạo những phong tục, tập quán lạc hậu. Anh Thao Văn Dia cùng các ngành của huyện, lãnh đạo xã đến nhà dân tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật Xác định vấn đề cốt lõi là nâng cao nhận thức của nhân dân, anh đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, vận động; ngoài ra, tranh thủ sự ủng hộ và nêu cao vai trò của cán bộ, đảng viên, già làng, trưởng bản, người uy tín trong bản, trong dòng họ… Anh cho biết: “Tâm lý của phần đông đồng bào dân tộc Mông là chỉ tin vào những điều “mắt thấy, tai nghe”. Do đó, những việc làm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, già làng, trưởng bản, người uy tín trong bản, trong dòng họ đối với việc xóa bỏ tập quán lạc hậu, xây dựng văn hóa mới sẽ có giá trị thuyết phục to lớn trong vận động bà con làm theo”. Nghĩ là làm, anh mạnh dạn đề xuất thành lập tổ tuyên truyền xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của bản và xung phong nhận nhiệm vụ tổ trưởng. Các thành viên trong tổ bao gồm ban quản lý bản, chi hội trưởng chi hội phụ nữ, bí thư chi đoàn thanh niên, chi hội trưởng chi hội nông dân, cựu chiến binh. Đối với từng hủ tục, anh cùng các thành viên trong tổ đã tìm hiểu, xác định nguyên nhân và tìm ra phương hướng khắc phục cụ thể. Tổ tập trung vào việc phát huy vai trò của những già làng, trưởng dòng họ, những người có uy tín trong cộng đồng; nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Tổ phân công cho từng thành viên trực tiếp phụ trách các nhóm hộ cụ thể, thường xuyên đến thăm hỏi, trò chuyện, tạo mối quan hệ thân tình với từng hộ gia đình, qua đó, tuyên truyền về tác hại, hệ lụy của các hủ tục đối với đời sống người dân. Đồng thời, ban quản lý bản đã xây dựng được quy ước phù hợp với tình hình thực tế của bản và lấy ý kiến nhân dân trong các buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nội dung không thể thiếu trong những bản quy ước đó là: Không được thả rông gia súc, không nuôi nhốt gia súc dưới sàn nhà sàn; ăn sạch, ở sạch; không đốt nương làm rẫy, không sinh con thứ ba, không để xảy ra tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết; không thách cưới cao, không tổ chức tiệc cưới linh đình; không mổ nhiều trâu, bò để làm ma cho người chết; không để xác người chết trong nhà nhiều ngày rồi mới đưa đi an táng… Với sự cố gắng nỗ lực của trưởng bản Thao Văn Dia, chi ủy, ban quản lý bản, tổ tuyên truyền, cùng với ý chí vươn lên của chính người dân, đến nay, 100% các hộ dân trong bản đã có chuồng nuôi gia súc bảo đảm hợp vệ sinh. Khi ốm đau, bệnh tật, bà con đã đưa người ốm đi khám, điều trị tại các cơ sở y tế. Trong toàn bản, 100% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đều thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình; tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết đã được chấm dứt hoàn toàn; 100% trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường. Bà con tổ chức tang ma gọn nhẹ, không tốn kém. Việc canh tác lúa nước 2 vụ/năm đã được thực hiện nhằm góp phần chấm dứt việc đốt rừng làm nương rẫy. Nhiều hộ đã khai hoang mở rộng diện tích ruộng để canh tác lúa nước; nhiều diện tích đất hoang hóa đã được chuyển đổi sang trồng rừng và trồng cây ăn quả… Người dân luôn tin tưởng và một lòng theo Đảng. Có được những kết quả trên, Thao Văn Dia chia sẻ, anh rất vui vì đã góp một phần công sức nhỏ bé đẩy lùi các hủ tục lạc hậu; mong muốn của bà con và của anh đã thành hiện thực. “Bản Mùa Xuân hôm nay tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng do xuất phát điểm thấp nên đời sống của bà con vẫn còn gặp khó khăn về nhiều mặt. Tôi và dân bản chỉ ước mong sao con đường từ trung tâm xã lên bản được thông suốt, để người dân đi lại thuận tiện, học sinh thích đi học hơn, những thầy cô cắm bản đỡ vất vả hơn mỗi lần xuôi ngược. Cũng mong Nhà nước quan tâm để bà con có điện lưới cho đỡ khổ”, Trưởng bản Thao Văn Dia chia sẻ. Nguyệt Hà

Trang