Hiện nay, ngôi trường mang tên nhà bác học Lê Quý Đôn là một trong những trường đẹp nhất của Hải Phòng đồng thời là một trong những địa chỉ giáo dục uy tín của ngành giáo dục thành phố. Ngày đầu thành lập, trường mang tên Phổ thông cấp III Hải An. Đến ngày 4/9/1984, UBND thành phố quyết định đổi tên thành trường PTTH Lê Quý Đôn, nay là trường THPT Lê Quý Đôn. Từ khi ra đời đến nay, trường đã chuyển qua nhiều địa điểm: Ở xã Đằng Hải (nay thuộc quận Hải An) từ 1965 - 1969, về xã Đằng Giang (nay thuộc quận Ngô Quyền) từ 1970 - 1976, về Cát Bi từ 1976 đến nay.
Quá trình 60 năm xây dựng và trưởng thành được đánh dấu bằng những giai đoạn không thể nào quên.
Những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ (1965- 1975)
Những thử thách khốc liệt
Mùa hè năm 1965, giữa lúc giặc Mĩ leo thang bắn phá ác liệt nhất ở miền Bắc, đặc biệt phong tỏa Cảng Hải Phòng, Trường phổ thông cấp III Hải An - THPT Lê Quý Đôn đã được thành lập trên đất của làng lúa, làng hoa xã Đằng Hải.
Trong buổi đầu sơ khai, trường chỉ mới vẻn vẹn có 5 lớp: 3 lớp 8, một lớp 9 và một lớp 10 (tương đương với các lớp 10, 11, 12 hiện nay). Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Nguyễn Văn Dinh, Hiệu phó là cô Nguyễn Thị Kim Dung, Bí thư chi bộ là thầy Võ Dật, thư kí công đoàn là cô Đinh Xuân Tịnh, phụ trách đoàn trường là thầy Đinh Quang Hậu, văn thư là cô Chức, cấp dưỡng lao công là bà Nghiêm, cô Mà. Thầy cô giáo được chuyển về từ nhiều trường khác nhau, tất cả chỉ có 14 người được chia làm hai tổ: Tổ xã hội do thầy Trần Tám làm tổ trưởng, tổ tự nhiên do thầy Trâm làm tổ trưởng sau đó mới dần được bổ sung thêm. Cơ sở vật chất buổi ban đầu của trường hầu như chưa có gì. “Đại bản doanh” của ban giám hiệu và văn phòng nhà trường được đặt ở miếu “Hai cây thông”. Lớp học chủ yếu phải học nhờ, học tạm ở các đình, chùa và nhà dân hoặc dựng tạm bằng tranh, tre, nứa, lá, vách đất. Xung quanh lớp học là hệ thống giao thông hào, liên thông với hầm kèo chữ “A” tại Hạ Lũng, Lũng Bắc, Lũng Đông... Năm 1970, trường chuyển về vị trí mới tại khu nhà thờ thôn Nam Pháp I xã Đằng Giang (nay là phường Gia Viên). Cơ sở vật chất khang trang hơn nhưng do số học sinh đông nên trường mượn thêm một dãy nhà cấp 4 gồm 5 phòng học tại khu trường cấp I + II Cát Bi (nay là trường THCS Lê Lợi). Hoạt động dạy và học vì vậy chưa tập trung, phải diễn ra ở hai khu: Khu Nam Pháp và khu Cát Bi. Không những thế, điều kiện sinh hoạt của thầy và trò thiếu thốn mọi thứ, giặc Mĩ lại thường xuyên bắn phá...
Những “giai điệu tự hào”
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, các thầy cô giáo đã vượt qua những thử thách khốc liệt nêu trên, thực sự gắn bó, hi sinh, tâm huyết với sự nghiệp “trồng người”. Để bảo đảm an toàn cho học sinh trước sự bắn phá ác liệt của giặc Mĩ, lớp học đã chia nhỏ thành 4 tổ, mỗi tổ học nhờ ở một nhà dân. Một bài dạy thầy phải đến 4 nơi, dạy cho từng tổ nhóm học trò... Kết quả là, thầy và trò nhà trường vẫn thực hiện dạy tốt, học tốt, tham gia kháng chiến chống Mĩ thắng lợi trên mặt trận văn hóa giáo dục. Lớp 10 đầu tiên đỗ tốt nghiệp 100 %. “Từ mái trường này” bước vào cuộc sống, nhiều học sinh đã trưởng thành: Là chiến sĩ, sĩ quan quân đội, là các nhà quản lý lãnh đạo Đảng, lãnh đạo chính quyền các ngành, các cấp... Đó là trung tướng Nguyễn Lân - nguyên Tư lệnh trưởng Quân khu 3, Khoa Năng Chính - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường đại học Hàng Hải, Phạm Thị Cương - nguyên Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, Phạm Thành Văn - Thành ủy viên, nguyên Bí thư quận ủy Hải An...
Không những thế, thầy và trò toàn trường còn tích cực tham gia các công tác xã hội của địa phương như đào hầm tránh bom đạn, trồng cây xanh ven đường, làm vệ sinh môi trường, vận chuyển đạn cho bộ đội pháo, tham gia lao động sản xuất cũng như nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ khác. Càng gian khổ thì tình nghĩa thầy - trò, tình nghĩa giữa thầy trò với nhân dân địa phương lại càng gắn bó, để lại những kỉ niệm đẹp không thể nào quên.
Đặc biệt, những năm 1966 - 1967, nhiều học sinh nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, vào sâu trong các chiến trường, lập được nhiều chiến công. Một số học sinh đã anh dũng hi sinh, tô thắm thêm truyền thống yêu nước của nhà trường, của quê hương đất nước như Nguyễn Văn Ái, Phùng Văn Bất, Vũ Văn Thuận, Nguyễn Đức Lanh...
Hồi tưởng lại những năm tháng gian khổ mà đẹp đẽ, hào hùng ấy, trước sự trưởng thành của mình, của bạn bè cùng thế hệ với mình, học trò Đỗ Doãn Ngoại đã viết những lời tri ân đầy xúc động trong bức thư gửi thầy giáo chủ nhiệm Trần Tám: “Ở các lớp sơ tán hẻo lánh, dưới chân bàn là giao thông hào chống bom bi, bom phá, trong tiếng rít của từng đàn phản lực Mĩ, thầy và chúng em vẫn bình thơ giảng văn, xen lẫn tiếng bom nổ và tiếng đạn vây quanh. Có lẽ lúc ấy, thầy cũng không thể hiểu mấy chục học trò yêu quý trẻ măng và còn rất ngây thơ của thầy, đang nghe giảng, họ nghe cái gì. Họ nghe thơ văn hay nghe tiếng nổ của bom của đạn? Thưa thầy, lúc ấy chúng em nghe tất cả: Nghe thơ và lắng nghe cả tiếng bom tiếng đạn. Bằng chứng là chúng em vẫn đi dự đều đặn những buổi dạy thơ văn của thầy, mang nón rơm chống mảnh bom theo mình và trả văn cho thầy bằng những bài văn hay nhất của mình. Bằng chứng là khi lửa chiến tranh cháy trên quê hương đất nước, không ai có thể ngồi yên thì số lớn học sinh của trường- riêng một lớp do thầy chủ nhiệm, đã có 13 học sinh lên đường nhập ngũ... Một số chúng em đã anh dũng ngã xuống, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó là những học trò tuyệt vời chung thủy với tình yêu đất nước, cửa nhà, văn học ngụ ngôn...mà cái công khơi nguồn trước hết phải kể đến một phần qua các bài giảng của các thầy cô...”.
Những kết quả đáng tự hào ấy không chỉ là cơ sở, là điều kiện tạo dựng niềm tin yêu của nhân dân, của các thế hệ học trò mà còn là cơ sở, là nền móng vững chắc làm nên thương hiệu và uy tín của nhà trường. Từ những bước đi ban đầu, trải qua những sự kiện đã nêu trên, trường cũng sớm tìm ra cho mình một hướng đi, một cách đi phù hợp cho từng bước xây dựng và phát triển ở chặng đường tiếp theo.
Những năm trong hòa bình xây dựng (từ 1976 đến nay)
Trường chuyển đổi địa điểm, đổi tên trường, trở thành trung tâm nổi tiếng về lao động sản xuất, hướng nghiệp, dạy nghề
Cuối năm 1976, trường được tiếp quản dãy nhà B - UNICEF và khu xưởng trường của ngôi trường do UNICEF viện trợ. Cuối năm 1977, trường tiếp nhận toàn bộ khu trường do UNICEF viện trợ (thêm một dãy nhà A và khu văn phòng hành chính hiệu bộ) trên đất phường Cát Bi. Tại đây, cơ sở vật chất khang trang hơn, thuận lợi hơn cho các hoạt động dạy và học. Nhưng địa bàn mà trường đứng chân lại là một phường ven nội có nhiều diễn biến phức tạp, những tiêu cực xã hội luôn rình rập, tiến công vào trường, đặt nhà trường trước những thách thức gay gắt.
Ngày 4/9/1984, UBND thành phố quyết định đổi tên Trường phổ thông cấp III Hải An thành trường THPT Lê Quý Đôn - tên một nhà bác học, một danh nho sừng sững một thời. Đó là niềm tự hào của thầy và trò các thế hệ, là động lực chính đồng thời cũng là thử thách lớn với thầy và trò nhà trường trong phong trào thi đua dạy tốt, học tốt để xứng đáng với tên tuổi của danh nhân Lê Quý Đôn.
Không những thế, từ năm 1981 đến năm 1991, thực hiện quyết định của Hội đồng Bộ trường, bên cạnh nhiệm vụ dạy chữ, dạy người, nhà trường còn phải đảm nhận trọng trách hướng nghiệp, dạy nghề. Thông tư số 31 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện quyết định này chỉ rõ: “Trong nhà trường phổ thông, hướng nghiệp là bộ phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông. Thực hiện công tác hướng nghiệp là một yêu cầu cần thiết của cải cách giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nguyên lý và nội dung giáo dục của Đảng; góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân công và sử dụng hợp lý học sinh sau khi tốt nghiệp. Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông nhằm mục đích bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, đồng thời phù hợp với thể lực và năng khiếu của cá nhân”. Đây là một yêu cầu mới và hết sức khó khăn trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất, về kinh nghiệm, về đội ngũ giảng dạy của các trường phổ thông nói chung và Trường cấp III Hải An - THPT Lê Quý Đôn nói riêng.
Mặt khác, xét trong bối cảnh chung của đất nước và thành phố, 10 năm (1981 - 1991) cũng là những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ của thời kì bao cấp và mới xóa bao cấp.
Trước những thách thức lớn nêu trên, tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường đã tiếp nối truyền thống, phát huy tính chủ động, sáng tạo để đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Hằng năm, học sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đại học, cao đẳng đạt tỷ lệ cao, có học sinh đạt giải khuyến khích văn toàn quốc năm 1985, có học sinh tham dự giọng hát trẻ toàn quốc năm 1991... Đặc biệt, trường đã trở thành một trung tâm vào loại nổi tiếng nhất về lao động sản xuất - hướng nghiệp - dạy nghề của thành phố, được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá cao, nhiều lãnh đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường của Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Hậu Giang, Hà Nội, Thái Bình, Lạng Sơn và hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường THPT trong thành phố tới thăm, giao lưu, trao đổi rút kinh nghiệm.
Cách làm của trường thể hiện tính năng động, sáng tạo và rất hiệu quả: Mở rộng cửa trường, kết nghĩa với các nhà máy, xí nghiệp, nhờ những đơn vị sản xuất này dạy nghề cho học sinh; thành lập xưởng trường, trang bị máy móc thiết bị cho xưởng trường; “tầm sư học đạo” đi tận Thanh Hóa, Ninh Bình tìm thợ đúc kim loại màu; liên kết sản xuất với 20 nhà máy, xí nghiệp tại trung ương và địa phương. Việc kinh doanh có lãi góp phần cải thiện đời sống giáo viên, góp phần xây dựng cơ sở vật chất trường học...
Một thương hiệu đã được khẳng định
Tháng 6 năm 1991, đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Bản cương lĩnh khẳng định: Phát triển giáo dục - đào tạo quốc sách là hàng đầu. Các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng tiếp theo vẫn thống nhất quan điểm chỉ đạo nêu trên; nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo: Giáo dục đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của giáo dục đào tạo: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, có thể nói, đổi mới đã trở thành một yêu cầu cấp bách, sống còn đồng thời cũng là một thử thách to lớn, vô cùng khó khăn đối với toàn ngành nói chung, đối với trường THPT Lê Quý Đôn nói riêng.
Trong bối cảnh ấy, trường THPT Lê Quý Đôn lại tiếp tục đổi mới, điều chỉnh các yêu cầu và giải pháp thực hiện. Đặc biệt, từ năm 2003, tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường đổi mới quyết liệt, quyết tâm đưa trường phát triển toàn diện, mạnh mẽ theo hướng hiện đại và chuẩn hóa để xứng danh với tên tuổi nhà bác học Lê Quý Đôn. Nỗ lực không ngừng ấy đã được đền đáp xứng đáng bằng những thành tích nổi bật sau:
* Cơ sở vật chất khang trang, hiện đại
Trường THPT Lê Quý Đôn hiện là một trong những trường THPT lớn nhất và đẹp nhất thành phố. Diện tích khuôn viên nhà trường là 13.000 m2, với 40 phòng học, 5 phòng học bộ môn, phòng vi tính, hội trường, phòng truyền thống, thư viện đủ sách báo, các thiết bị công nghệ thông tin đáp ứng tối đa nhu cầu dạy và học trong tình hình giáo dục hiện nay. Các tổ chuyên môn có văn phòng tổ riêng, được trang bị máy tính để bàn, máy vi tính xách tay, máy Projecter và màn hình để phục vụ dạy - học. Những năm gần đây, nhiều công trình được làm mới, cải tạo như cổng trường, sân khấu, hệ thống vườn hoa, cây cảnh, sửa chữa phòng chờ giáo viên, khu nhà xe giáo viên và khu hiệu bộ, khu vệ sinh giáo viên và học sinh... Cảnh quan nhà trường luôn xanh - sạch - đẹp, dần đáp ứng được yêu cầu dạy và học theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
* Đội ngũ giáo viên được trẻ hóa, đạt chuẩn và trên chuẩn
Hiện nay, số lượng giáo viên là 92 đồng chí, 100% đạt chuẩn, 48% trên chuẩn, nhiều thầy cô giáo đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp thành phố, cấp cơ sở, được nhận Bằng khen của Thủ tướng chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bằng khen của Công đoàn Giáo dục Việt Nam, của Liên đoàn Lao động thành phố. Đặc biệt, nhiều thầy cô giáo đã được tôn vinh là nhà giáo tiêu biểu ở cấp cơ sở, cấp thành phố.
* Chất lượng giáo dục luôn nằm trong top những trường dẫn đầu thành phố
Trong quá trình phát triển, trường đã từng nằm trong top 100, 200 trường có kết quả xét tuyển vào đại học cao nhất cả nước. Hiện nay, điểm thi vào THPT, kết quả thi học sinh giỏi, thi đỗ vào đại học, cao đẳng của trường THPT Lê Quý Đôn luôn nằm trong top những trường dẫn đầu thành phố. Hàng năm, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp từ 99,97 % đến 100%. Những năm gần đây, bình quân trên 95 - 99 % học sinh có kết quả rèn luyện tốt, 90 - 95 % học sinh đạt học lực tốt; có học sinh đạt giải học sinh giỏi thành phố top đầu các trường THPT toàn thành phố; nhiều học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi tuyển sinh đại học và được biểu dương, vinh danh tại đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bên cạnh đó, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động tình nguyện, từ thiện... luôn được đổi mới, hướng vào chiều sâu nên đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
Chất lượng giáo dục không ngừng được nâng cao đã làm nên thương hiệu, vị thế và uy tín của nhà trường trong nhiều năm gần đây, đưa nhà trường trở thành một địa chỉ giáo dục tin cậy của địa phương và nhân dân thành phố Cảng. Hiện nay, trường THPT Lê Quý Đôn là một trong số ít các trường THPT trên địa bàn thành phố đạt chuẩn quốc gia, được UBND TP Hải Phòng công nhận đạt chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 3 (cấp độ cao nhất).
Với những thành tích xuất sắc nêu trên, trường đã vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Ba năm 1992, 2008, Bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bằng khen và Cờ thi đua xuất sắc của UBND thành phố Hải Phòng cùng với nhiều phần thưởng cao quý khác. Trong bước đường tiến tới, trường THPT Lê Quý Đôn tập trung mọi tâm huyết, trí tuệ và công sức, phấn đấu đạt chuẩn Quốc giai giai đoạn II và vươn lên trở thành trung tâm giáo dục chất lượng cao của thành phố.
Những bước đi đúng hướng, hiệu quả, vững chắc của nhà trường 60 năm qua báo hiệu một tương lai phát triển rực rỡ của nhà trường trong những năm tới.